Sunday, March 3, 2013

LÀM THẾ NÀO ĐỂ SỚM GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN VIỆT NAM

Trong số 100 triệu nạn nhân trực tiếp của chế độ cộng sản thì số nạn nhân người Việt Nam là 3.000.000 điều này không có nghĩa là ở Việt Nam chỉ có 3 triệu người là nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam mà thực tế phải có hơn 10.000.000 người Việt Nam của cả hai miền Nam-Bắc đã vong mạng vì tham vọng quyền lực của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản, ấy là con số chỉ tính riêng trong thời gian xãy ra cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa Miền Nam Cộng Hòa và Miền Bắc Cộng Sản từ 1954 cho đến 1975 mà thôi.
Ngay cả sau ngày từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tức là sau thời điểm mà cuộc chiến ý thức hệ đó đã kết thúc khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm hoàn toàn miền Nam Việt Nam thì số lượng những nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam cũng không vì thế mà dừng lại. Trong số 1.150.000 sỹ quan, hạ sỹ quan và các viên chức hành chánh, lãnh đạo các đảng phái chánh trị, các chức sắc tôn giáo bị tập trung cải tạo trong 80 trại cải tạo được phân bổ trên khắp các vùng miền của cả nước, thì đã có đến 165.000 người đã chết vì bị tra tấn nhục hình, bị hãm đói trong các xà lim biệt giam, hoặc bị bệnh tật mà không được điều trị. Ngoài ra với hàng trăm ngàn người đã vong mạng ở những vùng kinh tế mới phần do bom mìn còn sót lại, phần thì đói khát hoặc ốm đau do sơn lam chướng khí và hơn 1.000.000 người đã chết mất xác trên đường đi tìm tự do từ sau năm 1975… há họ không phải là nạn nhân của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản chăng? Ngay cả hiện nay, ngoại trừ Bộ Chính Trị và khoảng 4.500.000 đảng viên cộng sản là những kẻ có những đặc quyền đặc lợi từ chế độ cộng sản, còn lại ngót 90 triệu đồng bào Việt Nam kể cả nhân sỹ trí thức đều bị chế độ cộng sản bưng tai, bịt mắt kìm hãm mọi suy nghĩ và hành động không chỉ bằng chính sách ngu dân để biến cả dân tộc Việt Nam thành thiểu năng trí tuệ như toàn thể dân chúng Bắc kỳ trong giai đoạn 1954-1975, vậy mà đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam còn dùng cả chuyên chính vô sản, cả bạo lực cách mạng hòng biến cả dân tộc Việt Nam thành những con người chỉ biết cúi đầu cam chịu thân phận nô lệ, nhược hèn và ngu tối. Chính vì vậy mà không lâu sau khi cộng sản Bắc Việt áp đặt nền thống trị sắt máu lên miền Nam, vốn là một xứ sở tự do và nhân bản, thì đã không ít những thân hào, nhân sỹ, những chức sắc tôn giáo của đã đứng lên, thành lập các tổ chức kháng cộng, phục quốc, với mong ước giải phóng đất nước khỏi ách cai trị của cộng sản, phục hồi nền tự do, dân chủ và quyền sống, quyền làm người cho toàn dân. Tiếc thay, các phong trào phục quốc chỉ như những ánh đuốc mới vừa được nhen nhóm lên chưa đủ lớn mạnh, chưa được đều khắp thì đã bị “bạo lực cách mạng” và chuyên chính vô sản dập tắt. Hàng ngàn sỹ phu đã phải ra pháp trường để đền nợ nước, hàng chục ngàn nghĩa sỹ đã phải lụy vào chốn lao tù và chế độ cộng sản càng ngày càng củng cố quyền lực bằng những phiên toà của những kẻ bán nước xét xử người yêu nước và bằng những bản án phi nhân nhằm để khủng bố tinh thần của bất cứ ai nặng lòng với non sông mà toan dấn thân vào con đường phục quốc…
Thế mà đã 38 năm rồi, dẫu cái gọi là “Hệ Thống Xã Hội Chủ Nghĩa” đã hoàn toàn tan rã, Liên Bang Xô Viết, cái tiền đồn của Xã Hội Chủ Nghĩa, nơi khai sáng ra cái chủ thuyết cộng sản cũng đã phá sản hoàn toàn và những con người một thời lầm lạc để gieo đau thương, tang tóc và đói nghèo, lạc hậu cho dân tộc của họ đã biết sám hối, ăn năn và quay về với thế giới tự do, trong khi đó, các lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn, đó là tiến lên XHCN, nhằm tiếp tục biến dân tộc Việt Nam thành một sắc tộc di rợ, như Choang, Tạng, Mãn, Hồi… của Trung cộng và từng bước biến Việt Nam thành một tỉnh trực thuộc chính quyền Trung Ương của Trung Cộng ở Bắc Kinh… Để thực hiện việc đó, từ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng cho đến Nguyễn Mạnh Cầm, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng… đã lần lượt ký các công hàm, các hiệp ước về biên giới và từng bước chuyển giao chủ quyền biển đảo, đất rừng đầu nguồn, đất đai vùng biên giới phía bắc và cả đất Tây Nguyên cho Trung cộng, để đến nỗi ngay cả những ngư dân, những nông dân quanh năm chân lấm tay bùn cũng dễ dàng nhận thấy một đại họa mất nước đang đến thật gần, một nguy cơ cả dân tộc Việt Nam sẽ bị Hán hóa là chuyện không còn xa nữa.
Hàng triệu người dân Việt ở quốc nội cùng thừa hiểu rằng chỉ có giải thể hoàn toàn chế độ cộng sản và thành lập một chính phủ dân chủ pháp trị, đa nguyên, đa đảng cùng cạnh tranh lành mạnh trong công việc lãnh đạo và điều hành đất nước mới có thể là giải pháp duy nhất để ngăn chặn một đại họa mất nước và một nguy cơ cả dân tộc bị Hán hóa. Nhưng làm sao để giải thể chế độ cộng sản là vấn đề cần được bàn thảo và kỷ để có cùng một quyết tâm cao, muôn người như một, đồng sức đồng lòng thì mới mong chúng ta có thể đánh sụp được chế độ cộng sản Việt Nam như các nước Cộng Sản Đông Âu đã làm được từ ngót một phần tư thế kỷ qua, vào cuối thập niên 80s của thế kỷ trước. Dù vậy, nhiều người Việt Nam vẫn tỏ ra bi quan về hiện tình của đất nước Việt Nam cũng như khả năng sụp đổ của chế độ cộng sản Việt Nam.
Hẳn nhiều người vẫn còn nhớ, ngoài Liên Bang Xô Viết từng có tiếng súng, kể cả các cuộc cường kích bằng trọng pháo và thậm chí có đổ cả máu xương nữa khi nhân dân Nga tiến hành cuộc cách mạng giải thể chế độ cộng sản Liên Xô vào “Mùa Thu Cộng Sản” 1991, còn lại các nước Ba Lan, Đông Đức, Hungary, Bungary, Romania… đều âm thầm đào huyệt chôn vùi chế độ cộng sản mà không cần phải có tiếng kèn, tiếng trống chứ đừng nói chi đến tiếng súng. Bởi chính chế độ trung ương tập quyền và nền kinh tế kế hoạch là nguyên nhân đưa đến khủng hoảng kinh tế và là lý do chính yếu dẫn đến sự sụp đổ của các nước cộng sản đó, vì nếu không tự giải thể chế độ cộng sản và quay lại với thế giới tự do với thể chế chính trị dân chủ, đa nguyên, với nền kinh tế thị trường, mà cộng sản gọi là chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa, thì chắc chắn là không thể tránh khỏi một thảm kịch nhân đạo là cả dân tộc phải chết đói. Tuy nhiên, đối với Việt Nam có một số người dự đoán rằng cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ vào năm 2014 hoặc 2015 thực ra là một lạc quan tếu, vì hoàn toàn không có cơ sở khoa học nào cả. Những dự đoán mang tính lạc quan tếu đó có thể làm thỏa mãn tâm lý của phần đa các cá nhân và tổ chức chống cộng, cho nên người ta không cần suy lý, mà cứ tin như thế để tự “sướng”. Cũng bởi lý do đó mà hễ người nào đưa ra nhận định rằng chế độ cộng sản Việt Nam khó mà sụp đổ trong vài ba năm tới, thì rất dễ bị chụp cho cái nón cối trên đầu và đôi dép râu dưới chân, bởi những thứ đó vốn free, nên muốn chụp cho ai thì cứ chụp, chẳng tốn kém gì. Tuy nhiên “Thuốc đắng đả tật, lời thật mếch lòng”: lời nói thật bao giờ cũng khó nghe hơn những lời ton hót, nịnh nọt và giả dối, “Trung ngôn nghịch nhĩ” mà! Dẫu vậy, nếu chúng ta không dám sống thật, không dám đối diện với sự thật mà chỉ quen lừa dối với chính mình bằng những ảo tưởng, hoang tưởng để tiếp tục đi đến tương lai bằng những mơ mộng hão huyền thì thật khó, vô cùng khó để chúng ta đạt được thành công như mong muốn trong công cuộc đấu tranh giải thể chế độ cộng sản, giành lại quyền làm chủ đất nước cho toàn dân.
Trong tinh thần dám đối diện với sự thật, chúng ta hãy nhìn về quá khứ, trước khi định hướng cho những công việc cần thực hiện trong tương lai, để chúng ta dễ dàng nhìn thấy những thực trạng khó khăn trong cuộc đấu tranh hiện nay với chế độ cộng sản khi chúng ta thấy ra rằng trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1954 cho đến 1975, chính phủ Hoa Kỳ chỉ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa có 26 tỷ Mỹ Kim, tức là xuyên suốt cuộc chiến tranh ý thức hệ tại Việt Nam kéo dài 21 năm đó, bình quân mỗi năm chính phủ Hoa Kỳ chỉ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa 1,3 tỷ Mỹ Kim mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đánh cho Hồ Chí Minh và cộng sản Bắc Việt phải hồn xiêu phách lạc. Chỉ đến khi Mỹ rút hết quân đội về nước, mức viện trợ bị cắt giảm xuống còn 701 triệu Mỹ Kim vào năm tài khóa 1974-1975 thì Việt Nam Cộng Hòa mới thiếu khí tài, đạn dược, mới thất thủ trước cộng quân Bắc Việt. Trong khi đó, trong những năm gần đây, mức Kiều hối do Kiều Bào Việt Nam ở nước ngoài gởi về nước cứ tăng dần hàng năm theo cấp số nhân mà theo thống kê của ngân hàng nhà nước cộng sản Việt Nam thì tổng mức Kiều hối năm 2012 là 10 tỷ Mỹ Kim, quả là một con số khổng lồ khó tưởng tượng được! Nếu chúng ta thử làm một phép so sánh đơn giản 1,3 tỷ Mỹ Kim/năm và 10 tỷ Mỹ Kim/năm thì chúng ta sẽ hiểu được tiềm năng kinh tế của cộng sản Việt Nam hiện nay để tin rằng dù tham nhũng đến phá sản hàng loạt các công ty để tăng số nợ công lên hàng trăm ngàn tỷ đồng, nhưng Việt Nam vẫn khó bị khủng hoảng kinh tế. Đó là chưa kể đến những nguồn lợi khác do bán biển đảo, bán đất rừng đầu nguồn, bán đất Tây Nguyên, bán các loại tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi từ xuất cảng lúa gạo và các loại nông sản, hải sản thu mua từ nông dân, ngư dân với giá rẽ mạt và cả nguồn lợi khổng lồ từ việc xuất khẩu lao nô hay xuất khẩu cô dâu Việt.
Nói tóm lại, việc Kiều bào từ nước ngoài gửi tiền về để giúp đỡ thân nhân bà con ở quê nhà là một việc làm rất hợp với đạo lý “lá lành đùm lá rách” của người Việt. Tuy nhiên việc mang tiền về nước đầu tư kinh doanh với cộng sản, hay gởi tiền về quá nhiều để thân nhân ở Việt Nam đầu tư kinh doanh và làm giàu cho đất nước, hay thậm chí về Viêt Nam du lịch, hưởng thụ để mang nguồn lợi kinh tế đến cho Việt Nam, thực ra là một hình thức “viện trợ nhân đạo” cho cộng sản Việt Nam, giúp Việt Nam thoát khỏi nạn khủng hoảng kinh tế, để chế độ cộng sản Việt Nam tiếp tục tồn tại, tiếp tục buôn dân bán nước, tiếp tục biến đất nước Việt Nam thành một lãnh thổ của Trung cộng và biến Người Việt Nam thành một sắc tộc Thiểu Số bên cạnh các sắc tộc Choang, Hồi, Tạng, Hán, Mông… của Trung cộng.
Bởi những lẽ đó, chúng tôi nghĩ rằng bao giờ chế độ cộng sản Việt Nam sẽ bị diệt vong, bao giờ đảng cộng sản Việt Nam sẽ bị giải thể là do chính các cộng đồng người Việt Quốc Gia ở hải ngoại quyết định, là do Kiều bào Việt Nam đang định cư trên toàn thế giới toàn quyền quyết định. Theo đó, với những luận cứ khoa học về thực trạng kinh tế của cộng sản Việt Nam, chúng tôi tin rằng, nếu Kiều Bào Việt Nam cấm vận Kiều hối đối với cộng sản Việt Nam trong vòng một năm, tức là ngưng hoàn toàn việc chuyển tiền về cho thân nhân ở quê nhà, ngưng du lịch về Việt Nam, ngưng về Việt Nam đầu tư… chỉ trong vòng một năm thôi thì chúng ta đã kết liễu được chế độ cộng sản Việt Nam mà không cần một tiếng súng: Những tên cộng sản sẽ tự đào mồ chôn chế độ cộng sản khi không còn bất cứ sự “viện trợ nhân đạo” nào đến từ các cộng đồng người Việt Quốc Gia.
Mong lắm thay!
Đầu Năm Quý Tỵ 2013
Nguyễn Thu Trâm, 8406

0 comments:

Powered By Blogger