May 02, 2014
Ngô Nhân Dụng
Ngày 30
Tháng Tư năm 2014, lần đầu tiên người dân miền Nam Việt Nam đã can đảm
xuống đường, không phải để ca ngợi mà để chống chính quyền. Họ trưng
những biểu ngữ công khai nói lên những sự thật, sau 39 năm bị bịt miệng:
30-4 NGÀY TANG DÂN TỘC! 30-4 DÂN VIỆT MẤT QUYỀN CON NGƯỜI!
Dân oan biểu tình tuần hành ở Sài Gòn nhân ngày 30/4/2014 với băng rôn "Ngày tang dân tộc". (Hình: DLB)
Tại sao cuộc biểu tình này có thể thực hiện trong một ngày “nhạy cảm” như vậy?
Vì kỹ thuật tổ
chức của dân Việt ngày càng tinh vi, nhưng cũng vì chính quyền không thể
gán cho những người biểu tình tội “chống Cộng” trong ngày 30 Tháng Tư,
cho công an đàn áp ngay lập tức. Nhìn trong hình thấy những bạn trẻ và
các em bé chưa sinh ra trước ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Có cả những bà
già có con đi theo cộng sản và chết, cho các quan chức bây giờ được
hưởng giàu sang. Những người biểu tình đeo khăn tang trên đầu, trên đó
viết chữ tự giới thiệu họ là những “dân oan.” Dân Oan một danh từ thường
chỉ chung những người đã bị đảng cộng sản cướp ruộng, cướp đất để khai
thác chia phần cùng với đám tư bản đỏ.
Nhưng tại sao
dân biểu tình không bị đàn áp, có thể rất dã man như những cụ già, phụ
nữ, trẻ em, ở Dương Nội, Văn Giang chống cướp đất đã bị đánh đập?
Vì chính quyền
địa phương và guồng máy công an tại Dương Nội, Văn Giang có quyền lợi
thiết thực cho họ khi đảng cướp đất của nông dân. Trên dưới tất cả đều
được “chấm mút” trong những công trình rút ruột này. Còn guồng máy công
an và chính quyền tại Sài Gòn thường không được ăn miếng nào khi các
đồng chí lãnh đạo Bạc Liêu hay Cần Thơ cướp ruộng đất của nông dân. Có
ngu gì mà họ lại chấp nhận cảnh đứa khác ăn ốc để mình phải đi dọn vỏ?
Cũng trong ngày
30 Tháng Tư năm 2014, một Hội Dân Oan Việt Nam ra đời. Trước đó ông
Nguyễn Xuân Ngữ đại diện dân oan phía Nam đã gặp gỡ nhiều dân oan các
tỉnh phía Bắc, đồng ý chọn ngày 24 Tháng Tư làm Ngày Dân Oan Việt Nam.
Cuộc nội chiến
Việt Nam đã chấm dứt từ năm 1975. Ngay sau đó cho tới bây giờ, một cuộc
chiến mới diễn ra. Một bên là chính quyền độc tài, tham nhũng, bất lực
và thối nát. Bên kia là người dân đấu tranh đòi quyền sống làm người,
quyền được hưởng tự do dân chủ. Những sinh viên học sinh, những nhà trí
thức, và có những nông dân chân lấm tay bùn cùng tham gia mặt trận đấu
tranh.
Sau 39 năm, dân
Việt vẫn phải đấu tranh đòi quyền sống làm người, đòi được hưởng những
quyền tự do tối thiểu như được nói, được suy nghĩ, được hội họp tự do.
Sau 39 năm, dân Việt Nam vẫn nghèo khó nhất trong vùng Á Ðông. Trong
những năm tới còn lo sẽ nghèo hơn cả người Campuchia, người Lào. Sau 39
năm, mối họa phương Bắc cho thấy chính sách ngoại giao “cõng rắn cắn gà
nhà” từ năm 1950 đã gây họa trường kỳ cho dân tộc như thế nào. Cho nên
những người biểu tình năm nay đã nói đúng sự thật: 30 Tháng Tư năm 1975
là một Ngày Tang của Dân Tộc. Cảnh nghèo nàn chậm tiến, mất tự do và lệ
thuộc ngoại bang hiện nay có thể đoán trước được từ ngày 30 Tháng Tư năm
1975, khi thi sĩ Nguyễn Chí Thiện ngồi ở trong tù cũng nhìn thấy “Một
mối nhục nhằn, một mối đau thương” trùm lên đất nước.
Bài trước trong
mục này kể lại những ngày kết thúc cuộc nội chiến ở nước Mỹ vào Tháng Tư
năm 1865; nhân ngày 30 Tháng Tư. Cả bài chỉ kể chuyện về cung cách đối
xử của những người chỉ huy miền Bắc nước Mỹ đối với người miền Nam thua
trận. Những gì xảy ra ở nước ta vào năm 1975 thì chắc quý vị độc giả đã
biết cả rồi. Khi đọc bài, chắc thế nào quý vị cũng nảy ra ý so sánh cảnh
các cuộc nội chiến kết thúc, ở Mỹ vào thế kỷ 19 và ở Việt Nam trong thế
kỷ 20.
Cuộc chiến tranh
nào cũng tàn khốc, và gây nên nỗi hận thù. Nhưng khi quân miền Bắc
chiếm Richmond, Tổng Thống Abraham Lincoln vào thủ đô của chính phủ miền
Nam. Richmond lúc đó đã vô cùng hỗn loạn vì các cuộc cướp phá, đốt nhà,
hôi của. Khi Tướng Weitsel hỏi ý kiến nên đối xử với người miền Nam thế
nào, Lincoln bảo: “Hãy cho họ dễ dàng - Let 'em up easy!” Ông bị nhiều
người phản đối, kể cả phó tổng thống của ông, và vị bộ trưởng chiến
tranh. Vì vậy, khi nghe tin ông bị ám sát, người miền Nam lo lắng cho số
phận của họ. Vị tướng miền Nam Joseph Johnson đã nói với Tướng William
Sherman miền Bắc, khi hai người gặp nhau thảo luận về điều kiện đầu
hàng: “Ðây là tai họa lớn nhất cho miền Nam!” Nhưng sau cùng, tai họa
cũng không xảy ra. Khi còn đang đánh nhau, Tướng Sherman từng nói với
dân và quân miền Nam rằng: “Khi nào hết chiến tranh, các bạn cần gì cứ
tìm đến tôi! Nếu tôi có mấy cái bánh cracker, sẽ chia sẻ với bạn; tôi sẽ
bảo vệ gia đình các bạn.” Hai ông tướng bàn bạc mất mấy ngày mới đồng ý
về điều kiện đầu hàng, cho quân sĩ miền Nam được tự do trở về nhà, mang
theo ngựa hoặc lừa, để cầy bừa vườn ruộng. Sau đó, Tướng Sherman còn
quyết định cung cấp cho tất cả 25,000 quân sĩ còn lại của Tướng Johnson
mỗi người mười ngày lương thực. Sherman biết kho lẫm miền Nam đã cạn
kiệt, chắc ông muốn những địch quân của mình, trên đường trở về nhà
không ai phải đi xin ăn hay cướp bóc. Ðiều này không nằm trong các điều
kiện đầu hàng đã ký kết. Khi “Old Joe” Johnson nhận được “quà tặng bất
ngờ” đó, ông thẳng thắn ca ngợi: “Lòng yêu nước lớn lao” của vị tướng
đối nghịch. Trước đây ông vẫn nghĩ rằng phải đối đầu với Tướng Sherman
trên chiến trường nỗi bất hạnh của đời mình; nay hóa ra đó lại là điều
may mắn cho cả đạo quân dưới quyền.
Nghĩ đến cảnh
những người lính miền Nam nước Mỹ đem theo mười ngày lương thực trên
đường về nhà, lại nhớ đến cảnh ở Việt Nam, sau ngày 30 Tháng Tư năm
1975. Các sĩ quan và công chức miền Nam từ giã gia đình, “đem theo lương
thực đủ dùng trong mười ngày;” có người đem theo đủ một một tháng, như
ghi trong giấy mời trình diện. Họ ôm theo thức ăn, và quần áo, xà bông,
khăn mặt, kem đánh răng, tự mình đi vào tù, ai cũng nghĩ rằng sẽ chỉ
phải “học tập” một tháng là xong. Các lãnh tụ cộng sản ở Hà Nội tự vỗ
bụng khen mình là “đỉnh cao trí tuệ” vì đã bày mưu đánh lừa được mấy
trăm ngàn người tự nguyện chui đầu vào cái thòng lọng họ đã giương ra,
sẵn sàng siết cổ. Bản thân ký giả này, nếu không may mắn thoát đi trước,
chắc cũng đã tự nguyện chui đầu vào cái thòng lọng đó.
Nhiều người sẽ
tự hỏi: Có phải người Mỹ vào thế kỷ 19 họ hiền lành, tử tế với nhau hơn
người Việt Nam 110 năm sau hay không? Tôi không nghĩ như vậy. Ðã đi qua
nhiều nước và đọc truyện kể từ nhiều nơi, tôi vẫn tin chắc rằng loài
người ở đâu cũng như nhau, không ai tốt hơn mà cũng chẳng ai xấu hơn ai.
Vậy thì tại sao
chính quyền miền Bắc nước Mỹ, các tướng lãnh và quân đội của họ lại đối
đãi tử tế với những đạo quân miền Nam và dân chúng miền Nam thua trận
như vậy? Vì vào năm 1965, chế độ dân chủ ở nước Mỹ đã được thực hiện hơn
nửa thế kỷ. Một nguyên nhân chính gây nên cuộc nội chiến là các tiểu
bang miền Nam không công nhận người da đen có quyền công dân như người
da trắng, trong khi miền Bắc đã làm luật giải phóng nô lệ. Nhưng trong
thời gian nội chiến 4 năm, chính quyền cả hai miền đều dùng các Hiến
Pháp bảo đảm các công dân được bầu cử tự do, báo chí tự do, hội họp tự
do, bộ máy nhà nước phải tôn trọng hiến pháp, luật pháp và các công dân
có quyền bình đẳng trước pháp luật. Với thể chế tự do, những người lãnh
đạo phải theo ý dân. Mà dân chúng nước nào thì cũng sẵn sàng bao dung,
đùm bọc đồng bào của mình.
Vào năm 1975,
chế độ miền Nam Việt Nam được đặt trên nền tảng dân chủ, mặc dù chưa vì
trong cảnh chiến tranh không được đầy đủ như nhiều người dân mong muốn.
Tại miền Bắc thì chế độ cộng sản hoàn toàn bác bỏ các quy tắc dân chủ,
coi đó là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Nhưng nguyên nhân chính
khiến cho chế độ miền Bắc thắng trận đối xử với quân và dân miền Nam một
cách khắc nghiệt tàn tệ, là vì họ theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin.
Theo Mác-Lê Nin
là theo một “tín ngưỡng,” mặc dầu vẫn là vô thần. Những người cộng sản
tin những điều Mác-Lê Nin nói đều là “chân lý” tuyệt đối, không khác gì
tín đồ các tôn giáo thời Trung Cổ. Tinh thần cuồng tín đó được nhồi sọ
cho các đảng viên cộng sản, bảo họ chia thế giới ra làm hai phần; những
người theo mình là bạn, còn tất cả những người khác ý kiến là kẻ thù. Và
đối với kẻ thù, họ không cần áp dụng các quy tắc luân lý cũng như luật
pháp nào cả. Cho nên họ tha hồ dùng thủ đoạn lừa gạt, dối trá, tha hồ
dùng bạo lực, cho đến việc thu hộ khẩu, cắt tem phiếu, và bây giờ là thu
hồi quyền sử dụng đất, để bắt mọi người phải phục vụ cho mình.
Các đảng viên
cộng sản được đào tạo như vậy từ khi xin vào đảng, từ 1920, 30 cho tới
năm 1975 vẫn như vậy. Trong thế giới cộng sản tình cảm giữa người với
người bị xóa bỏ, thay vào đó là lòng trung thành tuyệt đối với Ðảng
(viết hoa), tức là sẵn sàng tuân lệnh cấp trên. Những người như Lê Duẩn,
Trường Chinh, Lê Ðức Thọ đã được đào tạo như vậy.
Ðược “giác ngộ
chủ nghĩa Mác-Lê Nin” cho nên các lãnh tụ cộng sản vào năm 1975 trong
lòng coi tất cả dân, quân miền Nam không phải là người, không phải là
“đồng bào;” mà chỉ là những kẻ thù của cuộc cách mạng vô sản toàn thế
giới.
Người Việt Nam
bình thường không đối xử với nhau tàn tệ như bọn lãnh tụ cộng sản vào
năm 1975. Nếu được bỏ phiếu lựa chọn, chắc chắn dân chúng miền Bắc không
ai nỡ bắt dân chúng miền Nam phải qua cảnh tập thể hóa, đánh tư sản, tù
cải tạo. Vì chính họ đã bị đem ra làm thí nghiệm cho chủ nghĩa cộng sản
mấy chục năm rồi! Chính chủ nghĩa cộng sản đã biến dân Việt Nam thành
kẻ thù đối với nhau, chia rẽ cả dân tộc khắp mọi nơi chứ không chỉ chia
hai miền Nam Bắc.
Một độc giả mới
gửi thư hỏi, “Tại sao nội chiến Mỹ người ta nhanh bỏ qua, còn ở Việt Nam
thì sau 39 năm rồi vẫn còn còn nhiều việc phải làm?”
Câu trả lời là: Vì suốt 39 năm qua, dân Việt Nam vẫn phải tiếp tục sống dưới quyền cai trị của một đảng cộng sản.

0 comments:
Post a Comment