"Một
tổ chức độc lập, ra đời trong hoàn cảnh chế độ độc tài sợ hãi bất cứ sự
tập hợp nào của người dân Việt Nam, tất nhiên gặp phải nhiều trở
ngại... Nhưng bất chấp những khó khăn, chúng tôi tin tưởng rằng sự làm
việc tận tụy và công tâm sẽ mang lại uy tín; chứ không phải ngược lại." - Huỳnh Thục Vy, thành viên Tổ Chức Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam
Khi đã bước vào lúc xế chiều, tôi mới bắt đầu tin hơi ngờ ngợ
rằng đời người (dám) đều “có số” hết trơn chớ không phải
chuyện giỡn chơi đâu nha.
Ở một nơi xa xôi diệu vợi, có hôm, tôi nhận được thư nhà. Thư
của mẹ hiền gửi từ cố lý. Ý trời, đất, qủi thần, thiên địa
ơi – ai mà dè má tôi biết viết! Chớ trước giờ có thấy bà má
cầm bút hồi nào đâu cà?
Báo chí, sách vở, phim ảnh, truyền hình cũng không luôn. Có
chăng chỉ là vài ba cuốn kinh, đều đã long gáy, bằng tiếng
Phạn mà bà cụ đọc làu làu (nghe cứ như hát) nhưng hoàn toàn
không hiểu nghĩa, và chắc cũng khỏi cần hiểu làm gì.
Mẹ tôi không viết, không đọc, và cũng mấy khi nói năng bình
luận về bất cứ chuyện chi trên cõi đời này. Chỉ có mỗi lần,
duy nhất, vào lúc sớm – tôi nhớ hoài – khi loa đài vừa oang
oang: “Đây là tiếng nói của nhân dân tỉnh Lâm Đồng” thì bà bỗng khó chịu lầu bầu: “Tụi
nó đặt điều nói hết chuyện này tới chuyện khác, từ sáng
tới tối, chớ tao có dám nói gì đâu mà biểu là tiếng nói của
nhân dân!”
Mẹ tôi (rõ ràng) là một người ít học, hay chính xác hơn là
thất học. Bà sinh năm một ngàn chín trăm... hồi đó – lâu lắc
rồi – đâu khoảng hai mươi, hai mươi hăm, hay hai mươi sáu... tôi
không nhớ rõ.
Những phụ nữ cùng thế hệ với mẹ tôi mà biết đọc và biết
viết (chắc) không nhiều đâu. Riêng bà Tôn Nữ Thu Hồng thì là
một trường hợp ngoại lệ – theo Wikipedia:
“Bà sinh ngày 19 tháng 7 năm 1922 tại Tourane (Đà Nẵng), nhưng quê
quán gốc là làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (nay là
Thừa Thiên-Huế). Bà thuộc dòng dõi Hoàng tộc nhà Nguyễn, trước học ở
Tourane, sau vào học tại trường Đồng Khánh (Huế).
Năm 18 tuổi (1940), bà cho xuất bản tập thơ đầu tiên (và cũng là duy
nhất): Sóng thơ. Tập thơ in đẹp (chưa rõ tên nhà xuất bản), có tựa của
Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng Hoa. Năm 1941, bà
và thơ của bà được Hoài Thanh-Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân
Việt Nam (xuất bản năm 1942).
Năm 1968, bà lại được Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng giới thiệu
trong bộ sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển trung), xuất bản tại
Sài Gòn. Và theo sách này, thì nữ sĩ Tôn Nữ Thu Hồng đã chết trong một
trường hợp bi đát vào năm 1948, khi mới 26 tuổi.”
Nhà nghiên cứu văn học Thái Doãn Hiểu coi đây là một trong những
cái chết “không minh bạch, vô cùng bất công,” và cần được công luận
minh oan:
Thu Hồng là trí thức nói tiếng Pháp thành thạo, nhà cô thường tụ tập
các thanh niên trí thức. Cô bị nghi ngờ làm gián điệp cho Tây, bị công
an bắt, giam giữ và tra khảo mấy tháng trời, không lấy được cung. Cuối
cùng, giết nhầm còn hơn bỏ sót, cô bị thủ tiêu giữa rừng Thừa Thiên.
Kể lại chuyện đau lòng này, ông Đào Hữu Thiết cán bộ an ninh người
chứng kiến vẫn nhớ như in vóc dạc cao to như gấu, khuôn mặt dữ dằn, rậm
râu sâu mắt của tên sát nhân Trừng. Trên đường giải cô lên Ty công An
Thừa Thiên – Huế, hắn đã bắn lén cô từ đằng sau lưng... Nàng thơ ra đi ở
tuổi 26. Năm đó là tháng chạp năm 1948.
Theo tôi thì thà bị “bắn lén từ sau lưng” chết “không minh bạch”
vẫn đỡ hơn là sống dở và chết dở trong nhà giam (suốt những
năm tháng thanh xuân) cũng vì tội danh “gián điệp” sau một phiên
toà cũng chả “minh bạch” tí nào – như trường hợp của bà Thụy
An, một người đồng thời với thi sĩ Tôn Nữ Thu Hồng.
Một trang báo trích lời văn sĩ Thụy An. Ảnh:DR
|
“Thụy An là ai?
“Là phụ nữ duy nhất, không viết bài cho NVGP, nhưng tên bà bị nêu lên
hàng đầu trong ‘hàng ngũ phản động’, bà bị quy kết là ‘gián điệp quốc
tế’, lãnh án 15 năm tù cùng với Nguyễn Hữu Đang. Những lời thoá mạ nhơ
bẩn nhất dành cho bà ‘Con phù thủy xảo quyệt’ cùng những lời lẽ độc địa
nhất: 'Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu lạc bộ
Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân'" - (Bàng Sĩ Nguyên, BNVGPTTADL, trang 120).
Tại sao lại có sự căm thù ghê gớm đối với nhà thơ, nhà văn, nhà báo phụ
nữ tiên phong của Việt Nam? Người đầu tiên thực hiện nữ quyền bằng ngòi
bút và hành động. Người chủ trương giải phóng phụ nữ không bằng lý
thuyết mà bằng việc làm. Người xác định vị trí phụ nữ như một công dân
tự do, thấm nhuần tinh thần dân chủ.” (Thụy Khuê. Nhân Văn Giai Phẩm
& Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc. Westminster, CA: Tiếng Quê Hương,
2012)
Câu hỏi nghe như một tiếng kêu (thảng thốt) của Thụy Khuê “tại
sao có sự căm thù ghê ghớm” mà Đảng Cộng Sản Việt Nam dành cho
Thụy An, hay Thu Hồng (bao nhiêu năm trước) vẫn có thể lập lại
hôm nay cho trường hợp của Tạ Phong Tần – một trong những phụ
nữ Việt Nam đầu tiên chủ trương dân báo:
“Đã qua rồi cái thời người dân chỉ được biết những gì nhà cầm quyền
muốn cho họ biết, và không được biết những gì nhà cầm quyền muốn bưng
bít, giấu nhẹm bằng cách quản lý chặt chẽ toàn bộ hệ thống báo chí trong
nước...”
“Khi bạn đưa thông tin lên blog của bạn, tức bạn đã đem sự hiểu biết
của bạn truyền tải cho người khác để mọi người cùng được biết, qua đó,
mọi người cùng bàn luận, cùng kiểm tra xem, dùng quyền công dân của mình
đòi hỏi công chức Nhà nước phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn mà luật pháp quy định.”
“Có thể sự hiểu biết của bạn chỉ là một phần nhỏ nào đó trong đời
sống xã hội, nhưng nhiều người góp lại sẽ tạo nên một bức tranh hiện
thực xã hội hoàn chỉnh. Khi tự mình làm một nhà báo công dân, chính bạn
đã góp phần công khai, minh bạch hóa xã hội, cùng chung sức xây dựng một
xã hội dân sự cho đất nước chúng ta.”
Tạ Phong Tần viết những dòng chữ thượng dẫn vào ngày 1 tháng 1
năm 2008. Đến ngày 4 tháng 10 năm 2012, bà bị tuyên án 10 năm tù
(với tội danh “tuyên truyền chống Nhà Nước”) sau một phiên toà
cũng chả “minh bạch” chút nào.
Mà không cần phải là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động
xã hội hay blogger (gì ráo trọi) như Tôn Nữ Thu Hồng, Thụy An,
Dương Thị Tân, Tạ Phong Tần, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên,
Đỗ Thị Minh Hạnh, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Hoàng Vi, Trần Thị Nga,
Bùi Thị Minh Hằng, Trần thị Hài, Nguyễn Thị Lụa, Phương Bích,
Đoan Trang, Mẹ Nấm... cuộc đời mới te tua hay bầm dập đâu nha.
Một bà già thất học, không đọc, không viết, cũng không phát
biểu (linh tinh) bao giờ như má tôi mà cũng đâu mấy khi được
sống an lành.
Năm 1954, bà bỏ hốt hoảng bỏ hết ruộng vườn nhà cửa bồng con
chạy một mạch từ Bắc vào Nam. Hai mươi mốt năm sau – vào tháng
4 năm 1975 – trong lúc cả triệu người hân hoan đón chào cách
mạng thành công thì bà lui hui dốc hết nước mắm từ chai vô nồi
rồi đun cho keo lại thành mắm quẹt: “Để dành ăn dần con ơi, chứ họ vào đây mà thấy nhà mình có hơn chục chai nước mắm thì chết chứ chả bỡn đâu.”
Mẹ tôi (e) có hơi quá lời về sự hà khắc của “họ” nhưng thời
gian đã chứng minh rằng mọi dự liệu của bà về cuộc sống mới
trong XHCN – nói chung – hoàn toàn không... trật. Dân Việt, quả
nhiên, cứ “chết” đều đều – dù có vượt biên, vượt biển, hay
không.
Hồi cuối thế kỷ trước, trên trang thư tòa soạn của tạp chí Thế Kỷ
21 – số 103, phát hành vào tháng 11 năm 97– nhà báo Vương Hữu Bột đã
tường thuật đôi ba trường hợp chết đói xảy ra ở Việt Nam. "Có người chết
đói ngay tại chợ Bến Thành. Chết đói vì không có gì để ăn!" Ông ghi lại
theo lời kể của một người bạn, một doanh nhân vừa từ Sài Gòn sang
Mỹ lo việc kinh doanh.
Có lẽ sợ rằng viết lách theo kiểu (nghe nói) như vậy không thuyết
phục, ông Vương Hữu Bột còn trích dẫn thêm một câu chuyện khác, từ
báo Thanh Niên. "Tờ báo loan tin một thiếu phụ ở Sài Gòn đã giết hai
con rồi thắt cổ tự tử. Chị ta còn đủ bình tĩnh viết lá thư để lại, giải
thích vì không có cách nào kiếm sống nên chọn cái chết.”
Cuối thư, tác giả (bùi ngùi) kết luận:
"Chắc mỗi người chúng ta không thể gánh trách nhiệm về hạnh phúc và
an lạc của tất cả mọi nguời khác. Nhưng tất cả chúng ta, với tính cách
một chủng loại, phải chia sẻ trách nhiệm khi còn những đồng bào khổ đau,
cùng quẫn. Một xã hội văn minh phải thu xếp với nhau đừng để cho những
cảnh cùng quẫn đó xảy ra mới phải."
Qua đến đầu thế kỷ này, chuyện “thu xếp” để đừng đẩy tha nhân
(hay nhân dân) vào những cảnh đời “cùng quẫn” – xem ra – vẫn chưa
được ổn thoả. Từ Sài Gòn, blogger Phạm Chí Dũng có bài
tường thuật (“Vô Cảm Quan Chức Và Cái Chết Vì Nghèo”) đọc
được qua BBC – vào hôm 11 tháng 6 năm 2013. Xin trích dẫn một
đoạn ngắn:
“Tự tử vì nghèo đã trở thành một hiện tượng mãn tính trong xã hội
được mô tả là chịu ăn chơi bậc nhất thế giới. Một bà mẹ xấu số nguyện
dùng tiền phúng viếng của mình để trả nợ và nộp học phí cho con… Hai cô
gái đang tuổi xuân xanh rủ nhau uống thuốc diệt cỏ tự vẫn vì không có
tiền nộp phạt vi phạm giao thông…
Báo chí và người dân hẳn cũng chưa quên câu chuyện của chị Lê Thị
Ngọc N. cũng xảy ra tại TP. Cà Mau cách đây không quá lâu. Trước khi
chết, N. đã từng thổ lộ muốn tìm đến cái chết vì nghèo khổ quá.”
Những thảm trạng “mãn tính” xẩy ra cho phụ nữ – như trên – đã
kéo dài gần hai phần ba thế kỷ, ở Việt Nam. Sự kiện này đã
khiến cho tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy (vô cùng) sốt ruột và sốt
tiết. Bà đặt (và đẩy) vấn đề cho nam giới ở xứ sở này:
“Bao giờ các anh sẽ thôi tán phét trong các quán nhậu? Bao giờ các anh quyết định thôi sống hèn?”
Ủa, tôi tưởng chuyện này đã có một vị mày râu xứ Việt (ông
Bùi Minh Quốc) nêu ra và giải quyết xong xuôi lâu rồi mà:
Bao nghẹn uất Nguyệt Nga xé trời kêu chẳng thấu
Giữa chợ đời biệt dạng Lục Vân Tiên
Hảo hớn bận giang hồ quán nhậu
Thi nhau bốc phét để quên hèn
Cách “giải quyết” (theo kiểu nó coi như huề vốn) của Bùi Minh
Quốc, tuy chưa được hoàn toàn rốt ráo nhưng theo Chủ Nghĩa Nam
Nữ Bình Quyền thì đàn ông và đàn bà đều bình đẳng về quyền
lợi cũng như nghĩa vụ. Đèn nhà ai, nhà nấy sáng. Chuyện phái
nào phái ấy (phải) lo chớ bộ.
Và nhờ Trời là chúng ta không phải “lo” lâu. Vào ngày 28 tháng
11 năm 2013 vừa qua, thông tín viên Tường An (RFA) đã long trọng
loan tin “Xã hội dân sự Việt Nam vừa có thêm một thành viên mới: đó là
một nhóm có tên gọi là: “Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam.” Xin được ghi
lại đôi dòng về tôn chỉ của tổ chức xã hội dân sự (http://vnwhr.net/) này để rộng đường dư luận:
Gắn kết các cá nhân phụ nữ chịu thiệt thòi và dễ bị tổn thương từ các vụ việc vi phạm Nhân quyền.
Lên tiếng và có những hành động bảo vệ thiết thực đối với những người
phụ nữ đã và đang bị xâm phạm phẩm giá và các quyền con người cơ bản.
Chia sẻ và tuyên truyền những kiến thức nhằm nâng cao trình độ hiểu biết
của phụ nữ Việt Nam về quyền con người và về vai trò của phụ nữ trong
một xã hội tôn trọng nhân quyền.
Các vận động viên và thành viên của nhóm “Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam”. Courtesy vnwhr.net
Ngay sau đó, không ít tổ chức, đoàn thể, cũng như vô số qúi vị
thức giả đã lên tiếng hoan hô và ủng hộ sự ra đời (dù muộn
màng) của Tổ Chức Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam. Là một thường
dân, tôi không đủ tư cách để “lên tiếng” theo cùng cung cách đó
nên chỉ mong được phép thay mặt mẫu thân (nhân ngày giỗ của bà)
xin gửi lời chào trân trọng và thân ái đến các chị, các em –
những người vừa mở đầu một trang sử mới cho phụ nữ Việt Nam.



0 comments:
Post a Comment