Trong số 100 triệu nạn nhân trực tiếp của chế độ cộng sản thì số nạn
nhân người Việt Nam là 3.000.000 điều này không có nghĩa là ở Việt Nam
chỉ có 3 triệu người là nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam mà thực tế
phải có hơn 10.000.000 người Việt Nam của cả hai miền Nam-Bắc đã vong
mạng vì tham vọng quyền lực của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản, ấy là con
số chỉ tính riêng trong thời gian xãy ra cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa
Miền Nam Cộng Hòa và Miền Bắc Cộng Sản từ 1954 cho đến 1975 mà thôi.
Ngay cả sau ngày từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tức là sau thời
điểm mà cuộc chiến ý thức hệ đó đã kết thúc khi cộng sản Bắc Việt cưỡng
chiếm hoàn toàn miền Nam Việt Nam thì số lượng những nạn nhân của chế độ
cộng sản Việt Nam cũng không vì thế mà dừng lại. Trong số 1.150.000 sỹ
quan, hạ sỹ quan và các viên chức hành chánh, lãnh đạo các đảng phái
chánh trị, các chức sắc tôn giáo bị tập trung cải tạo trong 80 trại cải
tạo được phân bổ trên khắp các vùng miền của cả nước, thì đã có đến
165.000 người đã chết vì bị tra tấn nhục hình, bị hãm đói trong các xà
lim biệt giam, hoặc bị bệnh tật mà không được điều trị. Ngoài ra với
hàng trăm ngàn người đã vong mạng ở những vùng kinh tế mới phần do bom
mìn còn sót lại, phần thì đói khát hoặc ốm đau do sơn lam chướng khí và
hơn 1.000.000 người đã chết mất xác trên đường đi tìm tự do từ sau năm
1975… há họ không phải là nạn nhân của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản
chăng? Ngay cả hiện nay, ngoại trừ Bộ Chính Trị và khoảng 4.500.000 đảng
viên cộng sản là những kẻ có những đặc quyền đặc lợi từ chế độ cộng
sản, còn lại ngót 90 triệu đồng bào Việt Nam kể cả nhân sỹ trí thức đều
bị chế độ cộng sản bưng tai, bịt mắt kìm hãm mọi suy nghĩ và hành động
không chỉ bằng chính sách ngu dân để biến cả dân tộc Việt Nam thành
thiểu năng trí tuệ như toàn thể dân chúng Bắc kỳ trong giai đoạn
1954-1975, vậy mà đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam còn dùng cả chuyên
chính vô sản, cả bạo lực cách mạng hòng biến cả dân tộc Việt Nam thành
những con người chỉ biết cúi đầu cam chịu thân phận nô lệ, nhược hèn và
ngu tối. Chính vì vậy mà không lâu sau khi cộng sản Bắc Việt áp đặt nền
thống trị sắt máu lên miền Nam, vốn là một xứ sở tự do và nhân bản, thì
đã không ít những thân hào, nhân sỹ, những chức sắc tôn giáo của đã đứng
lên, thành lập các tổ chức kháng cộng, phục quốc, với mong ước giải
phóng đất nước khỏi ách cai trị của cộng sản, phục hồi nền tự do, dân
chủ và quyền sống, quyền làm người cho toàn dân. Tiếc thay, các phong
trào phục quốc chỉ như những ánh đuốc mới vừa được nhen nhóm lên chưa đủ
lớn mạnh, chưa được đều khắp thì đã bị “bạo lực cách mạng” và chuyên
chính vô sản dập tắt. Hàng ngàn sỹ phu đã phải ra pháp trường để đền nợ
nước, hàng chục ngàn nghĩa sỹ đã phải lụy vào chốn lao tù và chế độ cộng
sản càng ngày càng củng cố quyền lực bằng những phiên toà của những kẻ
bán nước xét xử người yêu nước và bằng những bản án phi nhân nhằm để
khủng bố tinh thần của bất cứ ai nặng lòng với non sông mà toan dấn thân
vào con đường phục quốc…
Thế
mà đã 38 năm rồi, dẫu cái gọi là “Hệ Thống Xã Hội Chủ Nghĩa” đã hoàn
toàn tan rã, Liên Bang Xô Viết, cái tiền đồn của Xã Hội Chủ Nghĩa, nơi
khai sáng ra cái chủ thuyết cộng sản cũng đã phá sản hoàn toàn và những
con người một thời lầm lạc để gieo đau thương, tang tóc và đói nghèo,
lạc hậu cho dân tộc của họ đã biết sám hối, ăn năn và quay về với thế
giới tự do, trong khi đó, các lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt
Nam vẫn tiếp tục kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn, đó là tiến
lên XHCN, nhằm tiếp tục biến dân tộc Việt Nam thành một sắc tộc di rợ,
như Choang, Tạng, Mãn, Hồi… của Trung cộng và từng bước biến Việt Nam
thành một tỉnh trực thuộc chính quyền Trung Ương của Trung Cộng ở Bắc
Kinh… Để thực hiện việc đó, từ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng cho đến Nguyễn
Mạnh Cầm, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng… đã lần lượt ký các
công hàm, các hiệp ước về biên giới và từng bước chuyển giao chủ quyền
biển đảo, đất rừng đầu nguồn, đất đai vùng biên giới phía bắc và cả đất
Tây Nguyên cho Trung cộng, để đến nỗi ngay cả những ngư dân, những nông
dân quanh năm chân lấm tay bùn cũng dễ dàng nhận thấy một đại họa mất
nước đang đến thật gần, một nguy cơ cả dân tộc Việt Nam sẽ bị Hán hóa là
chuyện không còn xa nữa.
Hàng triệu người dân Việt ở quốc nội cùng thừa hiểu rằng chỉ có giải
thể hoàn toàn chế độ cộng sản và thành lập một chính phủ dân chủ pháp
trị, đa nguyên, đa đảng cùng cạnh tranh lành mạnh trong công việc lãnh
đạo và điều hành đất nước mới có thể là giải pháp duy nhất để ngăn chặn
một đại họa mất nước và một nguy cơ cả dân tộc bị Hán hóa. Nhưng làm sao
để giải thể chế độ cộng sản là vấn đề cần được bàn thảo và kỷ để có
cùng một quyết tâm cao, muôn người như một, đồng sức đồng lòng thì mới
mong chúng ta có thể đánh sụp được chế độ cộng sản Việt Nam như các nước
Cộng Sản Đông Âu đã làm được từ ngót một phần tư thế kỷ qua, vào cuối
thập niên 80s của thế kỷ trước. Dù vậy, nhiều người Việt Nam vẫn tỏ ra
bi quan về hiện tình của đất nước Việt Nam cũng như khả năng sụp đổ của
chế độ cộng sản Việt Nam.
Hẳn nhiều người vẫn còn nhớ, ngoài Liên Bang Xô Viết từng có tiếng
súng, kể cả các cuộc cường kích bằng trọng pháo và thậm chí có đổ cả máu
xương nữa khi nhân dân Nga tiến hành cuộc cách mạng giải thể chế độ
cộng sản Liên Xô vào “Mùa Thu Cộng Sản” 1991, còn lại các nước Ba Lan,
Đông Đức, Hungary, Bungary, Romania… đều âm thầm đào huyệt chôn vùi chế
độ cộng sản mà không cần phải có tiếng kèn, tiếng trống chứ đừng nói chi
đến tiếng súng. Bởi chính chế độ trung ương tập quyền và nền kinh tế kế
hoạch là nguyên nhân đưa đến khủng hoảng kinh tế và là lý do chính yếu
dẫn đến sự sụp đổ của các nước cộng sản đó, vì nếu không tự giải thể chế
độ cộng sản và quay lại với thế giới tự do với thể chế chính trị dân
chủ, đa nguyên, với nền kinh tế thị trường, mà cộng sản gọi là chế độ Tư
Bản Chủ Nghĩa, thì chắc chắn là không thể tránh khỏi một thảm kịch nhân
đạo là cả dân tộc phải chết đói. Tuy nhiên, đối với Việt Nam có một số
người dự đoán rằng cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ vào năm 2014 hoặc 2015
thực ra là một lạc quan tếu, vì hoàn toàn không có cơ sở khoa học nào
cả. Những dự đoán mang tính lạc quan tếu đó có thể làm thỏa mãn tâm lý
của phần đa các cá nhân và tổ chức chống cộng, cho nên người ta không
cần suy lý, mà cứ tin như thế để tự “sướng”. Cũng bởi lý do đó mà hễ
người nào đưa ra nhận định rằng chế độ cộng sản Việt Nam khó mà sụp đổ
trong vài ba năm tới, thì rất dễ bị chụp cho cái nón cối trên đầu và đôi
dép râu dưới chân, bởi những thứ đó vốn free, nên muốn chụp cho ai thì
cứ chụp, chẳng tốn kém gì. Tuy nhiên “Thuốc đắng đả tật, lời thật mếch
lòng”: lời nói thật bao giờ cũng khó nghe hơn những lời ton hót, nịnh
nọt và giả dối, “Trung ngôn nghịch nhĩ” mà! Dẫu vậy, nếu chúng ta không
dám sống thật, không dám đối diện với sự thật mà chỉ quen lừa dối với
chính mình bằng những ảo tưởng, hoang tưởng để tiếp tục đi đến tương lai
bằng những mơ mộng hão huyền thì thật khó, vô cùng khó để chúng ta đạt
được thành công như mong muốn trong công cuộc đấu tranh giải thể chế độ
cộng sản, giành lại quyền làm chủ đất nước cho toàn dân.
Trong tinh thần dám đối diện với sự thật, chúng ta hãy nhìn về quá
khứ, trước khi định hướng cho những công việc cần thực hiện trong tương
lai, để chúng ta dễ dàng nhìn thấy những thực trạng khó khăn trong cuộc
đấu tranh hiện nay với chế độ cộng sản khi chúng ta thấy ra rằng trong
suốt cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1954 cho đến 1975, chính phủ Hoa Kỳ
chỉ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa có 26 tỷ Mỹ Kim, tức là xuyên suốt
cuộc chiến tranh ý thức hệ tại Việt Nam kéo dài 21 năm đó, bình quân mỗi
năm chính phủ Hoa Kỳ chỉ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa 1,3 tỷ Mỹ Kim
mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đánh cho Hồ Chí Minh và cộng sản Bắc
Việt phải hồn xiêu phách lạc. Chỉ đến khi Mỹ rút hết quân đội về nước,
mức viện trợ bị cắt giảm xuống còn 701 triệu Mỹ Kim vào năm tài khóa
1974-1975 thì Việt Nam Cộng Hòa mới thiếu khí tài, đạn dược, mới thất
thủ trước cộng quân Bắc Việt. Trong khi đó, trong những năm gần đây, mức
Kiều hối do Kiều Bào Việt Nam ở nước ngoài gởi về nước cứ tăng dần hàng
năm theo cấp số nhân mà theo thống kê của ngân hàng nhà nước cộng sản
Việt Nam thì tổng mức Kiều hối năm 2012 là 10 tỷ Mỹ Kim, quả là một con
số khổng lồ khó tưởng tượng được! Nếu chúng ta thử làm một phép so sánh
đơn giản 1,3 tỷ Mỹ Kim/năm và 10 tỷ Mỹ Kim/năm thì chúng ta sẽ hiểu được
tiềm năng kinh tế của cộng sản Việt Nam hiện nay để tin rằng dù tham
nhũng đến phá sản hàng loạt các công ty để tăng số nợ công lên hàng trăm
ngàn tỷ đồng, nhưng Việt Nam vẫn khó bị khủng hoảng kinh tế. Đó là chưa
kể đến những nguồn lợi khác do bán biển đảo, bán đất rừng đầu nguồn,
bán đất Tây Nguyên, bán các loại tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi từ
xuất cảng lúa gạo và các loại nông sản, hải sản thu mua từ nông dân, ngư
dân với giá rẽ mạt và cả nguồn lợi khổng lồ từ việc xuất khẩu lao nô
hay xuất khẩu cô dâu Việt.
Nói tóm lại, việc Kiều bào từ nước ngoài gửi tiền về để giúp đỡ thân
nhân bà con ở quê nhà là một việc làm rất hợp với đạo lý “lá lành đùm lá
rách” của người Việt. Tuy nhiên việc mang tiền về nước đầu tư kinh
doanh với cộng sản, hay gởi tiền về quá nhiều để thân nhân ở Việt Nam
đầu tư kinh doanh và làm giàu cho đất nước, hay thậm chí về Viêt Nam du
lịch, hưởng thụ để mang nguồn lợi kinh tế đến cho Việt Nam, thực ra là
một hình thức “viện trợ nhân đạo” cho cộng sản Việt Nam, giúp Việt Nam
thoát khỏi nạn khủng hoảng kinh tế, để chế độ cộng sản Việt Nam tiếp tục
tồn tại, tiếp tục buôn dân bán nước, tiếp tục biến đất nước Việt Nam
thành một lãnh thổ của Trung cộng và biến Người Việt Nam thành một sắc
tộc Thiểu Số bên cạnh các sắc tộc Choang, Hồi, Tạng, Hán, Mông… của
Trung cộng.
Bởi những lẽ đó, chúng tôi nghĩ rằng bao giờ chế độ cộng sản Việt Nam
sẽ bị diệt vong, bao giờ đảng cộng sản Việt Nam sẽ bị giải thể là do
chính các cộng đồng người Việt Quốc Gia ở hải ngoại quyết định, là do
Kiều bào Việt Nam đang định cư trên toàn thế giới toàn quyền quyết định.
Theo đó, với những luận cứ khoa học về thực trạng kinh tế của cộng sản
Việt Nam, chúng tôi tin rằng, nếu Kiều Bào Việt Nam cấm vận Kiều hối đối
với cộng sản Việt Nam trong vòng một năm, tức là ngưng hoàn toàn việc
chuyển tiền về cho thân nhân ở quê nhà, ngưng du lịch về Việt Nam, ngưng
về Việt Nam đầu tư… chỉ trong vòng một năm thôi thì chúng ta đã kết
liễu được chế độ cộng sản Việt Nam mà không cần một tiếng súng: Những
tên cộng sản sẽ tự đào mồ chôn chế độ cộng sản khi không còn bất cứ sự
“viện trợ nhân đạo” nào đến từ các cộng đồng người Việt Quốc Gia.
Mong lắm thay!
Đầu Năm Quý Tỵ 2013
Nguyễn Thu Trâm, 8406
0 comments:
Post a Comment