VRNs (27.03.2013) –
Sài Gòn – Vừa mới ra mắt, tuy chưa đến ngày chính thức hoạt động
(8/4/2013), Văn phòng Công lý và Hòa bình của DCCT Sài Gòn đã tiếp nhận
trường hợp đầu tiên là vụ việc một linh mục Công giáo đang làm việc tại
tỉnh Đăklăk, giáo phận Ban Mê Thuột bị công an lạm dụng quyền để xâm
phạm quyền tự do cư trú của công dân.
Điều 8
Luật Cư trú 2006 quy định 9 nhóm hành vi bị nghiêm cấm, trong đó 6 nhóm
đầu liên quan đến những cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi lạm dụng
quy định về hộ khẩu làm hạn chế quyền lợi ích hợp pháp của công dân,
gồm:
1. Cản trở công dân thực hiện quyền tự do cư trú.
2. Lạm dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
1. Cản trở công dân thực hiện quyền tự do cư trú.
2. Lạm dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Các hành vi lạm dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân bị nghiêm cấm được quy định tại Khoản 2, Điều 3, Nghị định số 107/2007/NĐ-CP ngày 25/06/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cư trú, cụ thể như sau:
a) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản khác liên quan đến quy định về hộ khẩu mà làm hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân;
b) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản khác liên quan đến quy định về hộ khẩu trái với quy định của Luật Cư trú và các văn bản hướng dẫn Luật Cư trú;
c) Ban hành quy định hạn chế quyền tự do cư trú của công dân trái thẩm quyền, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định;
d) Đưa ra các quy định về hộ khẩu làm điều kiện để hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trái với quy định của pháp luật;
đ) Cố ý giải quyết hoặc từ chối giải quyết các yêu cầu về hộ khẩu của công dân trái quy định của pháp luật cư trú, làm hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
3. Nhận hối lộ, cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây phiền hà trong việc đăng ký, quản lý cư trú.
4. Thu, sử dụng lệ phí đăng ký cư trú trái với quy định của pháp luật.
5. Tự đặt ra thời gian, thủ tục, giấy tờ, biểu mẫu trái với quy định của pháp luật hoặc làm sai lệch sổ sách, hồ sơ về cư trú.
6. Cố ý cấp hoặc từ chối cấp giấy tờ về cư trú trái với quy định của pháp luật.
Linh mục A
(xin không nêu tên) có hộ khẩu thường trú tại xã Hoà Hiệp, huyện Cư
Kuin, tỉnh Đăklăk từ năm 2003. Ngày 24/03/2010, cha A đề nghị chuyển hộ
khẩu thường trú từ xã Hòa Hiệp, huyện Cư Kuin về hộ ông B ở thôn 4, thị
trấn Liên Sơn, huyện Lăk. Ông B là người đã sang nhượng đất và nhà cửa
cho cha A. Công an Xã Hòa Hiệp đã làm thủ tục chuyển đi gửi Công An thị
trấn Liên Sơn. Thế mà hơn hai năm nay chính quyền vẫn chưa giải quyết hộ
khẩu thường trú cho Cha. Trái lại, còn cố tình làm sai luật, xóa thường
trú của ngài, sau đó hô hoán lên là ngài không có hộ khẩu.
Ngày
02/04/2010, Công An thị trấn Liên Sơn từ chối cho Cha A nhập hộ khẩu với
lý do chủ yếu là liên quan đến tôn giáo vì ngài là chức sắc tôn giáo và
công an thị trấn Liên Sơn cho rằng ông B không đủ tư cách bảo lãnh Cha A
(!), mà đất đai và nhà cửa của Cha A thì chính quyền không giải quyết
việc chuyển nhượng.
Việc làm
này của Công An thị trấn Liên Sơn là vi phạm pháp luật. Bởi lẽ, Cha A là
công dân Việt Nam, căn cứ quy định tại Điều 9 Luật Cư Trú, ngài được tự do lựa chọn, quyết định nơi thường trú. Điều 19 Luật cư trú cũng qui định “Điều kiện đăng ký thường trú tại tỉnh: Công
dân có chỗ ở hợp pháp ở tỉnh nào thì được đăng ký thường trú tại tỉnh
đó. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải
được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản.”. Trong
khi ở đây, Cha A đã được ông B bảo lãnh và ông B có đầy đủ tư cách và
Giấy tờ chứng minh “có chỗ ở hợp pháp” theo qui định tại Luật Cư trú;
Điều 5 Nghị định số 107/2007 (đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số
56/2010); và Thông tư số 52/2010 của Bộ Công an.
Việc cản
trở Linh mục A thực hiện quyền tự do cư trú là hành vi bị nghiêm cấm,
quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Cư Trú. Đồng thời, cũng vi phạm các qui
định tại điểm a, b, c, d, đ khoản 2, Điều 3 Nghị định số 107/2007 (đã
được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 56/2010) mà ở trên đã nêu.
Cũng cần lưu ý, Luật Cư Trú không hề có quy định nào hạn chế quyền tự do chọn lựa nơi thường trú của chức sắc tôn giáo, cũng không thấy có chỗ nào cấm công dân là chức sắc tôn giáo nhận quyền sử dụng đất để lao động sản xuất.
Khi cha A đăng ký chuyển đi, Công an xã Hòa Hiệp (tên Tuấn) đã ghi: thay đổi nơi cư trú, ngày 24/03/2010. Ngày
02/04/2010, Công An thị trấn Liên Sơn từ chối cho cha A đăng ký thường
trú, nhưng trên thực tế, sổ hộ khẩu thường trú (cũ) ở Hòa Hiệp vẫn có
tên ngài. Bằng chứng là ngày 21/12/2011 cha A vẫn sử dụng hộ khẩu này để
đăng ký và được cấp hộ chiếu.
Điều quan
trọng là, sau đó, Công An xã Hòa Hiệp đã cắt hộ khẩu của cha A, chắc
chắn là sau ngày 21/12/2011 – nhưng lại vẫn đề ngày 24/03/2010 là ngày anh Công An Tuấn xã Hòa Hiệp ghi nhận cha A: thay đổi nơi cư trú.
Đồng thời cái sai của Công An xã Hòa Hiệp là cha A chưa được Công An
Liên Sơn cho đăng ký thường trú tại thị trấn Liên Sơn, nhưng Công An xã
Hòa Hiệp đã xóa tên thường trú của ngài.
Đây là việc làm sai quy định của Luật Cư trú. Cụ thể, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 22 Luật Cư trú: chỉ
khi công an thị trấn Liên Sơn (nơi cư trú mới của cha A) hoàn tất thủ
tục đăng ký thường trú mới cho cha A, công an TT Liên Sơn mới gửi thông
báo cho công an xã Hòa Hiệp (nơi đã cấp Giấy chuyển hộ khẩu), lúc đó
Công an xã Hòa Hiệp mới được xóa đăng ký thường trú của cha A. Sai
quy trình xóa đăng ký thường trú quy định tại khoản 3 Điều 11 Thông tư
số 52/2010 của Bộ Công An. Theo đó như trường hợp của cha A, nếu được
đăng ký thường trú tại Liên Sơn, Công an Liên Sơn phải thông báo cho
ngài, và trong vòng 5 ngày làm việc, đích thân cha A hoặc đại diện
trong hộ (cũ) của ngài mang sổ hộ khẩu đến Công an xã Hòa Hiệp, lúc này
Công an xã Hòa Hiệp mới được xóa hộ khẩu thường trú của cha A. Và cũng trong vòng 5 ngày làm việc, sau khi nhận Thông báo của Công an TT Liên Sơn về việc đã đăng ký thường trú cho cha A, Công an xã Hòa Hiệp mới chuyển hồ sơ hộ khẩu của tôi cho công an TT Liên Sơn và thông báo cho tàng thư căn cước.
Chính vì
những việc làm sai pháp luật một cách khó hiểu của các cơ quan như trình
bày trên mà gây thiệt hại bao công sức, thời gian cho công dân kéo dài
gần ba năm nay, gây bức xúc cho linh mục A, gây ra sự nghi ngờ về chính
sách phân biệt và kỳ thị đối với tôn giáo.
Được
biết, ngày 20/03/2013 cha A đã viết đơn khiếu nại gửi đến Ủy ban Nhân
dân và công an tỉnh Đăklăk yêu cầu xử lý hành vi vi phạm luật cư trú do
công an xã Hòa Hiệp (huyện Cư Kuin) và công an Thị trấn Liên Sơn (huyện
Lăk) gây ra cho ngài.
Theo chúng tôi, cha A còn có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời với yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do các cơ quan nhà nước đã thực hiện hành vi trái pháp luật cản trở quyền tự do cư trú của công dân, song song với hành vi không thực hiện quy định pháp luật tiến hành thủ tục đăng ký thường trú, gây thiệt hại cho công dân.
Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi vụ việc để hướng dẫn cha A và thông tin kết quả giải quyết (nếu có).
VP. Công lý – Hòa bình DCCT Sài Gòn
http://www.chuacuuthe.com/2013/03/27/daklak-cong-an-vi-pham-luat-cu-tru-doi-voi-mot-linh-muc/
0 comments:
Post a Comment