RFI - ngày 17 tháng mười một năm 2014
Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang (T) và đồng nhiệm Trung Quốc Tập Cận Bình - REUTERS
Sách
lược chiêu dụ các láng giềng của Trung Quốc đang tiếp tục được các lãnh
đạo nước này triển khai đặc biệt nhắm vào ASEAN và Việt Nam. Trên hiện
trường, chiến lược tằm ăn dâu vẫn tiếp diễn, Trung Quốc được cho là sẽ
lại hung hãn trong trung hạn.
Trước
Quốc hội Úc vào hôm nay, 17/11/2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
đã lại lên tiếng khẳng định rằng nước ông sẽ không bao giờ dùng sức mạnh
để đạt mục đích và Bắc Kinh luôn mong muốn giải quyết hòa bình các
tranh chấp trên biển với các nước láng giềng.
Tuyên
bố hết mực hòa hoãn của nhân vật số một tại Trung Quốc nằm trong một
loạt những động thái mềm mỏng gần đây của Bắc Kinh, kèm theo những cử
chỉ thân thiện, và hào phóng nhắm vào tất cả các nước – trong đó có Việt
Nam - mà chỉ cách nay vài tháng, còn phải gồng mình chịu đựng các hành
vi lấn lướt của Trung Quốc nhằm áp đặt chủ quyền của họ trên biển.
Cuộc
phản công ngoại giao trên đây tuy nhiên đã bị giới phân tích xem là
biểu hiện của chính sách cây gậy và củ cà rốt cố hữu của Bắc Kinh mà mục
tiêu tối hậu vẫn là thâu tóm 90% Biển Đông về mình.
Đối
với Việt Nam thái độ chiêu dụ của Trung Quốc thể hiện rất rõ đặc biệt
từ tháng Bẩy đến nay, với một loạt những chuyến viếng thăm lẫn nhau và
những cuộc gặp cấp cao, trong đó Bắc Kinh chỉ có những lời lẽ hòa dịu,
công nhận là quan hệ đôi bên có lúc trồi lúc sụt, những nhìn chung đều
tốt đẹp, và cả hai cần chú ý đến đại cục được tô vẽ là rất sáng sủa.
Tính
ra, trong vỏn vẹn vài tháng, đã có những cuộc gặp thượng đỉnh giữa hai
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình bên lề Hội nghị Thượng
đỉnh APEC tại Bắc Kinh, giữa hai Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Lý Khắc
Cường bên lề Hội nghị Thượng đỉnh Á Âu tại Malano.
Chuyến
công du Việt Nam lần thứ hai của Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc đặc trách
đối ngoại Dương Khiết Trì, chuyến công du Bắc Kinh của đặc sứ Việt Nam
Lê Hồng Anh, và nhất là chuyến thăm Trung Quốc của một phái đoàn tướng
lãnh Việt Nam hùng hậu, do Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang
Thanh đầu, và được phía Trung Quốc đón tiếp một cách rất thân tình.
Không
khí hòa dịu kể trên trái ngược hẳn với tình hình căng thẳng hồi xảy ra
vụ giàn khoan HD-981 khi giới lãnh đạo Việt Nam không tài nào liên lạc
được phía Trung Quốc, trong lúc báo chí nước này liên tục nã pháo vào
Việt Nam.
Thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc : Lý Khắc Cường tự kiểm duyệt
Thái
độ hòa hoãn của Trung Quốc cũng đã đặc biệt được ghi nhận tại Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc ngày 13/11/2014, tại thủ đô Miến Điện, khi
mà Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã xóa bỏ vào giờ chót khỏi bài
diễn văn của mình một số từ ngữ được cho là có khả năng làm các đối tác
Đông Nam Á trong đó có Việt Nam phật ý.
Theo
ghi nhận của đặc phái viên ban Hoa ngữ RFI theo dõi cuộc họp, thì các
từ ngữ này được ghi trong bản thông cáo được phân phát cho các nhà báo
trước lúc cuộc họp mở ra, nhưng khi lên tiếng trước các đồng cấp ASEAN,
Thủ tướng Trung Quốc đã lược bỏ hẳn những từ ngữ này.
Bản
thân ông Lý Khắc Cường đã đến cuộc họp trễ hơn 1 tiếng rưỡi đồng hồ so
với chương trình dự kiến. Theo các nhà quan sát, lý do có thể là vì các
cuộc đàm phán giữa hai bên ASEAN và Trung Quốc về nội dung và ngôn từ
bản thông cáo chung công bố sau cuộc họp đã kéo dài cho đến phút cuối
cùng, đặc biệt là với việc hai phái đoàn Việt Nam và Philippines có dấu
hiệu rất kiên quyết trước Trung Quốc.
Theo
ghi nhận của đặc phái viên RFI, đoạn văn trong bài diễn văn trong đó
Trung Quốc cam kết « bảo vệ chủ quyền của mình ở Biển Đông » đã bị xóa
khỏi bài phát biểu, và Thủ tướng Trung Quốc đã chủ trương gợi lên tình
hữu nghị với các nước trong khu vực và lợi ích trong việc phát triển
thương mại ASEAN-Trung Quốc.
Về
Biển Đông, cản lực chủ chốt trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc, Thủ tướng
Lý Khắc Cường đã nhắc lại đề xuất thành lập một đường dây nóng giữa các
nước trong khu vực để ngăn ngừa việc tranh chấp ngoài Biển Đông dấy lên
thành xung đột.
Về
kinh tế, trong một cử chỉ đầy vẻ hào phóng, ông Lý Khắc Cường còn xác
định rằng Trung Quốc rất mong muốn giúp đỡ các nước đang phát triển và
sẽ đề nghị cấp cho các nước Đông Nam Á 3 tỷ nhân dân tệ tín dụng mà
không lấy bất kỳ một đồng lãi nào.
Nhìn
chung, Trung Quốc đã đề nghị cung cấp 20 tỷ đô la tín dụng cho các nước
ASEAN, trong đó có 10 tỷ đô la bơm vào các dự án cơ sở hạ tầng.
Trên
mặt ngoại giao thì Bắc Kinh tỏ dấu hiệu hòa dịu, nhưng tại Biển Đông
thì tình hình hầu như không có gì thay đổi. Trung Quốc vẫn tiếp tục gia
cố và mở rộng các cơ sở của họ, bất chấp lời phản đối của Việt Nam hay
Philippines, thậm chí Tư lệnh Hải quân Trung Quốc còn đích thân đi thăm
vùng quần đảo Trường Sa nơi các công trình đang được tiến hành.
Động thái tới đây của Trung Quốc : Một giàn khoan thứ hai !
Điều
này cho thấy là Trung Quốc vẫn nuôi dưỡng ý đồ nuốt trọn Biển Đông, và
tình hình hòa dịu hiện nay chỉ tạm thời. Trong một bài phỏng vấn dành
cho báo chí hôm 29/10 vừa qua, Giáo sư Carl Thayer thươc Học viện Quốc
phòng Úc dự đoán như sau :
Thayer : Tranh
chấp trên Biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam có khả năng tiếp tục
yên ắng trong vòng sáu tháng tới đây nhân vòng tiếp theo của các cuộc
họp đa phương chung quanh khối ASEAN vào nửa đầu năm tới, sau khi đã
được làm dịu để không làm ảnh hưởng đến các Hội nghị Thượng đỉnh APEC,
ASEAN và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.
Trong
trung hạn, Trung Quốc có thể lựa chọn bất kỳ một đề án phát triển dầu
khí nào của Việt Nam (tại những vùng ở Biển Đông mà Bắc Kinh đòi chủ
quyền) để phô trương sức mạnh nhằm phản đối.
Trong
trung và dài hạn, Trung Quốc rất có khả năng là sẽ triển khai giàn
khoan HD-981 trở lại vùng biển đang tranh chấp. Về lâu về dài, Trung
Quốc cũng sẽ tiếp tục tăng cường sự hiện diện tại Biển Đông thông qua
việc triển khai các chiến hạm của Hải quân, tàu dân sự của các cơ quan
thực thi pháp luật, đội tàu đánh cá của họ, và một giàn khoan thứ hai –
HD-982 - mới hơn và lớn hơn chiếc HD-981.
Các
vụ triển khai kể trên rất có khả năng dẫn đến các sự cố trên biển. Một
Bộ Quy tắc Ứng xử mang tính chất ràng buộc với quy chế của một hiệp ước
không chắc sẽ được ký kết, do đó để cửa ngỏ cho Trung Quốc đơn phương
biện minh cho mọi hành động để khẳng định chủ quyền mà họ tiến hành.
Việt Nam phải tiếp tục phản đối Trung Quốc thay đổi nguyên trạng Biển Đông
Trước các hành động có thể xảy ra đó, Giáo sư Thayer cho rằng Việt Nam phải tìm ra một đối sách thích hợp. Ông phân tích :
Thayer : Việt
Nam phải liên tục đòi hỏi Trung Quốc minh bạch hóa mục đích của việc
bồi đắp, cải tạo địa hình (của các thực thể địa lý họ kiểm soát tại Biển
Đông) và yêu cầu Trung Quốc tự kiềm chế trong các hành động tương lai.
Điều này nên được nêu ra ở cấp độ các nhóm làm việc về việc thực thi Bản
Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Biển Đông.
Công
việc của Việt Nam đã trở thành khó khăn hơn sau khi Trung Quốc tỏ lập
trường hòa hoãn kể từ tháng Sáu vừa. Việt Nam có thể nghĩ rằng phản đối
quá mạnh (trên vấn đề Biển Đông có nguy cơ đe dọa các lãnh vực khác…
Các
hoạt động bồi đắp và mở rộng đảo đá của Trung Quốc tại Biển Đông là một
diễn biến mang tính chất chiến lược rất quan trọng, và có vẻ không mấy
được giới lãnh đạo ASEAN thích thú.
Trong
quá khứ ASEAN đã thông qua nhiều văn kiện như Bản Tuyên bố về một Khu
vực Hòa bình, Tự do và Trung lập (1971), Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác ở
Đông Nam Á (1976) và một Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt
nhân (1995). Đối với các lãnh đạo ASEAN, phạm vi áp dụng của các văn
kiện này bao trùm các nước Đông Nam Á, bao gồm cả Biển Đông.
Các
hành động cải tạo địa hình tại Biển Đông của Trung Quốc có khả năng rút
hẳn vùng trung tâm biển này ra khỏi khu vực Đông Nam Á và biến Biển
Đông thành ao nhà của Trung Quốc.
Điều
đó sẽ có nghĩa là 3 văn kiện quan trọng về an ninh khu vực sẽ không áp
dụng đối với khu vực Biển Đông. ASEAN sẽ mất đi chiều sâu chiến lược, và
điều này sẽ làm suy yếu tầm quan trọng của Cộng đồng chính trị-an ninh
ASEAN dự kiến ra đời vào cuối năm 2015.
Chiến lược tằm ăn dâu hay thái mỏng xúc xích tại Biển Đông
Ý
kiến của giáo Thayer cũng là quan điểm của giáo sư Ngô Vĩnh Long. Trả
lời RFI, ông đã ghi nhận như sau về toan tính xuyên suốt của Trung Quốc
Ngô Vĩnh Long :Toan
tính hiện nay, cũng như từ nhiều năm qua của Trung Quốc là thi hành
chiến lược tằm ăn dâu, người Mỹ gọi là "thái mỏng xúc xích - salami
slicing", tức là cứ chiếm từ từ, trong đó có việc xây dựng thêm trên các
đảo.
Một
ví dụ là vừa qua, Trung Quốc đã xây xong phi trường quân sự trên đảo
Phú Lâm (Hoàng Sa), để tiến tới việc kiểm soát các đường hàng hải và
hàng không xuyên qua Biển Đông. Một ví dụ khác là họ cũng đang xây cất
trên một số đảo ở Trường Sa.
Kiểu "thái mỏng xúc xích" một cách nhẹ nhàng như vậy làm cho các nước ngoài khu vực khó có thể can thiệp.
Đây
là vấn đề mà Việt Nam phải phân tích cho thế giới biết là tại sao đó là
vấn đề quan trọng cho an ninh khu vực, và nói rõ cho họ biết là Việt
Nam có thể làm gì để bảo vệ an ninh khu vực cùng với các nước khác.
Chứ
cứ để Trung Quốc tiếp tục làm như vậy thì các nước khác trên thế giới -
kể cả Mỹ - khó có thể ủng hộ Việt Nam trước những toan tính hiện nay
của Trung Quốc.
Đẩy mạnh quan hệ quốc phòng với Mỹ
Ngô Vĩnh Long : Tôi
nghĩ rằng cái hòa dịu của Trung Quốc chỉ là vấn đề trong ngắn hạn. Đối
sách của Việt Nam do đó là phải tiếp tục phát triển quan hệ với Mỹ,
trong đó có quan hệ về quốc phòng.
Quan
hệ quốc phòng là vấn đề lớn, nhưng thực ra không chỉ là để mua những
loại vũ khí mà Mỹ có thể bán cho Việt Nam - đó không phải là vấn đề quan
trọng - cái vấn đề quan trọng là làm sao để Mỹ thấy được Việt Nam là
một nước chủ yếu ở Đông Nam Á trong vấn đề bảo vệ an ninh, thành ra Mỹ
nên giúp Việt Nam đẩy mạnh quan hệ tốt với các nước khác trong khu vực
như Philippines, Malaysia, Indonesia...
Mỹ
là một nước ngoài khu vực, có ảnh hưởng rất lớn đối với các quốc gia
vừa kể, thành ra phát triển quan hệ với Mỹ cũng là để nhờ Mỹ giúp phát
triển quan hệ với các nước khác trong khu vực mà cho đến nay, Việt Nam
lẽ ra phải làm tốt hơn nữa, nhưng chưa đủ.
Thắt chặt quan hệ với Ấn Độ qua chuyến thăm của ông Nguyễn Tấn Dũng
Ngô Vĩnh Long : Chuyến thăm Ấn Độ vừa rồi của Thủ tướng Việt Nam, theo tôi, rất quan trọng. Đây là một việc làm cụ thể, nên có hiệu quả tốt.
Trước
hết là Ấn Độ hứa cung cấp cho Việt Nam một số tàu, và hứa bán cho Việt
Nam một số vũ khí. Để làm việc này, Ấn Độ sẽ cung cấp cho Việt Nam
khoảng 100 triệu đô la (tín dụng) để mua tàu tuần tra và một số khí
giới.
Ngoài
ra, Ấn Độ cũng ký với Việt Nam khung hợp tác và bản ghi nhớ về khai
thác dầu khí, giữa Tập đoàn dầu khí của Ấn Độ và Petro Việt Nam.
Đây
là một vấn đề quan trọng vi khi mà Ấn Độ và Việt Nam khai thác dầu khí ở
trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, nếu Trung Quốc đến dọa nạt Việt
Nam thì có nghĩa là dọa nạt Ấn Độ và có thể gây ra xich mích lớn với Ấn
Độ. Cho nên, về mặt quốc phòng, theo tôi đây là một vấn đề quan trọng.
Và
đó là lý do tại sao hai bên Ấn Độ và Việt Nam đã nói rằng họ nhất trí
về tầm quan trọng của việc Ấn Độ và Việt Nam bảo đảm hòa bình, ổn định,
an toàn và tự do hàng hải và hàng không ở khu vực Biển Đông.
Ngoài
ra vấn đề cung cấp tên lửa BrahMos cũng rất quan trọng. Tên lửa này có
thể bắn mau với tốc đô 3200 km/giờ, tầm bắn khoảng 200 km, cho nên nếu
Trung Quốc cho tàu vào những vùng ở Biển Đông, thì tên lửa này có thể
bắn tàu của Trung Quốc nếu họ gây chiến ở khu vực...
Việc cung cấp tên lửa BrahMos này cho Việt Nam cũng giúp Việt Nam trong vấn đề quốc phòng.
Tôi nghĩ rằng chuyến đi Ấn Độ là một chuyến đi thành công.
Vì sao Trung Quốc tỏ ý hòa hoãn ?
Ngô Vĩnh Long : Trung
Quốc đã thấy là vấn đề hàm hồ và quá lố của họ đã làm nhiều nước trên
thế giới bực minh, và sẵn sàng ủng hộ Việt Nam và các quốc gia khác
trong khu vực.
Trung
Quốc thấy rằng nếu cứ tiếp tục đẩy mạnh thì trong thời gian tới sẽ bất
lợi, cho nên đó là lý do vì sao họ « xuống nước ». Nhưng nếu Việt Nam
không khéo, để mình rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ «
hết nước ». Cho nên, đây là vấn đề Việt Nam phải phân tích rất kỹ.
0 comments:
Post a Comment