Tuesday, March 10, 2015

Tiếng khóc vùi chôn

Sau đây là truyện ngắn "TIẾNG KHÓC VÙI CHÔN" ("BURIED CRIES") (Cao-Đắc 2014,168-198) trong tuyển tập truyện ngắn "LỬA CHÁY TRONG MƯA," (Cao-Đắc Tuấn. 2014. Lửa Cháy Trong Mưa. Hellgate Press, Oregon, U.S.A.) Mỗi truyện trong "LỬA CHÁY TRONG MƯA" đều có phần ghi chú thích đáng về lịch sử và sự kiện. Phiên bản tiếng Việt được tác giả dịch từ nguyên tác tiếng Anh, "FIRE IN THE RAIN." "TIẾNG KHÓC VÙI CHÔN" là truyện dựa vào những gì xảy ra tại Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968, qua lời tường thuật của nhân chứng Phan Văn Tuấn và Nguyễn Thị Thái Hòa.

***
Tiếng khóc vùi chôn

Năm 1968
"Những người không thể nhớ lại quá khứ sẽ lập lại nó." 
George Santayana (năm 1863 - 1952)

Một nơi nào đó tại Việt Nam, khoảng 1967-1968

Vóc dáng mỏng manh của ông và khuôn mặt gầy gò làm ông trông già hơn tuổi thật. Mái tóc muối tiêu rút lại ra sau, lộ ra cái trán cao. Bộ râu ông teo thành vài sợi trắng thưa thớt treo dưới cằm. Với cặp má hõm và đôi mắt trũng mất hồn, ông đã mất đi nét oai phong, dù giả tạo, của một tộc trưởng già nua.

Ông nằm liệt giường trong vài tuần do sức khỏe suy giảm. Sau khi bị ốm lúc có lúc không nhiều năm, một số tháng trong những năm đó trong một nước láng giềng, có lẽ ông đã đến lúc. Ông đã cho di chúc ông sửa đổi trông chờ cái chết, và đây là lần thứ ba ông làm như vậy.

Ông được đánh thức bởi phụ tá ông, một người đàn ông trung niên đã ở bên ông gần hai mươi năm. Người phụ tá nói với ông người khách đang mong của ông đang chờ bên ngoài. Ông gật đầu và bảo anh ta mời khách vào.

Ông ngồi dậy, dựa người vào tường và mỉm cười với khách khi ông ta bước vào phòng. Khách ông ngồi trên mép giường và cầm tay ông. Họ trao đổi lời thăm hỏi thường lệ. Khách ông là một người cộng sự thân cận đã làm việc với ông hơn 20 năm.

"Tất cả mọi việc đã sẵn sàng," khách ông nói. "Chúng tôi chỉ cần sự chấp thuận của Bác."

Ông gật đầu. "Vâng, hãy tiến hành càng sớm càng tốt."

"Kể cả hoạt động mã đỏ? "

"Tất nhiên. Tại sao chuyện đó cần phải được chấp thuận?"

"Bác biết hệ thống chúng ta làm việc như thế nào. Họ không thể thực hiện một hoạt động mà không có một lệnh rõ ràng từ trên."

"Được rồi. Cho họ lệnh trực tiếp của tôi thi hành hoạt động mã đỏ. Nói với họ tối đa hóa khủng bố để làm gương cho những kẻ khác."

Khách ông rời sau đó, để lại ông một mình.

Ông nhìn ra cửa sổ vào cái ao lớn bên ngoài ngôi nhà sàn ông với cặp mắt mệt mỏi. Ông biết chuyến thăm của khách ông chỉ là một hình thức. Họ không thực sự cần ông chấp thuận. Ông chỉ là bù nhìn. Họ đã chấp thuận chính họ, nhưng họ vẫn muốn dùng ông để hợp pháp hóa quyết định họ. Thiên hạ vẫn kính trọng ông, và sự chấp thuận của ông, mặc dù chỉ là hình thức, thúc đẩy tinh thần họ. Người của ông đã học kinh nghiệm từ ông rất giỏi.

Hoạt động đó là một chỉ thị bí mật trong một phần chiến dịch mà người của ông đã nghĩ ra nhiều năm trước. Bây giờ đang là thời điểm quan trọng của chiến dịch và càng lúc càng quan trọng cho hoạt động được thực hiện để hỗ trợ chiến dịch.

Đó là một chiến dịch quan trọng, có thể quyết định số phận đất nước ông. Đây là thời điểm ông đã chờ đợi, và ông e là ông có thể không sống để chứng kiến sự thành công của nó. Nhưng bây giờ thời điểm này trong tầm tay. Ông thấy sung sướng. Ông có thể chết với nụ cười trên mặt.

Một làn gió nhẹ phớt qua cửa sổ, mang theo mùi ngọt ngào của những bông hoa trong khu vườn ông. Ông cảm thấy nhẹ nhàng. Ý nghĩ ông lang thang. Ông sống lại những năm của ông, việc ông vẫn hay làm trong vài tháng qua. Ông nhớ lại những sự kiện, ghi nhớ những cuộc hội thoại, những bài diễn văn, thư từ. Ông muốn chắc chắn rằng ông không bỏ lỡ bất cứ điều gì trước khi chết. Ông muốn cái chết ông là một di sản cho nhiều thế hệ sau này.

Ông nghĩ về chuyện ông đạt tới mức ông hiện tại. Một câu nói của Abraham Lincoln đi qua óc ông: "Bạn có thể đánh lừa tất cả mọi người một thời gian, và một số người tất cả mọi thời gian, nhưng bạn không thể đánh lừa tất cả mọi người tất cả mọi thời gian." Ông cười khúc khích như một cô gái trẻ. Mỗi lần ông nhớ đến câu nói đó, ông chỉ cười. Sao lại không? Ông là bằng chứng hùng hồn cho thấy Lincoln sai bét. Ông là người có thể đánh lừa tất cả mọi người tất cả mọi thời gian, rất có thể ngay cả sau khi ông chết. Tất cả mọi người. Không phải chỉ có dân chúng trong nước ông. Thế giới đầy rẫy những kẻ ngu ngốc, trừ, tất nhiên, ông ra. Dân nước ông đã bị lừa trong một thời gian dài. Những kẻ bên ngoài, người nước ngoài, lại còn bị lừa nhiều hơn. Họ không biết gì về ông. Làm sao họ có thể biết được? Họ không hiểu ngôn ngữ và văn hóa, họ không hít thở không khí ở đây, họ không sống trên vùng đất này, cha mẹ họ không bị giết chết ở đây, tài sản họ không bị tịch thu, ông bà chủ đất họ không bị người làm hoặc thậm chí con cái họ tố cáo là phạm tội ác chống lại nhân dân. Kẻ thù và nạn nhân ông biết thủ thuật ông, nhưng không ai có thể tin chúng. Sau thất bại sắp tới của chúng, chúng có thể ồn ào la hét, nhưng ai sẽ tin vào những kẻ bại trận? Ngay sau đó, tiếng nói của chúng sẽ bị bỏ qua hoặc gạt đi. Ngay sau đó, tất cả mọi người sẽ bị lừa mãi mãi. Abraham Lincoln quả là một tên khờ.

Ông có quá nhiều bí mật. Không chỉ về tên ông, những nơi ông ở trong quá khứ, ngày sinh ông, sự thèm muốn vô độ của ông với phụ nữ trẻ và xinh đẹp, và các con hoang ông. Đó chỉ là những chuyện lặt vặt. Ông còn rất nhiều hơn. Vụ đạo văn tác phẩm chính trị của Nguyễn Ái Quốc và Nhật ký trong tù của vô danh, vụ bán đứng cụ Phan Bội Châu, vụ nổi dậy Xô Viết Nghệ Tĩnh bịp bợm, những lời láo khoét và lừa đảo của Việt Minh, vụ Cách mạng tháng tám ngụy tạo và bản Tuyên bố độc lập giả vờ, vụ Tuần lễ vàng bóc lột, vụ bầu cử gian lận, cuộc thảm sát đám quốc gia, thỏa thuận với Pháp, chiến dịch Cải cách ruộng đất đẫm máu, sự khúm núm bợ đít Trung cộng và Liên Xô, các vi phạm Hiệp định Geneva, vụ tàn bạo đàn áp Nhân Văn Giai Phẩm, vụ lừa dối về nhượng Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung cộng, sự hình thành dối trá của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam, và xâm nhập bí mật của quân đội vào Nam Việt Nam. Đám bè lũ ông đã đồng ý bảo vệ tất cả các bí mật ông trong một thỏa thuận có lợi cho cả đôi bên. Ông sẽ được tạo thành một vị anh hùng, có tầm cỡ thần thánh vượt quá tất cả tổ tiên nước ông, và bè lũ ông được tự do khai thác hình ảnh ông trong bất kỳ cách nào họ thấy phù hợp. Đó là một chuyện cùng thắng lợi cho ông và đám bè lũ ông. Còn đám thua thì sao? Những người dân trong nước ông. Quá tệ! Họ đã chịu đựng hàng ngàn năm. Để cho họ chịu đau khổ thêm một ngàn năm nữa.

Ông mỉm cười. Ý nghĩ ông mang lại cho ông thoải mái và thư giãn. Ông đã dàn xếp hết mọi chuyện, do đó chẳng còn gì để ông lo lắng nữa. Ông duỗi chân ra, nghe tiếng chim hót bên ngoài và tưởng tượng âm thanh nhẹ nhàng của nước rỉ rả qua các tảng đá trong vườn.

Ông chạm vào chiếc gối ở đầu giường và cảm nhận sự mềm mại của nó, cảm thấy tỉnh táo bởi mùi hoa thủy tiên vàng trong phòng ông. Tiếng chiêm chiếp ồn ào của đàn chim bên ngoài thu hút sự chú ý ông. Ông nghiêng đầu, lắng nghe những âm thanh giai điệu quen thuộc, biết rằng những âm thanh đó sẽ không thay đổi cho đến khi những tia nắng mặt trời cuối cùng rời khỏi cửa sổ. Ông hít một hơi thật dài và thưởng thức không khí trong lành và hương thơm. 

Ông cảm thấy tràn đầy năng lực và trong một khoảnh khắc vui sướng, ông cười không cưỡng được. Ông ho nhưng vẫn cười ra nước mắt.

Ông phải mang tất cả những bí mật ông xuống tuyền đài.

Huế, Tháng Hai năm 1968

Bí mật của Trần Thất Thu sắp bị tiết lộ, nhưng hắn không cố che giấu nó. Ngược lại, hắn sung sướng tột đỉnh nói với mọi người hắn thật sự là ai. Mọi chuyện xảy ra suông sẻ theo đúng kế hoạch. Bộ đội lính chính quy Bắc Việt và quân Mặt trận giải phóng miền Nam mà hắn là một thành viên tự hào, đã chiếm cứ nhiều phần của Huế trong vài ngày đầu cuộc tổng nổi dậy. Hắn đã nhận lệnh từ Lê Minh, Trưởng An ninh Cộng sản, bắt đầu giai đoạn kế tiếp của hoạt động. Trạng thái mọi người đều phấn khích. Ai cũng trông mong giây phút này và bây giờ nó đã đến với tất cả vinh quang đầy đủ.

Trước đó vào buổi sáng, hắn triệu tập nhóm hắn, gồm các đặc công nằm vùng lâu năm và các chiến sĩ mới được tuyển dụng, để giao nhiệm vụ tập hợp tất cả cư dân Huế có tên trên danh sách đen. Hắn phân phát vũ khí, phần nhiều là AK-47, cho các thành viên trong nhóm và đưa họ bản sao danh sách với tên và địa chỉ.

"Tới mỗi nhà và gọi tụi nó ra," hắn nói với nhóm hắn.

"Nếu tụi nó chống lại hoặc không chịu ra thì sao?" một thành viên hỏi.

"Dùng bất kỳ phương tiện cần thiết nào để thực hiện mệnh lệnh. Chúng ta được phép dùng bạo lực cách mạng để tối đa hóa khủng bố. Chúng ta phải làm thí dụ cho bọn phản động khác."

"Chúng ta có nên tha phụ nữ và trẻ em không?"

Lệnh không có quy định về phụ nữ và trẻ em. Nhưng nếu lệnh không đề cập đến họ, có nghĩa là việc đó không quan trọng.

"Không," hắn nói không do dự. "Làm bất cứ chuyện gì cần thiết để hoàn thành công việc. Đừng để cảm xúc ảnh hưởng đến sứ mạng đồng chí. Đồng chí biết phương châm chúng ta: Lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Chúng ta có mục tiêu cao hơn để đạt tới."

Một số bộ đội muốn gia nhập nhóm hắn trong việc săn bắt. Họ chưa từng bao giờ tới một thành phố thuộc chính phủ ngụy và họ muốn tìm hiểu nó như thế nào và xem mọi người đáp ứng với sứ mạng giải phóng ra sao.

"Bằng mọi cách, xin vui lòng tham gia chúng tôi," hắn nói, mỉm cười với anh chàng trưởng toán bộ đội non choẹt. "Nhưng nhớ rằng bọn mà chúng ta sắp bắt là đám phản động. Tụi nó không biết gì về sự hy sinh và lòng tốt chúng ta."

Họ thành lập thành từng nhóm khoảng mười người. Một số lái xe gắn máy. Một số đi bộ. Mấy anh chàng bộ đội thích đi bộ vì họ không biết đi xe gắn máy và họ đã quen chạy bộ. Với nón lính bấc màu xanh lá cây trên đầu, kaki rộng, túi tư liệu và thực phẩm quanh ngang lưng, và mặt non choẹt, các bộ đội thiếu niên trông giống như đám học sinh đồng phục đi lạc. Nhưng chuyện đó không quan trọng; súng AK-47 của chúng không phải là đồ chơi.

Hắn đã bắt hơn năm mươi tên phản động trong danh sách đen, đa số là các viên chức hạng thấp đến trung bình của chính phủ địa phương ngụy. Ngoài chuyện van xin và khóc lóc thông thường, dân Huế phản ứng khá bình tĩnh. Lúc đầu, hắn nói chuyện tử tế với họ vì một số người biết hắn như bạn họ. Hắn cam kết với các gia đình là những người thân yêu họ chỉ đi cải tạo trong một ngày và họ sẽ quay trở lại. Nhưng khi thấy nét sợ hãi họ khi nhìn thấy khẩu AK-47 đe dọa của hắn, hắn vui mừng với sức mạnh mới có. Hắn bắt đầu la hét và đánh họ bằng báng súng AK 47. Cảm giác không thể diễn tả được, và hắn mê cảm giác đó.

Mục tiêu cuối cùng của hắn trong ngày là Vũ Tấn Phong, một sinh viên chống cộng tại Đại học Huế, nơi Thu cũng là một sinh viên ghi danh. Hắn ghét tính gan dạ của Phong. Hắn kết bạn với Phong và giả vờ cũng chống cộng. Hắn đạt được sự tin tưởng của Phong với câu chuyện bịa đặt về việc người thân hắn bị giết bởi Việt Cộng (VC). Họ đã đi chơi nhiều lần trò truyện qua cà phê và ăn trưa. Phong tin hắn là bạn thân, và chia sẻ với hắn những mẩu chuyện về gia đình mình. Phong làm như thể y là một nhà trí thức, hiểu biết tất cả các lý thuyết chủ nghĩa Mác và học thuyết Cộng sản. Cha y là sĩ quan Nam Việt Nam đóng quân ở vùng cao nguyên. Thu đưa tên Phong vào danh sách đen với lý do rằng y là sinh viên gián điệp bí mật cho chính phủ ngụy. Tại sao một tên mật vụ lại công khai tố cáo cộng sản? Cấp trên hắn hỏi. Đó là thủ thuật của họ, Thu trả lời. Chuyện không quan trọng cho dù Phong là một mật vụ hay không. Y là tên phản động và con trai của một sĩ quan ngụy và đó đủ để đưa y ra xét xử. Tội phạm y còn trở nên phức tạp hơn nữa vì bạn y là một sĩ quan bộ binh ngụy. Hắn đã gặp tên sĩ quan này một lần khi họ đến một quán cà phê và nghe về chuyện tên sĩ quan tán tỉnh em gái Phong, Lan, một sinh viên đại học xinh đẹp hai mươi tuổi.

Nhà Phong ở trong một khu phố yên tĩnh. Khi nhóm hắn đến, đường phố trống không - chẳng có ma nào. Mọi người có thể ẩn núp trong nhà.

Hắn gõ cửa. "Mở cửa."

Không ai trả lời. Hắn ra lệnh bọn hắn dộng cửa bằng AK 47 và la lớn. Cuối cùng, ông nội Phong mở cửa và nhóm hắn lao vào trong nhà.

"Thằng Phong đâu rồi?" hắn hỏi ông già đang run rẩy.

Ông già hoảng kinh khi thấy Thu với bộ mặt khát máu. Thái độ lễ độ, tư cách kính trọng, vẻ dễ chịu biến mất. "Thu, cháu đó hả?" Ông già vẫn không tin mắt mình.

Thu hét lên. "Ông già, ông điếc rồi hả? Tôi hỏi ông một câu hỏi. Thằng Phong đâu rồi?"

Ông già lắp bắp. "Nó không có nhà. Nó đi đâu rồi đó, chắc tới trường."

"Lục lọi mọi phòng, rồi mang hết tụi nó ra," Thu ra lệnh đám VC.

Chẳng mấy chốc, toàn bộ gia đình được tập hợp trong một góc phòng. Ông già và vợ ông, mẹ Phong và ba đứa con, Lan và hai cậu bé. Thu để họ ngồi trên ghế sofa gia đình. Hắn cầm khẩu AK-47 và đi qua đi lại trước mặt họ.

"Tôi không muốn phí thì giờ nữa," hắn nói. "Nói cho tôi biết thằng Phong ở đâu và chúng tôi sẽ đi ngay."

Hắn dừng lại và vung vẩy ngón tay vào họ. "Và đừng có nói dối với tôi. Nếu mấy người nói dối, tôi sẽ trở lại và giết hết tất cả mấy người."

Mẹ Phong, một phụ nữ trung niên với một khuôn mặt dễ chịu, cầu xin hắn. "Thu, cô không biết nó ở đâu. Nó đi từ lúc sáng không nói đi đâu."

Có thể bà ta nói thật. Phong có thói quen đi ra ngoài mà không nói với gia đình, và y luôn luôn đi đến trường đại học. Mẹ Phong lúc nào cũng tử tế với hắn. Hắn đang mặc áo len bà đan cho hắn là quà sinh nhật. Thu vừa định dịu giọng thì Giao, một trong đám VC và cũng là một sinh viên đại học Huế, bước vào từ sân sau.

"Xe Honda nó vẫn còn ở phía sau," Giao nói.

Thu điên tiết lên. Bọn này thật là cứng đầu. Đây là lúc dùng bạo lực cách mạng.

"Nó không bao giờ đi đâu mà không lái chiếc Honda nó," hắn hét lên, vẫy khẩu AK-47. "Tôi đã nói với mấy người là đừng có nói dối với tôi. Đây là cơ hội cuối cùng của mấy người. Thằng Phong ở đâu?"

Ông già chắp tay năn nỉ, "Ông Thu, chúng tôi đang nói với ông sự thật. Chúng tôi không biết thằng Phong đi đâu. Bạn nó tới đón nó sáng nay."

Khi ông già nói, một trong cậu bé, cháu ông già, liếc nhìn lên trần nhà. Thu theo tia nhìn nó và thấy một tấm bảng hình vuông trông giống như một miếng che cho lỗ hổng thông lên gác xép. Một chiếc ghế đẩu đứng trên sàn nhà ngay dưới tấm bảng.

Thu mỉm cười. Hắn bước tới Lan, nắm lấy tay nàng và kéo nàng lên. Nàng run rẩy và nước mắt đọng quanh vành mắt.

Thu chỉa súng vào đầu Lan. "Phong," hắn quát lên. "Tao biết mày ở trên đó. Leo xuống hoặc tao bắn con Lan." Hắn biết Phong rất thương cô em gái.

Mấy người đàn bà khóc lóc. "Làm ơn. Làm ơn. Xin đừng bắn."

Lan quằn quại. "Anh Thu, anh Phong không có nhà."

Thu không đếm xỉa gì đến họ. "Tao đếm tới ba. Nếu mày không leo xuống, tao bắn chết con Lan."

"Một," hắn hét lớn.

"Hai."

"Ba."

Khi hắn bước lùi lại và đưa khẩu súng lên, một giọng nói từ gác xép. "Đừng bắn. Tao đi xuống."

Thu mỉm cười.

Tấm bảng được gỡ ra và khuôn mặt Phong xuất hiện. Anh hạ thấp người qua cái lỗ nhỏ, và anh buông mình xuống sàn nhà.

Vừa khi chân anh chạm sàn, Thu ria ba viên đạn vào anh. Những viên đạn nổ toang. Thân hình Phong ngã sóng soài trên sàn nhà với máu văng vãi khắp nơi, đỏ cả áo sơ mi trắng.

Mấy người đàn bà phát ra tiếng gào thét thảm thiết như những con thú bị làm thịt. Mẹ Phong nhào tới xác đẫm máu của con bà và ngã gục bên cạnh anh. Bà hét lên điên dại. "Trời ơi. Con tôi. Con tôi." Bà đập sàn nhà với nắm tay. Đầu bà gập lên xuống. Mặt bà méo xệch đi, tràn ngập với nước mắt và máu.

Ông nội đứng dậy. Ông nghiến răng và chỉ ngón tay vào mặt Thu. "Thu, mày là đồ súc vật. Trời sẽ không tha mày."

Thu quay khẩu AK-47 về phía ông già và bắn một phát vào mặt ông. Ông già ngã xuống ghế.

Thu bước ra khỏi nhà. Hắn ra lệnh đám VC. "Mang con nhỏ Lan theo.”

Năm cây số cách chỗ giết người tại nhà Phong, ở trong nội thành, đại đội Hotel của tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, chẳng làm được tiến bộ nào. Họ tiến lên hai mươi mét, chỉ để bị đẩy trở lại cùng một khoảng cách bởi súng máy địch bắn xối xả từ trên mái một tòa nhà. Trung úy Hummel gọi yểm trợ máy bay và pháo kích, nhưng anh đang gặp khó khăn truyền tin.

Toàn và Brad nghỉ một chút khi tiếng đạn bắn dừng lại. Họ ngồi dựa người vào bức tường dọc theo vỉa hè một đường phố rộng. Brad đưa Toàn một điếu Marlboro.

Brad nhả ra một làn khói và rít một hơi dài. "Bộ anh không phải kiểm tra với xếp anh xem tình hình đơn vị anh thế nào?"

Toàn đặt chiếc M-16 xuống ngang đùi, và châm điếu thuốc. "Không, tôi không muốn làm phiền họ. Lính chúng tôi đang kiệt sức ở bản doanh sư đoàn."

"Xếp anh có bực mình là anh chưa trở về?"

"Không, ổng hiểu mà. Lời giải thích của trung uý anh với cố vấn Mỹ ổng là đủ rồi. Sự hiểu biết của tôi về tòa nhà và các vị trí của quân Bắc Việt là tin tình báo có giá trị nhất các anh có bây giờ. Các anh cần tôi ở đây để kết thúc việc này."

"Thật ra không phải chỉ là tình báo có giá trị nhất. Đó là tình báo duy nhất mà chúng tôi có."

"Tôi thật không ngờ là tụi mình hoàn toàn không biết chuyện gì xảy ra."

"Tôi cũng không ngờ."

Anh liếc qua Toàn và thấy hình xâm trên lưng bàn tay.

"Này, hình xâm đó là cái gì vậy?"

Toàn mỉm cười. "Cho bạn gái tôi, em bạn tôi. Chúng tôi sẽ kết hôn sau khi mọi chuyện xong xuôi."

"Cô ấy sống quanh đây chứ?"

Toàn hất tàn thuốc lá xuống đất. "Ừ, cổ ở vùng này. Thật ra, tôi đã tính tạt qua nhà cổ xem cổ có sao không. "

Brad mỉm cười. "Thảo nào. Tụi tôi tự hỏi sao anh lại bị mắc kẹt trong tòa nhà đó hồi đầu."

"Này, tôi bị mắc kẹt trong đó không phải vì tôi dự tính đi gặp cô ấy. Đơn vị chúng tôi rút lui và tôi là người cuối cùng kéo ra khi đám BV tràn ngập. Lúc đó quá trễ cho tôi chạy ra mà không bị thấy."

"Anh nói sao cũng được, Thiếu úy."

Toàn cười. "Anh chứng kiến chuyện đó với chính mắt anh. Nếu họ lôi tôi ra tòa án quân sự, anh sẽ là nhân chứng của tôi. "

"Lúc đó thì tôi về Mỹ rồi."

Toàn dừng lại, và giọng anh trở nên nghiêm trọng. "Coi này, tôi không biết tôi đã nói điều này chưa, nhưng tôi thật sự quý chuyện anh tới cứu mạng tôi. Jimmy và Nick nói với tôi anh cứ khăng khăng đòi đi tới tòa nhà khi anh nhìn thấy tôi giết ba tên BV."

Anh chìa tay ra. "Cảm ơn anh rất nhiều vì đã cứu mạng tôi." 

Brad bắt tay anh mạnh mẽ trong kiểu chế giễu. "Không có chi, Thiếu úy."

"Hạ sĩ, anh có thể dẹp cái Thiếu úy đi được không?"

Một tràng đạn súng máy vang rền làm ngưng cuộc trò truyện họ. Họ ném thuốc lá và chụp cây M-16.

"Tụi mình phải làm câm miệng cây súng chó đẻ phiền toái này," Brad nói.

"Máy bay với pháo binh mình đâu rồi?"

"Để tôi coi xem sao."

Trước khi anh phóng ra khỏi vị trí mình, Trung úy Hummel xuất hiện từ góc đường. Anh vẫy tay với Brad. Brad lom khom sau bức tường thấp đi tới anh.

"Chuyện gì vậy, Trung úy?" Brad hỏi.

"Sẽ không có bắn chuẩn bị, nhưng mình có thể có xe tăng và Ontos trong một giờ."

"Không có máy bay hoặc pháo binh? Sao vậy?"

"Thời tiết và các quy tắc giao tranh bí ẩn. Cấp chỉ huy Việt Nam không muốn phá hủy thành trì của chính họ."

"Cái gì? Trung úy đang đùa, phải không?

"Không, tôi nghiêm trọng thiệt đó. Mình đang bị dí ở đây vì một số tay sạn óc trong bộ chỉ huy muốn bảo tồn di tích lịch sử của họ."

"Đéo mẹ. Khi mọi chuyện xong xuôi rồi, họ sẽ chẳng còn cái gì để bảo tồn được nữa. Tụi lính BV đâu thèm để ý chuyện đó."

"Được rồi, hạ sĩ. Đó không phải là mối quan tâm chúng ta bây giờ. Anh có thể cầm cự một tiếng được không?"

"Miễn là tụi nó giữ vị trí tụi nó, chúng tôi sẽ giữ vị trí mình."

"Tôi không chắc là tụi nó sẽ giữ vị trí chúng. Sớm hay muộn, chúng sẽ phải tháo chạy ra."

"Chúng ta không thể ngăn chặn chúng. Anh chàng thiếu úy VNCH cho biết có khoảng hai đại đội lính Bắc Việt trong đó. "

Hummel cau mày. "Mẹ kiếp!"

Brad cắn môi. "OK, một tiếng."

Hummel gật đầu, mỉm cười. "Tốt, một tiếng đồng hồ. Tôi sẽ gửi tiểu đội của Buck đến tăng cường vị trí anh."

Brad trở lại với Toàn. "Tụi mình phải cầm cự một tiếng cho đến khi xe tăng và Ontos đến."

"Chẳng sao."

"Cấp chỉ huy anh không muốn máy bay và pháo binh, vì họ muốn bảo tồn di tích lịch sử các vị vua chết của anh."

Toàn nghiêng đầu. "Tại sao tôi phát hiện cay đắng trong giọng nói anh?"

"Tôi không thể kềm được," Brad nói, giọng phẫn nộ. "Chúng ta có hỏa lực mạnh hơn mà không thể xài được."

Toàn không nói một lời. Sự im lặng của anh làm Brad tức điên lên.

Anh buột miệng. "Cái đéo vị trí lịch sử các anh. Họ muốn bảo vệ cung điện mấy ông vua chết đéo các anh. Mấy vị vua chết này đã làm gì cho đất nước anh nào? Để tôi nói cho anh biết lịch sử là gì. Nếu họ không san bằng mấy hội trường và cung điện vô ích đó, chúng ta sẽ là lịch sử chắc chắn."

"Anh đang nói gì vậy?"

"Tôi đang nói chuyện lính tôi đang chết vì mấy ông Tướng chết tiệt của anh không chịu thả bom xuống đám giặc đang núp kín trong cái đéo vị trí lịch sử bọn anh."

Toàn sôi máu lên. Mẹ kiếp, mày biết đéo gì về lịch sử? Đất nước mày chỉ có 200 năm lịch sử, và đó không phải ngay cả lịch sử. Tổ tiên mày đến từ Anh, Ái nhĩ lan, Pháp, và chiếm đóng các vùng đất người da đỏ. Mày gọi đó là lịch sử? Dân mày thậm chí không có một bản sắc. Mày làm cái đéo gì ở đây nào? Mày có giúp tụi tao chiến đấu chống lại tụi Cộng sản, chống lại Tàu đỏ và Nga, hay là mày ở đây vì đám tướng lãnh trong cái đéo Ngũ Giác Đài tụi mày và đám nghị sĩ lấy quá nhiều tiền quyên góp từ cái đéo liên hợp kỹ nghệ quân sự để chế tạo máy bay, trực thăng, bom, xe tăng, đến nỗi họ phải gửi tụi mày đến đất nước nhỏ bé của tụi tao để biện minh cho ngân sách quốc phòng của tụi mày?

Tất nhiên, anh sẽ không hét lên những lời đó với Brad, người đã cứu mạng anh và đang chiến đấu cùng với anh chống lại cùng một kẻ thù. Tuy nhiên, sự bộc phát cảm xúc bị đè nén làm anh nghẹn lời. Anh nghiến răng và nắm chặt báng súng M-16.

"Hạ sĩ," anh nói một cách bình tĩnh sau khi hít một hơi dài, "anh đang nói với tôi hay là nói với chính anh? Nếu anh đang nói với tôi, tôi muốn nhắc anh rằng anh đang nói chuyện với một sĩ quan. Anh nên coi chừng ngôn ngữ anh."

Brad ngớ người. Anh biết vô lễ với một sĩ quan cấp trên là một hành vi phạm tội bị trừng phạt bởi tòa án quân sự, nhưng vô lễ với một sĩ quan đồng minh? Anh thậm chí không phải là vô lễ. Anh chỉ bày tỏ ý kiến mình. Nhưng anh biết những gì anh nói là không nên nói. Người thiếu úy VNCH không cần phải ở lại với tiểu đội anh, phơi bày trước nguy hiểm. Hắn ở đây vì hắn muốn giúp đơn vị anh chiếm lại khu vực bị kẻ thù chiếm đóng. Brad lập tức hối tiếc về sự bùng nổ của mình.

"Thiếu úy," anh nói, "tôi xin lỗi vì lời nói của tôi. Chẳng qua chỉ vì một trong lính tôi bị tiêu tùng sáng nay."

Toàn nuốt mạnh. "Không sao. Anh nên đi nói với lính anh đi."

"Chính thế."

"Mà này, nếu anh muốn biết những gì các vị vua chết đã làm cho đất nước chúng tôi, có lẽ anh nên nghĩ đến chuyện học lịch sử nước chúng tôi sau khi anh hoàn thành nhiệm kỳ tòng quân của anh."

"Tôi sẽ nghĩ về chuyện đó."

Brad bò lại đám lính anh đang ngồi quỳ sau bức tường.

Toàn nghiền nát mẩu thuốc lá trên mặt đất. Anh nhìn lên bầu trời đầy mây, cố gắng lấy lại bình tĩnh. Anh ngạc nhiên là anh có thể nổi giận với những lời Brad một cách dễ dàng như vậy. Anh chàng Mỹ chỉ nói những gì trong đầu anh ta, và kể ra thì anh cũng có lý do nói những gì anh nói. Lính anh ta chết vì kẻ thù được cho phép ẩn núp một cách an toàn trong tòa nhà. Ngoài ra, anh ta không biết quý trọng nhu cầu bảo tồn di tích lịch sử một phần vì anh ta đang chiến đấu trên đất người khác.

Anh nguyền rủa mình là quá nhạy cảm. Cộng sản biết cách tấn công bằng chiến tranh tâm lý. Cuộc tấn công của chúng ngay trong trung tâm Huế và cung điện vua chúa, vào những ngày Tết trang trọng, cho thấy chúng khôn ngoan như thế nào. Chúng không quan tâm về giá trị lịch sử của cung điện hoàng gia và các vị vua đã chết, mặc dù đó cũng là tổ tiên chúng. Chúng thậm chí không màng đến ý nghĩa thiêng liêng những ngày đầu tiên trong năm mới.

Chẳng bao lâu, anh bình tĩnh lại. Anh quyết định không để cho sự tức giận xen vào sứ mệnh mình. Anh nhìn hình xâm trên lưng bàn tay và mỉm cười. Mỗi lần anh bực bội, nhìn vào hình xâm luôn luôn mang lại cho anh niềm vui và sự thanh thản tâm trí. Đó là hình xâm một cành hoa lan. Nhánh hoa dài chạy qua cổ tay anh, với một đóa hoa lan duy nhất ngay chính giữa với nhiều lá. Các màu đã phai nhạt, nhưng chuyện đó không quan trọng. Lan là tên nàng và mỗi khi anh nhìn vào lưng bàn tay anh, anh nhớ đến nàng. Hình ảnh Lan từ từ nổi lên trong tâm trí anh và mang lại cho anh cảm giác yên bình và thoải mái. Ý nghĩ anh trôi tới những ngày anh trải qua với nàng trong sáu tháng qua.

Nàng là em gái Phong, thân nhân của bạn anh. Một hôm, anh và người bạn đến một quán cà phê và gặp Phong và Lan. Nét đẹp ngây thơ của Lan làm anh ngây ngất trong buổi gặp gỡ đầu tiên, và từ đó, tình yêu giữa một thiếu nữ và một sĩ quan bộ binh trẻ chớm nở.

Như hầu hết các chuyện tình trong chiến tranh, tình yêu hai người là một chuyện tình vô tội. Anh viết thư cho nàng khi anh trên đường hành quân. Nàng trả lời với những bài thơ ngắn về chiến tranh, hòa bình, và tình yêu của họ. Ước mơ nàng là cho hòa bình khi không còn đánh nhau để anh có thể trở về cuộc sống dân sự và xây dựng gia đình với nàng. Mỗi khi anh có ngày nghỉ phép, anh gặp nàng. Hai người dành buổi tối yên tĩnh ngồi dưới gốc cây bên bờ sông Hương.

Trong một buổi tối đáng nhớ, hai người nắm tay nhau và Lan thấy hình xâm trên tay anh.

"Hoa gì đó anh?" Nàng hỏi.

Toàn mỉm cười. "Em không biết hoa gì à?"

"Trông giống như hoa lan vậy."

"Đúng vậy. Tên em đó mà. Hoa là em. Em luôn luôn ở bên anh."

Lan nhìn anh. Dưới ánh trăng sáng, môi nàng run rẩy và mặt nàng sáng ngời. Anh cúi đầu xuống và hôn nàng. Đó là nụ hôn đầu tiên của hai người. Anh ôm nàng trong vòng tay anh. Cảm giác nôn nao làm anh run lên.

Nàng trải lưng bàn tay anh và chỉ vào đóa hoa lan. "Đây là tim em nè. Trái tim em luôn luôn ở bên anh."

"Ừ, anh mang tim em với anh khắp nơi anh đi."

"Đừng để bất cứ gì xuyên qua tim em nha. Em sẽ chết nếu anh để chuyện đó xảy ra."

"Anh hứa sẽ không để chuyện đó xảy ra."

Đó là một buổi tối lãng mạn. Anh ôm chặt thân hình nàng trong vòng tay, biết rằng anh sẽ không bao giờ quên giây phút đó.

Anh không biết những gì đã xảy ra với Lan và gia đình nàng. Nhà nàng ở quận III, trong vùng đang ở dưới sự kiểm soát cộng sản trong những ngày đầu tiên cuộc tấn công. Gia đình nàng có thể gặp rắc rối vì cha nàng là chỉ huy trưởng một đơn vị thiết giáp đóng ở vùng cao nguyên. Có thể có những tên VC nằm vùng, ra mặt cung cấp thông tin cho kẻ thù. Anh hy vọng chúng tha gia đình nàng. Phong, anh nàng, chỉ là một sinh viên đại học và nàng chỉ là một sinh viên đại học hai mươi tuổi. Họ làm gì để hại chúng? Anh đã từng nghe những chuyện về hành động man rợ của VC đối với các viên chức chính phủ. Bắt cóc và ám sát không phải là không thông thường, nhưng những hành động này đa số nhắm vào các viên chức, chứ không vào gia đình họ.

Một loạt nổ lựu đạn gián đoạn sự suy nghĩ của anh. Anh chụp lấy cây M-16 và chuyển tư thế. Brad đang bò về từ đầu kia tường.

"Chuyện gì vậy?" Toàn hỏi.

"Một đám quân BV đang di động ra khỏi tòa nhà," Brad nói.

"Mình nhào ra đi."

Phú không biết phải làm gì. Cùng với hàng trăm người bị bắt khác, nó ngồi trên mặt đất sân trước trong chùa Tĩnh Quan. Bên phải nó là đôi vợ chồng già trạc năm mươi mấy tuổi. Bên trái nó là một thanh niên trẻ cỡ tuổi hai mươi. Họ trông ngơ ngơ ngác ngác và mệt mỏi. Đa số đến từ các vùng hàng xóm lân cận, nhưng một số đã đi bộ từ các quận khác cách cả ba cây số. Nó bị bắt khi trốn trong nhà vệ sinh trường trung học Trần Hưng Đạo, chỉ cách chùa Tĩnh Quan hai khu phố. Một nhóm bộ đội, hơn hai mươi nam nữ cỡ tuổi nó, lục lọi toàn bộ trường trung học, từ các lớp học, văn phòng hiệu trưởng, cho tới phòng chờ của giáo viên. Một cô gái bộ đội xông vào nhà vệ sinh khi cô phát hiện nó. Nó tưởng cô ấy sẽ bắn khi cô chỉa súng vào nó.

"Anh đang làm gì ở đây?" Cô ta hét lên.

Răng nó đánh lập cập và đôi chân run rẩy. "Thưa chị, em đang lau chùi nhà vệ sinh."

Cô gái chọc súng vào bụng nó. "Ra khỏi đây."

Khi nó ra ngoài, nó nhận ra nó không phải là người duy nhất. Một chục người khác, trong đó có hai đứa bạn nó, Duyệt và Huy, đã bị tập hợp. Đám bộ đội chỉa súng dẫn họ tới chùa.

Trên đường đi, Phú giật mình khi thấy bộ đội khắp nơi trên đường phố. Hàng trăm người, mặc đồng phục kaki xanh lá cây, mũ bấc xanh lá cây, với súng AK-47 lủng lẳng dưới vai, tràn ngập cả mấy khu phố. Hàng chục VC trong bộ đồ bà ba đen đi lẫn lộn với họ. Đám bộ đội chạy qua lại, quát tháo với đám dân bị bắt trong giọng Bắc kỳ, với âm điệu nặng nề, nghe như tiếng ngoại quốc. Nó đã từng nghe người ta nói với giọng đó, nhưng không với cách phát âm khác biệt như vậy và cũng chẳng nhiều người. Tại chùa, những người bắt họ phát giấy tờ và ra lệnh đám bị bắt viết xuống tất cả mọi thứ về bản thân: tên, địa chỉ, nghề nghiệp, và những nơi sống trong ba mươi năm qua. Nó chỉ mới có mười sáu tuổi, nên không phải viết nhiều. Sau khi nộp lại tờ thông tin, đám bộ đội dẫn họ đến sân trước và ra lệnh họ ngồi xuống, từng hàng một, theo thứ tự mà họ nộp giấy tở.

Phú nhẩm đếm số người bị bắt và tổng kết khoảng 215. Mười bốn phụ nữ. Một nửa là những người trẻ cỡ tuổi hai mươi, ba mươi, và một nửa là trung niên ở tuổi bốn mươi và năm mươi. Nó thấy chỉ có năm, sáu thiếu niên cỡ tuổi nó. Nó nhận ra vài gương mặt quen thuộc. Bà Hải có gian hàng bán bánh mì cho trẻ em như nó trên đường đến trường. Ông Lộc cho thuê sách trẻ em trong cửa hàng bên kia đường nơi nó ở. Cô Lan là sinh viên năm thứ ba tại Đại học Huế, và là bạn chị nó. Cô đến nhà nó vài lần mượn sách chị nó. Tất cả đều trông sợ hãi và hoang mang, tuân theo lệnh đám bộ đội răm rắp mà không nói một lời.

Họ ngồi trên mặt đất, mặt họ tối xầm với nét lo âu. Thỉnh thoảng, một số liếc nhìn đám người đứng coi được phép đứng sau hàng rào dây kẽm gai. Nhiều người trong đám người coi là bạn hoặc người thân những người bị bắt. Phú quét mắt nhìn mặt đám người đứng coi để xem có ai từ gia đình nó, nhưng chẳng thấy ai cả.

Tại sao nó ở đây? Tại sao những người này ở đây?

Họ ngồi đó một lúc lâu mà không nói chuyện với nhau. Trước đó, một tên bộ đội trung niên thông báo họ bị cấm nói. Họ có thể đi vào phòng vệ sinh nếu giơ tay xin phép và sau đó mỗi lần chỉ có một người. Trông họ như một đám trẻ em mẫu giáo. Đám bộ đội và VC có vẻ rất bận rộn chuẩn bị cho một cái gì đó, có thể là một bài diễn văn về chủ nghĩa Mác, hoặc một bài giảng về người Mỹ và chính phủ ngụy Nam Việt Nam. Họ kê một bàn và vài cái ghế ở sân. Hai tên VC, một thanh niên và thiếu nữ, cả hai cỡ hai mươi mấy tuổi, ngồi bên bàn, lật qua các tờ thông tin, thỉnh thoảng dừng lại rồi nói chuyện với nhau, và viết nguệch ngoạc ghi chú trên mấy tờ giấy.

Phú đã nghe chú nó nói là những người cộng sản thích tuyên truyền qua các bài giảng và thảo luận ca ngợi cộng sản và lên án chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Nó thật sự chẳng hiểu nhiều về chính trị và chiến tranh. Nó đang học lớp mười một và chuẩn bị thi Tú tài quốc gia phần một trong mùa hè. Cha mẹ nó qua đời nhiều năm trước và nó hiện đang sống với chú nó, một bác sĩ tại bệnh viện. Sáng nay, khi nghe tiếng súng cối nổ và đạn bắn, nó chạy đến trường với hy vọng gặp bạn bè. Bây giờ ngồi trên mặt đất, nó nguyền rủa cho sự ngu xuẩn của mình.

Tới ba giờ chiều, đám bộ đội và VC có vẻ làm xong những gì họ đang làm. Hai tên VC đọc xong những tờ thông tin và đặt chúng lên bàn. 

Một người đàn ông trung niên mặc áo trắng lái một chiếc xe gắn máy Honda vào sân. Hắn xuống xe và bước nhanh thẳng tới bàn, không thèm để ý đến đám người bị bắt đang ngồi sát vào nhau như đàn cừu sợ hãi. Hai tên VC chào đón hắn và để hắn ngồi ở giữa bàn. Khi hắn ngồi xuống ghế, tiếng thì thầm lan ra trong đám bị bắt. Phú không biết hắn là ai, nhưng dựa vào phản ứng của mấy người bị bắt, hắn có vẻ là người nổi tiếng trong vùng.

Hai tên VC ngồi hai bên hắn. Người đàn ông mặc áo trắng lấy ra một khẩu súng lục K-54 và cầm nòng súng trong tay như thể hắn cầm cái búa nhỏ thường dùng bởi quan tòa. Một số VC trong bộ đồ bà ba đen đứng lan tràn xung quanh, tay cầm AK-47.

Người đàn ông trung niên áo trắng quét mắt qua những người bị bắt và hắng giọng. Hắn đập khẩu súng lục lên bàn kêu gọi sự chú ý mọi người. Chuyện đó hoàn toàn không cần thiết vì ai cũng yên lặng và mọi mắt tập trung vào hắn. Hắn nói với một giọng Huế rõ ràng. "Tôi là Mai Dinh Châu Cát, đại diện Liên minh Nhân dân Dân chủ và Hòa bình. Hôm nay, tôi chủ trì Toà án nhân dân này để quyết định các tội ác phạm bởi những tên tội phạm bị dân bắt giữ."

Trời đất ơi! Hắn nói gì vậy? Phú tự hỏi. Mình phạm một tội ác? Mình bị dân bắt giữ? Đám bộ đội là dân à?

Châu Cát dừng lại. "Giúp tôi trong phiên toà này là đồng chí Lê Thị Trang Tiết, ngồi bên trái tôi, và đồng chí Trần Thất Thu, ngồi bên phải tôi." Hắn đập khẩu súng lục trên bàn. "Hãy bắt đầu phiên tòa."

Không ̣để phí thì giờ, Trang Tiết đọc tên kẻ "tội phạm" đầu tiên trong danh sách trên giấy. "Nguyễn Đức Thắng, 42 tuổi."

Hai tên VC dẫn người đàn ông ngồi ở đầu hàng đầu tiên lên trước bàn. Người đàn ông đứng thẳng, đối diện Châu Cát. Tên bộ đội trung niên đã nói với họ là họ không được nói trừ khi được cho phép.

Thất Thu đọc tờ giấy. "Nguyễn Đức Thắng là chủ nhà hàng Miền Trung. Nhà hàng là ngụy trang cho hoạt động hắn là đặc vụ CIA bí mật. Hoạt động hắn phản động và gây tổn hại cho cuộc cách mạng hòa bình của dân."

Hắn đưa tờ giấy cho Châu Cát. Châu Cát liếc nhanh qua tờ giấy.

"Hình phạt là tử hình," Châu Cát nói cụt lủn.

Mọi người há miệng kinh ngạc. Tiếng thì thầm rải rác trong đám đông. Châu Cát đập khẩu súng lục trên bàn. "Yên tĩnh. Yên tĩnh. Lấy lại trật tự."

Mấy tên VC vung vẩy súng AK 47. Đám đông trở nên im lặng ngay tức khắc.

Thắng giơ tay lên, có lẽ muốn xin phép nói, nhưng hai tên VC đẩy ông qua các VC khác và chúng lẹ làng dẫn ông đi.

Phiên tòa toàn bộ kéo dài ít hơn một phút.

Phú choáng váng. Nó tưởng đang nằm mơ. Hàng chục câu hỏi xoay vòng qua tâm trí nó. Làm sao chuyện này có thể được? Họ có thể làm chuyện đó được sao? Họ thật sự nghiêm trọng? Ông Thắng sẽ bị giết? Đây thật sự là một phiên tòa? Luật sư đại diện cho bị cáo đâu rồi? Nó chỉ là một đứa trẻ, nhưng nó biết những điều căn bản của một phiên tòa hình sự.

Một người ngồi sau nó thì thầm, "Tụi nó chỉ hù thôi."

Chính thế! Họ chỉ hù thôi. Họ đang dùng chiến thuật làm sợ hãi. Họ muốn dọa những người bị bắt và những người đứng coi. Chắc chắn là hù vì nếu họ thật sự muốn giết ông Thắng, họ có thể làm chuyện đó mà không cần xét xử. Tại sao họ cần phải phí thì giờ với phiên tòa này? Với ý nghĩ đó, Phú thở phào nhẹ nhõm.

Án kế tiếp cũng là một án tử hình, cũng ít hơn một phút. Từng người một, đám VC dẫn các tội nhân đối diện tòa, đọc tội ác của họ, công bố bản án, rồi dẫn họ đi. Trong vòng một giờ, một phần ba đám tội nhân bị kết án với sự hữu hiệu của một nhà máy lắp ráp dây chuyền. Phần lớn, gần 99%, lãnh án tử hình. Một tội nhân hét lên phản đối khi bản án được công bố. Ông ta lập tức bị mấy tên VC đánh đập bằng báng súng và kéo đi. Một số nhận được án nhẹ với các loại hình phạt, như lao động, tiền phạt. Chỉ có một trường hợp được tuyên bố trắng án. Khi đến lượt Duyệt, Phú lo lắng.

Trang Tiết đọc, "Trần Văn Duyệt, mười sáu tuổi."

Thất Thu tiếp theo. "Trần Văn Duyệt là học sinh trường trung học Trần Hưng Đạo. Cha nó làm việc cho chính phủ ngụy là nhân viên thành phố."

"Vì tuổi nó và cha nó chỉ là một nhân viên chính phủ cấp thấp, Duyệt lãnh án nhẹ làm lao động," Châu Cát công bố.

Phú thở một hơi dài nhẹ nhõm. Duyệt được dẫn đến bên phải sân, nhập vào vài người khác, những người nhận được cùng một bản án. Duyệt cúi đầu xuống, tránh những tia nhìn chằm chằm.

Ngay sau đó, Lan được dẫn đến đứng trước mặt tòa.

Thất Thu mỉm cười. Hắn thì thầm vào tai Châu Cát và Châu Cát gật đầu. Lan run rẩy, nước mắt lăn dài trên mặt nàng.

"Vũ Thị Lan là sinh viên Đại học Huế," Thất Thu công bố. "Anh cô là một thành phần cực đoan với những suy nghĩ cực kỳ phản động. Cha cô là một sĩ quan cao cấp phục vụ trong quân đội chính phủ ngụy."

"Án tử hình," Châu Cát nói.

Lan phát ra một tiếng thét và ngã khụy xuống đầu gối. Hai tên VC lập tức kéo nàng đi. Họ kéo thân hình nhỏ bé của nàng như một con thú đã chết. Đầu nàng gục xuống và chân lê trên mặt đất.

Cảnh tượng kích động Phú. Phản ứng Lan có vẻ quá đáng nhưng cho thấy bất cứ chiến thuật nào họ đang dùng, chiến thuật đó quả có hiệu nghiệm. Nó không biết họ có đang chơi một trò chơi. Cách họ tiến hành phiên tòa, mặc dù đặc thù và độc đoán, có vẻ nghiêm trọng. Họ có thể dành nhiều thì giờ để hù người ta một cách nghiêm trọng như vậy sao?

Khi tên nó được gọi, nó cố gắng bình tĩnh và bước thẳng tới bàn. Nó khoanh tay và nhìn chằm chằm vào Thất Thu. Nó biết số phận của mình được quyết định bởi bất cứ điều gì Thất Thu nói.

Thất Thu thậm chí không nhìn nó. Hắn chỉ đọc thẳng từ tờ giấy. Hắn có vẻ mệt mỏi và chỉ muốn làm cho xong chuyện.

Giọng nói hắn đều đều. "Phạm Đình Phú là học sinh trường trung học Trần Hưng Đạo. Nó là một trẻ mồ côi và sống với chú nó là bác sĩ tại bệnh viện. Mặc dù chú nó làm việc cho chính phủ ngụy, hắn có ích cho dân."

"Vì tuổi nó và chú nó là một bác sĩ hữu ích với cách mạng, Phú lãnh án nhẹ làm lao động," Châu Cát nói bình thản.

Phú không có thì giờ phản ứng khi một tên VC chọc khẩu AK-47 vào lưng nó và đẩy nó tới chỗ Duyệt đang đứng. Nó và Duyệt trao đổi tia nhìn mà không để lộ nét gì trên mặt. Phú không biết nó nên khóc hay cười, nhưng nó sợ rằng bất cứ cảm xúc nào nó để lộ ra đều có thể gây rắc rối.

Tới sáu giờ chiều, toàn bộ phiên tòa đã xong. Sáu tội nhân nhận được án nhẹ lao động. Bốn phải trả tiền phạt. Họ được phép về nhà lấy tiền. Một người được tuyên bố trắng án. Những người còn lại lãnh án tử hình.

Châu Cát sau đó đưa ra một bài phát biểu với những người còn lại, kể cả những người đứng coi. Phú chẳng thèm nghe những gì hắn nói. Nó nghĩ về những gì thật sự sẽ xảy ra cho những người lãnh án tử hình. Tiếng hét ám ảnh của Lan và thân hình nhỏ bé của nàng vẫn còn vất vưởng trong tâm trí nó.

Đám VC dẫn Phú và năm đứa trẻ khác vào trong chùa. Phú thấy đói nhưng nó không dám hỏi ăn. Nó không tin là họ sẽ cho nó ăn. Tuy nhiên, nó mừng rỡ khi thấy một số ni cô sửa soạn bữa ăn trong nhà bếp.

Một tên VC trung niên với một vết sẹo trên mặt chỉ vào một cái bàn trong góc chùa. "Tụi mày có mười lăm phút ăn rồi đi làm việc."

Đám thiếu niên ăn trong im lặng. Kỳ lạ, Phú ăn ngon miệng, mặc dù nó không thích đồ ăn chay.

Sau khi ăn, tên VC sẹo mặt ra lệnh tụi nó vác gạo và đạn dược từ khắp nơi trên các đường phố về chùa. Phú được bổ nhiệm làm toán trưởng vì nó có vẻ lực lưỡng và cao hơn những đứa kia. Trong lúc làm việc, Phú nghe tiếng súng nổ từ xa. Nó thấy khói bốc lên về hướng cổ thành. Hy vọng nó dâng lên.

Đến tối, chúng được nghỉ ngơi một lúc để chúng có thể tiếp tục làm việc vào ban đêm. Phú và các bạn trao đổi ít đối thoại vì chúng không muốn chọc giận những kẻ bắt chúng. Tòa án nhân dân đã cho thấy những người này thất thường như thế nào.

Mỗi đứa kiếm một chỗ trong sân sau chùa để nghỉ ngơi hoặc chợp mắt một chút. Phú ngồi xuống và dựa người vào tường, Nó kiệt sức. Hình ảnh những gì xảy ra trong tòa án nhân dân tái hiện lại trong tâm trí nó. Nó tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra cho những người bị kết án tử hình. Bây giờ họ bị nhốt ở đâu? Nó cũng không thấy dân địa phương khác sau khi kết thúc phiên tòa. Những người đứng coi được phép trở về nhà họ, có lẽ để mang về tin tức cho những người thân yêu của đám bị bắt. Phú hy vọng chú nó sẽ không sao. Qua những gì chúng nói, có vẻ là chúng có chút tôn trọng bác sĩ. Chúng có thể cần bác sĩ và y tá sau đó.

Chẳng mấy chốc nó chìm vào giấc ngủ.

Phú bị đánh thức bởi tiếng hét. "Thức dậy."

Nó mở mắt ra. Tên VC sẹo mặt đá nó. Nó lập tức đứng lên. Trời tối rồi. Nó đã ngủ được khoảng một tiếng.

Tên VC sẹo mặt tập hợp tất cả đám thiếu niên. Hắn đưa cho chúng xẻng và cuốc và dẫn chúng tới một góc phía sau chùa.

"Đào một cái hố ở đây," tên VC sẹo mặt ra lệnh, chỉ vào một vùng trống phía sau một cây lớn và đám cây bụi.

"Thưa chú, cháu có thể biết bề dài, bề sâu và rộng?" Phú hỏi.

"Đào sâu hai mét, rộng hai mét và dài mười mét."

Trước khi đi, tên VC nói, "Làm càng lẹ càng tốt. Tao sẽ kiểm tra tụi mày trong một giờ. "

Đám trẻ bắt đầu làm việc ngay lập tức. Thỉnh thoảng, một tên VC ló đầu ra cửa sổ nhà bếp và nhìn về hướng chỗ chúng làm việc. Trong khi làm việc, Phú liếc nhìn xung quanh. Các đường phố đã tối nhưng vẫn có chút ánh đèn. Nó thấy hàng chục bộ đội đi bộ trên đường phố, tay cầm AK-47.

Không thể nào trốn thoát được.

Trong lúc nghỉ ngơi, đám trẻ bắt đầu nói chuyện, nhưng cố gắng giữ tiếng nói thấp.

"Tụi mình phải ra khỏi đây càng sớm càng tốt," Phú thì thào.

"Bằng cách nào? Tụi nó ở khắp nơi," Duyệt nói.

"Cho dù tụi mình có chạy thoát ra khỏi chỗ này, mình sẽ đi đâu?" Huy nói. "Tụi nó có thể còn nhiều ở phía bên kia và tụi nó sẽ bắt lại mình."

Huy nói đúng. Qua những gì đám VC nói, chúng đã chiếm toàn bộ quận, và có thể các quận huyện lân cận.

"Mình không thể ở đây được," Phú nói.

"Mình nên chờ lính mình tới."

"Họ không đến đâu. Đã hai tuần rồi từ lúc bắt đầu đánh nhau. Nếu họ định chiếm lại thành phố, lẽ ra họ phải đến giờ này rồi. "

"Ý mày nói họ bỏ rơi tụi mình?"

"Tao không biết. Tụi mình không biết tình hình thế nào. Nhưng có vẻ là họ không đến, ít nhất trong một thời gian."

"Nhưng lúc tao đi tiểu, tao nghe tụi nó nói là đừng có phí phạm đạn và tránh gây tiếng động lớn vào ban đêm vì tụi nó sợ tiết lộ vị trí tụi nó. Có vẻ tụi nó sợ lính mình đang đến."

"Có lẽ tụi nó chỉ thận trọng, tao không tin là lính mình sẽ đến giải cứu mình như lính biệt kích."

"Nếu lính mình không đến, tại sao tụi nó muốn mình đào hào này? Bộ đó không phải là cho tụi nó phòng thủ?"

Phú dừng lại. Nó nhìn những gì tụi nó đã đào cho đến nay, chỉ dài khoảng hai mét, nhưng hai hoặc ba người có thể lọt vừa với vũ khí và vẫn còn dư chỗ để di chuyển xung quanh. Điều duy nhất đặc biệt là vị trí của rãnh ở mặt sau chùa, che bởi phía trước. Nếu rãnh hào là để phòng thủ, thì lẽ ra nó phải được đặt ngay phía sau cổng trước chứ?

Chúng trở lại làm việc để tránh nghi ngờ từ con mắt tò mò của đám VC. Tên VC sẹo mặt trở lại trước nửa đêm và ra lệnh cho chúng đào thêm mấy rãnh hố nữa.

Đêm lạnh, và những làn gió lạnh làm giảm bớt thân nhiệt đám trẻ. Chúng làm việc âm thầm dưới ánh đèn yếu ớt từ một máy phát điện. Phú bỏ chuyện trốn thoát. Nó rất mệt mỏi đến độ chỉ muốn làm xong việc để có thể được phép ngủ. Bàn tay nó tê cứng và thân hình nó thấm đẫm mồ hôi.

Tới ba giờ bốn mươi lăm sáng, chúng làm xong nhiều rãnh ở sân sau. Đống đất và bụi bẩn trải dài dọc theo bên cạnh rãnh. Đến lúc này, Phú tin rằng các hào rãnh sẽ được dùng cho một cái gì đó khác hơn hố để phòng thủ, bởi vì cách dàn xếp các hào rãnh có vẻ lung tung không theo thứ tự gì. Nó nghĩ các hào rãnh này được dùng như mộ chôn người. Nhưng cho ai? Nó không muốn nghĩ đến những người bị kết án tử hình.

Âm thanh của những bước chân từ xa khiến đám trẻ dừng lại. Một nhóm người đang bước về phía chúng. Phú nghỉ tay trên xẻng, nhìn chằm chằm vào đám đông đang tới gần. Một tên VC đội nón lính trong áo sơ mi trắng và quần bộ đội xanh lá cây xuất hiện; hắn cầm một khẩu AK-47 ngang hông. Phía sau hắn là cả chục người cả nam lẫn nữ, hộ tống bởi ba tên VC trong bộ đồ bà ba đen, AK-47 lủng lẳng từ vai. Phú giật mình khi thấy những khuôn mặt quen thuộc. Các tội nhân bị kết án tử hình. Họ đi một cách khó khăn. Chỉ tới khi họ đến gần hơn thì Phú mới biết tại sao. Họ bị trói tay quặt ra sau lưng và bị cột vào nhau thành một chuỗi bằng các dây điện thoại. Người này sang người khác. Một số bước đi chân không, một số đi dép.

Phú ngạc nhiên kinh hoàng khi thấy một ngày đã thay đổi họ như thế nào. Họ đều trông mòn mỏi. Những miếng giẻ bẩn thỉu nhét ở miệng họ để lại mắt họ là nét diễn tả duy nhất; những cặp mắt lõm và ngơ ngác biểu lộ không một sức sống.

Mấy tên VC trong bộ bà ba đen ra lệnh những người bị bắt trói đứng bên cạnh các rãnh hố. Phú thấy Lan đứng đó; nàng xanh xao và hốc hác. Cặp mắt bàng hoàng của nàng nhìn chằm chằm vào một mục tiêu vô hình nào đó.

Mấy tên VC bước trở lại, mặt lạnh lẽo của họ xầm lại. Một tên cầm khẩu AK-47 như thể hắn sắp sửa bắn. Phú run rẩy.

"Tất cả mấy người đã phạm tội ác chống lại nhân dân và cách mạng," tên VC áo trắng tuyên bố.

Tên VC trong bộ bà ba đen giơ súng và bắn một phát độc nhất vào mặt người đàn ông đứng ở đầu chuỗi người. Ông ta ngã xuống rãnh, không một tiếng kêu, kéo những người khác theo với ông. Một người ngã, người kế tiếp ngã theo, và mọi người còn lại rớt xuống rãnh. Họ gào lên nhưng tiếng la hét của họ bị bóp nghẹt bởi giẻ trong miệng thành những tiếng ú ớ. Vài người cố đứng lên nhưng không được vì trọng lượng những người khác.

"Lấp hố, mau!" Tên VC áo trắng quát với đám trẻ.

Phú cứng người. Nó không cử động được. Mấy đứa kia đứng chết sững.

Mấy tên VC chọc AK-47 vào đám trẻ. Tên VC áo trắng quất lưng Phú với báng súng. "Làm đi, nếu không tao bắn!"

"Không," Phú la lên.

Những người nam nữ trong rãnh quằn quại dữ dội. Một ông đẩy mình lên trên mặt đất tại mép rãnh, hai tay vẫn bị trói sau lưng, nhưng một tên VC đập đầu ông với báng súng AK-47. Ông phát ra một tiếng rít ngắn ngủn từ miệng bị bịt và ngã xuống. Tên VC quay lại và chọc khẩu súng vào một đứa. "Lấp hố!"

Đứa bé lau nước mắt. Nó do dự, sau đó từ từ xúc đất từ các đống trên mặt đất và hất vào rãnh. Phú, Duyệt, Huy và mấy đứa khác đứng, nước mắt tràn trụa trên mặt.

Tên VC áo trắng giơ cây AK-47 lên và nhắm vào đầu Phú. "Tao làm thiệt đó, lấp hố!"

Phú nuốt ực. Nó đẩy cái xẻng vào đống đất mới đào, cầm cán trong một tay và lau nước mắt bằng tay kia, ấn cạnh xẻng với bàn chân, kéo nó ra với nắm đất, và hất vào rãnh. Mấy đứa kia làm theo nó. Những khối đất vất lên đầu các nạn nhân đang lăn lộn lổm ngổm dưới hố. Một số nhìn lên, nhưng phải quay đầu tránh đất bắn văng tung tóe lên mặt họ. Đất và bụi bẩn chẳng mấy chốc lấp đầy miệng bị bịt của họ. Một ông cố leo lên bằng đầu gối, nhưng bị đánh với báng súng và rớt trở xuống.


Lan nằm mẹp dưới hai người đàn ông. Nàng đá và đẩy họ ra, nhưng họ ngã xuống, lăn đè lên nàng. Nàng luồn lách dưới sức nặng của những người đàn ông. Nàng nhìn lên. Mấy miếng vải đen trong miệng chặn tiếng thét của nàng. Mặt nàng méo mó với đau đớn và kinh hoàng. Tia mắt nàng chạm tia mắt Phú. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, vẻ thê lương trong đôi mắt đẫm lệ của nàng đâm vào tim nó.

Nó xúc đất giận dữ. Nó nghiến răng, nắm chặt cán xẻng, xúc vào đống đất, hất đất lên mà không nhìn. Những nắm đất bay vào rãnh. Mắt nó mờ đi. Tai nó ù lên. Nhưng nó cứ xúc mạnh và hất.

Một nơi nào đó ở xa xa, một tiếng nổ vang lên trong màn đêm yên tĩnh.


Toàn nghe tiếng nổ. Chắc là đạn súng cối phe địch ở một nơi nào đó phía tây. Anh dừng lại và giơ tay lên. Từ xa, Brad và Jimmy đứng lại, chờ tín hiệu anh. Anh để một phút trôi qua.

Bây giờ là bốn giờ sáng. Đường phố còn tối, nhưng mặt trời sẽ lên trong khoảng hai tiếng và cổ thành sẽ bị bắn phá và pháo kích dữ dội. Toàn ra hiệu cho hai anh thủy quân lục chiến tiếp tục chạy thận trọng về phía tòa nhà bị quân BV chiếm đóng. Họ vượt qua đường từng người một, cách hai phút. Nếu kẻ thù thấy bất kỳ một người trong toán họ và bắn, ít nhất hai người kia sẽ được cảnh báo.

Tòa nhà chỉ khoảng 200 m ở phía trước. Tối và yên tĩnh. Nhưng Toàn biết hàng chục lính BV vẫn tỉnh táo. Anh đã ở đó với chúng một đêm và anh biết thói quen chúng.

Trước đó, trung úy Hummel đã chấp thuận yêu cầu họ để thực hiện nhiệm vụ lẻn vào bên trong tòa nhà để tiêu diệt các khẩu súng máy đã dí sát lính thủy quân lục chiến tại vị trí họ cả ngày. Hummel miễn cưỡng về chuyện cho phép sứ mạng, nhưng sau khi nhìn thấy sự bất hiệu lực của xe tăng và Ontos, anh không còn sự lựa chọn nào. Yêu cầu lập đi lập lại cho yểm trợ máy bay và pháo binh đã bị từ chối. Đồng thời, lệnh từ bộ chỉ huy càng lúc càng nhiều, cấp bách và bó buộc hơn. Lính thủy quân lục chiến phải chiếm lại tòa nhà càng sớm càng tốt. Các vị tướng rất lo lắng. Washington không muốn thấy Huế liên tục trên các tiêu đề báo chí và truyền hình.

Khi Toàn lần đầu tiên nói với Brad về ý anh xâm nhập vào tòa nhà để tiêu diệt các khẩu súng máy, Brad nghĩ anh chàng thiếu úy Việt điên rồi.

"Anh đang bị thuốc hành hay sao đó?" Brad hỏi một cách hoài nghi.

"Không, chẳng có chút nào hết. Ngược lại, tôi tỉnh như sáo sậu," Toàn nói một cách bình tĩnh.

"Thế tại sao anh đề nghị tụi mình tự tử?"

"Vẫn tốt hơn là ngồi đây dòm xe tăng M-48 hoặc Ontos của mình ép qua đường phố chật hẹp và bị nổ tung lên bởi hỏa tiễn B-40."

"Và anh nghĩ rằng chiến lược kamikaze của anh sẽ thành công?"

"Làm sao nó có thể là một sứ mạng cảm tử khi kế hoạch là mình lẻn vào trong tòa nhà chúng mà chúng không biết?"

"Làm sao mình làm chuyện đó được?"

"Tôi biết một cách bí mật vào bên trong mà không bị thấy," Toàn nói với một nụ cười tự mãn. "Đừng quên rằng tôi đã lục lọi tòa nhà đó kỹ lưỡng và tôi ở lại đó một đêm."

"Cách bí mật gì?"

"Có một đường hầm kết nối hệ thống thoát nước dưới đất ở đường phố đến phòng dịch vụ trong tòa nhà và có một cầu thang từ phòng dịch vụ lên tới mái nhà."

Brad nhìn Toàn chằm chằm, không biết anh ta đang nói đùa hay thật.

Mặt Toàn trở nên nghiêm trọng. "Tin tôi đi, Brad. Tôi không biết lý do tại sao có đường hầm ở đó. Tòa nhà cũ; nó được Pháp xây và Nhật chiếm đóng trong Thế chiến II. Nó có nhiều lối đi bí mật. Có lẽ đường hầm được dùng là một nơi trú ẩn."

"Và cầu thang?"

"Tôi nghĩ là nó chính yếu được dùng bởi những người bảo trì để có lối đi nhanh lên tới mái nhà."

"OK, tôi tin anh. Nhưng giả sử chúng ta có thể lên tới mái nhà mà không bị phát hiện, và giả sử chúng ta có thể giết tất cả mấy tên điều khiển súng máy. Làm sao anh tính ra khỏi tòa nhà?"

"Cùng lối mình đi vào. Ngay sau khi mình xong việc, mình sẽ đi ra qua đường hầm và không có cách nào tụi nó có thể thấy tụi mình."

Nghe có vẻ như cốt truyện của một tiểu thuyết chiến tranh dở ẹt, nhưng Brad thích chí. Anh và Toàn nói thêm về kế hoạch và cuối cùng anh bị thuyết phục là chuyện đó có thể làm được. Cả hai đến gặp Hummel và trình bày ý tưởng. Sau vài giờ thảo luận qua lại, Hummel cuối cùng đồng ý cho Toàn dẫn Brad và Jimmy để thực hiện một sứ mạng "không cách đéo nào làm được"- lời của Hummel - mà anh từng nghe.

Cái lỗ cống dẫn đến đường hầm nằm trong một ngõ hẻm gần vỉa hè trên đường phía sau tòa nhà địch. Toàn và hai chiến hữu Mỹ phải đi vòng quanh các khu phố qua một ngõ tắt để họ có thể đến gần tòa nhà từ phía sau. Ngay cả với ngõ tắt, họ cũng mất gần một tiếng và bây giờ họ chỉ còn hai trăm mét cách tòa nhà.

Đường phố hoàn toàn vắng teo. Dân cư chắc đã chạy ra khỏi khu vực khi cuộc chiến bắt đầu. Toàn khá quen thuộc với khu phố đặc biệt này vì anh đã đến đây nhiều lần trong những năm qua. Ngõ hẻm nơi có lỗ cống nằm bên cạnh các cửa hàng tạp hóa mà anh thường xuyên lui tới mỗi khi đến phần này thành phố. Kẻ thù không tin rằng họ có thể đến tới tòa nhà từ phía sau. Chúng không biết rằng có một ngõ tắt tới đây từ các đường ngang qua tòa nhà. Nhưng tất nhiên, gác canh chúng hoàn toàn thức tỉnh. Ngoại trừ là chúng không biết gì về đường hầm.

Từ vị trí này trở đi, Toàn không muốn đi ra ngoài trên đường phố để tránh lộ diện. Trời tối, nhưng kẻ thù vẫn có thể thấy được những di động. Anh dẫn Brad và Jimmy xuyên qua những ngôi nhà và các cửa hàng, len lỏi khoảng cách hai trăm mét qua các ngõ hẻm nhỏ và đường vòng. Chẳng mấy chốc, họ đến lỗ cống. Nó hoàn toàn được che bởi những bức tường cao cả hai bên mặt ngõ.

Sự im lặng và bóng tối cho Toàn một cảm giác kỳ lạ. Anh đưa ra dấu hiệu tay để Brad và Jimmy gỡ cái nắp trên miệng cống. Cái nắp không khóa. Hai anh TQLC dỡ bỏ nắp từ từ trong khi Toàn đứng canh chừng. Đó là một lỗ cỡ trung bình, vừa đủ lớn cho một TQLC Mỹ trang bị đầy đủ chui xuống. Toàn đã vẽ một sơ đồ chỉ cho họ đường hầm. Đường hầm nằm khoảng hai mét từ miệng cống, một phần ẩn sau một bức tường. Nước thải ở bên trái.

Toàn đi xuống đầu tiên. Anh hạ thấp người qua lỗ cống, cố gắng giữ chiếc M-16 không chạm vào mép lỗ. Từng người một, họ hạ xuống từ từ qua lỗ cống. Jimmy là người cuối cùng. Anh giơ nắp trên đầu và cẩn thận đưa nó xuống vị trí chính xác như trước.

Một khi trên mặt đất, Toàn thở phào nhẹ nhõm. Ít nhất họ không phải lo lắng bị quân địch thấy. Anh bật đèn pin và dẫn hai anh TQLC tới đường hầm. Mặc kệ mùi hôi thối từ rác rưởi trong nước thải, họ nín thở, bò qua đường hầm trên hai tay và hai chân trong khi vẫn giữ đồ nghề khỏi mặt đất. Đó là một chuyến tập dượt đau đớn và mệt mỏi, một chuyện mà họ đã không bao giờ thực hành trong quá trình huấn luyện quân sự họ.

Sau nửa giờ bò âm thầm trên tay và đầu gối, họ đến cuối đường hầm. Họ bây giờ ở ngay bên trong bản doanh đối phương. Toàn ra dấu nghỉ ngơi. Họ ngồi trên mặt đất, nhìn nhau với vầng trắng quanh mắt trên mặt bôi dầu xám xịt. Họ ngồi im lặng trong năm phút trong khi tập trung sự chú ý vào âm thanh đến từ trên.

Toàn từ từ đứng dậy và nhòm qua một khe hẹp giữa hai tảng đá chặn lỗ hổng đường hầm. Phòng dịch vụ tối đen. Anh nhìn chằm chằm vào bóng tối một lúc để điều chỉnh thị lực. Anh không thể nhìn thấy toàn bộ phòng, nhưng không có âm thanh, không có hơi thở đều đặn của một tên lính Bắc Việt đang ngủ.

Anh gật đầu với Brad và hai người từ từ đẩy những tảng đá sang một bên, để lộ một căn phòng không cửa sổ trống rỗng, với một cầu thang xoắn ốc trong góc.

Toàn đẩy mình lên và bò ra cửa. Brad và Jimmy theo. Họ xúm quanh cầu thang. Brad ngạc nhiên vỉ kích thước nhỏ bé của cầu thang và kiểu hẹp, nó giống như một cầu thang dành cho con nít trong nhà chơi cho trẻ con. Bậc thang làm bằng gạch cỡ bàn chân kết nối với nhau bởi hai ống đồng xoắn ốc cuộn lên và quanh một cột thép thẳng đứng. Toàn đã bảo đảm với Brad là cầu thang vững chắc và có thể chịu được trọng lượng cả hai người, nhưng bây giờ anh đối diện nó, anh không chắc chắn làm sao Toàn có thể có cái ước lượng chuyên môn như vậy. Toàn biết Brad hoài nghi, nhưng anh không muốn giải thích. Anh chỉ vào đồng hồ, cho biết họ không có nhiều thì giờ. Brad nhìn Jimmy và nhún vai.

Không có lý do gì để mà do dự nữa. Họ sẽ phải thử và xem như thế nào. Toàn leo lên đầu tiên, Brad theo sau. Jimmy ở lại phía sau để phụ sức khi họ rút lui trong trường hợp quân địch khám phá ra căn phòng dịch vụ. Cầu thang hơi trùng xuống khi hai người leo lên lúc mới đầu, nhưng nó có vẻ vững vàng. Nó sẽ dẫn lên mái nhà qua luôn ba tầng. Nó đứng trong một khoảng trống nhỏ dọc và bị chặn bởi các bức tường ở mỗi tầng. Kẻ thù không thể nhìn thấy họ, nhưng họ có thể nghe thấy chúng nếu chúng gây ra tiếng động.

Đó là một chuyến leo lên nhọc nhằn. Họ leo từng bước một. Ở mỗi bước, họ dừng lại và lắng nghe dấu hiệu hiện diện của địch. Chung quanh thật yên tĩnh. Có lúc Brad tự hỏi không biết đám lính BV đã rời khỏi tòa nhà rồi hay không. Tuy nhiên, khi họ đến gần mái nhà, họ nghe tiếng thì thầm và ngửi mùi khói thuốc lá. Chắc chắn, có lính BV trên mái nhà.

Cầu thang dẫn đến một khoảng trống dưới bầu trời. Khi họ leo lên gần hơn, tiếng thì thầm trở thành to hơn. Toàn bước ra khỏi cầu thang và dán mình vào tường. Có một chỗ nhỏ cho cả hai người đứng ở rìa mái nhà sau một bức tường. Một cú trượt và cả hai sẽ lao ba tầng xuống dưới mặt đất.

Họ nín thở, chờ đợi. Mấy tên lính BV đang nói chuyện và hút thuốc lá. Brad ngửi mùi thơm quen thuộc thuốc lá Pall Mall. Đám lính BV chắc là đã lấy thuốc lá Mỹ trong tòa nhà hoặc các cửa hàng trên đường phố. Họ lặng lẽ và từ từ lấy lựu đạn bằng một tay trong khi tay kia nắm chặt khẩu M-16. Toàn kín đáo nhìn qua tường vào mái nhà. Anh chìa các ngón tay ra để Brad có thể thấy số đếm, rồi mở và đóng bàn tay hai lần. Bốn tên lính và hai súng máy.

Toàn quay lại và đối diện Brad. Anh gật đầu. Đã đến lúc tấn công. Họ đếm nhẩm. Một. Hai. Ba.

Nhanh như chớp, cả hai nhảy ra khỏi tường và bắn M-16. Brad ném lựu đạn vào toán lính BV. Tiếng nổ xé toang bầu không khí im lặng. Mấy tên lính BV không có cơ hội.

Cả tòa nhà thức dậy. Đám lính BV tràn ra sân và nhìn lên mái nhà. Chúng hét lên điên cuồng trong khi bắn AK-47 lên không. Brad nhẩy tới chiếc súng máy DShK cỡ 0,51, đẩy tên lính BV ngã trên mặt súng, quỳ xuống và gắn ống đạn. Anh chỉa khẩu súng máy xuống và bắn không ngừng vào đám lính BV đang chạy tứ tung trong sân. Bị bất ngờ, chúng không biết tiếng súng từ đâu và trong phút bối rối ban đầu chúng trở thành mục tiêu dễ dàng.

Toàn phóng tới một súng máy khác, một khẩu PK làm tại Nga, gắn trên góc mái nhà. Brad nạp lại đạn và nhìn lên Toàn. Theo những tông phấn màu của ánh nắng trước bình minh, anh thấy Toàn nhìn lại anh với một biểu hiện lạ trên khuôn mặt anh ta. Trước khi anh biết chuyện gì xảy ra, Toàn giơ chiếc M-16 của mình và bắn một tràng. Một tiếng thét phát ra từ phía sau Brad. Anh quay lại và nhìn thấy khuôn mặt đẫm máu của tên lính BV mới bị bắn trước đó, nhưng không đủ để giết chết hắn, cho đến bây giờ. Một khẩu súng lục rơi ra khỏi bàn tay hắn.

Brad mỉm cười và giơ ngón tay cái lên với Toàn. Cảm ơn anh đã cứu tôi. Bây giờ chúng ta huề nhau rồi.

Những bước chân nặng nề kêu vang vang từ cầu thang chính lên mái nhà. Toàn vội vã trở lại và bắn khẩu M-16 vào đám lính BV đang chạy tới gần.

"Mình đi đi. Tụi nó biết mình ở đâu rồi," Toàn hét lên.

Brad bắn thêm một loạt đạn và vội vã trở lại cầu thang ở cạnh mái nhà. Anh quẳng lựu đạn vào khẩu súng máy và bắn M-16 vào mấy súng đã bị đập nát, hất cả hai cây súng ra kh̉ỏi mái nhà.

Brad trèo xuống cầu thang trong khi Toàn nạp lại khẩu M-16.

"Toàn, đi, đi," Brad gào lên.

"OK, anh đi trước đi," Toàn hét lại, trút hết đạn trong chiếc M-16 vào đám lính BV và ném lựu đạn xuống cầu thang chính. Anh phóng ngược lại bờ mái nhà.

Cầu thang dịch vụ lắc lư dữ dội khi hai người vội vã leo xuống. Khi họ leo qua mỗi tầng, họ nghe thấy tiếng bước chạy nặng nề và tiếng la hét cuồng loạn của đám lính BV.

Jimmy đang ngước mặt nhìn họ với nét mặt lo lắng. Khi họ nhảy xuống, họ phóng qua lỗ hổng đường hầm và lăn xuống giữa những bước chân rầm rập bên ngoài phòng dịch vụ. Họ khum người xuống và chạy thật nhanh qua đường hầm. Nón lính họ đập vào trần đường hầm, nhưng họ tiếp tục chạy. Jimmy bò ngược đầu, canh chừng quân địch trước khi chạy theo chiến hữu anh. Nỗ lực anh không cần thiết. Đám lính BV đang bận rộn chạy kiếm chỗ núp và không quan tâm về một phòng dịch vụ không xài.

Ngay sau khi họ trồi lên khỏi miệng cống, họ chạy trở lại các ngõ hẻm phía sau các cửa hàng và các ngôi nhà. Tiếng la hét và đạn bắn từ tòa nhà phai dần, nhưng họ vẫn tiếp tục chạy. Họ không còn sợ bị kẻ thù nhìn thấy, nhưng họ muốn thoát ra khỏi tầm bắn của chúng càng sớm càng tốt.

Sau khi qua nhiều khu phố, Toàn chạy chậm lại. Ngay sau khi anh ném lựu đạn, anh đã cảm thấy một cơn đau ở bàn tay, nhưng anh không chú ý. Cơn đau bây giờ trở thành không thể chịu đựng nổi. Anh nhìn xuống và thấy máu chảy ra khỏi bàn tay. Anh buông cây M-16 nặng nề xuống và lảo đảo.

Brad quay đầu và thấy Toàn ngồi xổm trên mặt đất.

"Anh có sao không?" Anh hét lên.

Toàn không trả lời. Anh vung vẩy tay với nét mặt đau đớn.

Brad quì xuống bên cạnh anh. "Anh có đau không?"

"Tôi không biết."

Jimmy hét lên từ phía sau. "Mình tới đây là an toàn rồi."

Toàn nâng bàn tay lên. Máu bớt chảy, nhưng một mảnh đạn bị mắc kẹt ở giữa bàn tay anh. Chắc mảnh đạn đó văng từ lựu đạn anh khi anh ném chúng vào kẻ thù.

Anh lật bàn tay lên. Trong kinh dị, anh thấy mảnh đạn xuyên qua mặt sau bàn tay anh ngay giữa đóa hoa lan xâm trên tay.

Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng anh.

"Lan ơi," anh kêu lên.


danlambaovn.blogspot.com



TIẾNG KHÓC VÙI CHÔN -
GHI CHÚ LỊCH SỬ VÀ SỰ KIỆN
Cao-Đắc Tuấn

VỤ thảm sát Huế:

Vụ thảm sát Huế được biết và ghi nhận nhiều (Chính 1998, 134-137; Willbanks 2007, 99-103; Vennema 1976; Robbins 2010, 196-208; Oberdorfer 2001, 198-235; Pike 1970, 26-31). Tuy nhiên, mặc cho sự quy mô và tàn bạo của nó, vụ thảm sát Huế hầu như không được báo cáo ở Hoa Kỳ vào lúc đó và bây giờ bị quên lãng (Braestrup 1994, 215; Robbins 2010, 196).

Mặc dù chứng cớ đầy rẫy cho một vụ thảm sát hơn hai ngàn nạn nhân, một vài học giả cãi là không có một cuộc tàn sát thực sự. D. Gareth Porter, cùng với đồng nghiệp ông ta, đăng một loạt các bài báo (Porter 1974; Herman và Porter 1975) cáo buộc các cơ quan Nam Việt Nam và Hoa Kỳ bịa đặt bằng chứng trong báo cáo số người chết trong vụ thảm sát ở Huế năm 1968. Herman và Porter (1975) bác bỏ báo cáo của Douglas Pike về số dân bị giết bởi Cộng sản và kết luận rằng chữ 'thảm sát' dùng cho sự giết dân Huế của Cộng sản chỉ là một mưu đồ tuyên truyền lừa đảo (sđd., 4). Herman và Porter (sđd.) đồng ý rằng cộng sản có giết một số thường dân trong lúc họ chiếm đóng Huế, nhưng bày tỏ rằng không có bằng chứng cho thấy họ hành quyết số lớn. Một nguồn chính yếu mà Herman và Porter dựa vào để thiết lập lý thuyết họ là báo cáo của bác sĩ Alje Vennema, một bác sĩ Tây phương duy nhất đã xem xét các ngôi mộ, người, theo Herman và Porter, thấy rằng số nạn nhân trong các chỗ chôn cất bị Mỹ ở Sài Gòn thổi phồng hơn bảy lần, tổng cộng chỉ có 68 thay vì tuyên bố chính thức là 477 (sđd., 2). Herman và Porter xác định thêm rằng theo Vennema, đa số xác chết mặc quân phục và những vết thương cho thấy rằng họ là nạn nhân của cuộc chiến (sđd.). Tuy nhiên, những chi tiết Vennema cung cấp mâu thuẫn với những gì Herman và Porter báo cáo. Bác sĩ Alje Vennema, một cảm tình viên phản chiến, trình bày phiên bản riêng của ông về vụ thảm sát trong sách ông, Sự Thảm Sát tại Huế bởi Việt Cộng, xuất bản năm 1976, một năm sau bài của Herman và Porter. Trong sách ông, Vennema ghi chi tiết về vụ thảm sát. Báo cáo của ông bao gồm chứng kiến của chính ông về các mộ và các cuộc phỏng vấn các nhân chứng và những người sống sót khác.

Porter dựa vào Vennema cho kết luận ông ta rằng chính phủ miền Nam Việt Nam đã thổi phồng số các vụ hành quyết thực sự. Theo Porter, Vennema "bất chợt ở bệnh viện tỉnh Huế trong cuộc Tổng tấn công Tết và là người điều tra riêng về các hầm chôn" (Porter 1974, 3). Vì vậy, báo cáo của Vennema nên tượng trưng cho các báo cáo đáng tin cậy nhất về những gì đã xảy ra tại Huế và nên là bằng chứng duy nhất đáng tin cậy nhất. Chúng ta hãy nghe những gì Vennema thực sự nói về vụ thảm sát.
Về các hầm chôn phát hiện và số lượng xác người, Vennema báo cáo những địa điểm sau đây:

1) Trường trung học Gia Hội (Vennema 1976, 129-131): Tổng số hầm chôn: 14 và thêm một số lượng hầm chôn không rõ. Tổng số xác chết: 203, gồm cả nam giới (trẻ và già) và phụ nữ. Trong số người chết là một phụ nữ 26 tuổi "với chân và tay bị trói, một miếng giẻ nhét vào miệng" và những người "không có vết thương rõ ràng"; một cảnh sát 42 tuổi người đã bị chôn sống; một phụ nữ báo rao đường 48 tuổi, "cánh tay bà bị trói và một miếng giẻ nhét vào miệng" và những người không có vết thương trên cơ thể, có thể là đã bị chôn sống.

2) Chùa Theravada, được gọi là Tăng Quang Tự (sđd., 131-132): 12 rãnh có 43 xác. Trong số người chết là một thợ may, tay trói và bị bắn xuyên qua đầu, một số người bị trói tay sau lưng bằng giây thép gai, và một số có miệng nhồi với giẻ rách. "Tất cả những người chết là nạn nhân bị trả thù và báo oán" (sđd., 132).

3) Bãi Dâu Con Mo (sđd., 131): 3 rãnh với 26 xác.

4) Đằng sau một chủng viện nhỏ, nơi mà tòa án tổ chức các phiên xử (sđd., 133): 2 rãnh với 6 xác (3 người Việt Nam làm việc cho Đại sứ quán Hoa Kỳ, hai người Mỹ làm việc cho USOM, và một giáo viên trường trung học Pháp nhầm lẫn là Mỹ ). "Tất cả đều bị trói tay."

5) Quận Tả Ngạn (sđd.): 3 rãnh với 21 thi thể, "tất cả là đàn ông, với hai tay bị trói, và các lỗ đạn trên đầu và cổ.

6) Năm dặm về phía đông Huế (sđd.): 1 rãnh với 25 xác, tất cả bị bắn vào đầu, tay bị trói sau lưng.

7) Gần các lăng của hoàng đế Tự Đức và Đồng Khánh (sđd., 133-135): 20 rãnh với thêm số lượng rãnh nhỏ không rõ. Tổng cộng có 203 xác được phát hiện. Trong số người chết là một linh mục Pháp, Cha Urbain, người đã bị trói hai tay và không có vết thương trên cơ thể, và linh mục khác Pháp, Cha Guy, có một vết thương đạn trên đầu và cổ. Không có xác phụ nữ và trẻ em nào được tìm thấy, cho biết rằng "các nạn nhân bị giết tàn nhẫn và không phải trong hoạt động quân sự.

8) Cầu An Ninh (sđd., 135): 1 rãnh với 20 xác.

9) Cửa Đông Ba (sđd., 135): 1 rãnh với 7 xác.

10) Trường tiểu học An Ninh Hạ (sđd., 135): 1 rãnh với 4 xác.

11) Trường Vân Chí (sđd., 136): 1 rãnh  với 8 xác.

12) Chợ Thông, một chợ (sđd., 136): 1 rãnh với 102 xác. "Đa số bị bắn và trói, trong đó có nhiều phụ nữ, nhưng không có trẻ em."

13) Trên mặt các ngôi mộ lăng hoàng đế Gia Long (sđd., 136): gần 200 xác đã được tìm thấy. Một số người có tay "bị trói sau lưng, và họ bị bắn xuyên qua đầu."

14) Nửa đường giữa chùa Tạ Quang và chùa Tu Gy Văn, 2,5 km về phía tây nam của Huế (sđd., 137): 4 xác người Đức (3 bác sĩ và một người vợ của bác sĩ).

15) Đông Gi, 16 km trực tiếp phía đông Huế (sđd.): 110 xác, tất cả là đàn ông và "hầu hết bị trói tay và giẻ nhét vào miệng."

16) Làng Vĩnh Thái, làng Phù Lương, và làng Phú Xuân, khoảng 15 km về phía nam và phía đông nam thành phố (sđd., 137-138): 3 hầm chôn với hơn 800 xác (gồm có 135 ở Vĩnh Thái, 22 Phù Lương, 230 và sau 357 tại Phú Xuân): Hầu hết là nam giới với một số ít phụ nữ và trẻ em. Trong số người chết là Cha Bửu Đồng và hai chủng sinh.

17) Làng Thượng Hòa, phía Nam lăng vua Gia Long (sđd., 139): 1 hầm chôn với 11 xác. "Các xác chết cho thấy cùng một loại vết thương ở đầu và cổ, có lẽ gây ra do hành quyết."

18) Làng Thủy Thành và Vĩnh Hưng (sđd.): hơn 70 xác, "đa số là nam giới với một số phụ nữ và trẻ em."  "Có vài người chết có lẽ là trong thời gian chiến tranh vì họ có nhiều loại vết thương và thân thể bị cắt; những người khác trưng bày vết thương duy nhất ở đầu và cổ, nạn nhân của hành quyết."

19) Khe Đá Mài (sđd.): 500 sọ. "Trong số rất nhiều những bộ xương có các mảnh quần áo bình thường, không phải vải kaki màu xanh của đồng phục Bắc Việt hoặc Việt Cộng. Tất cả các sọ đều trưng bày một vết nứt bị nén của xương trán giống nhau như là kết quả của một cú đánh với khí cụ nặng."

Danh sách trên của các hầm chôn cho thấy tổng cộng 19 hầm chôn và khoảng 2307 xác chết. Hầu hết trưng bày những vết thương gây ra bằng cách hành quyết và không phải bởi kết quả của chiến tranh. Nhiều người bị trói tay và giẻ nhét vào miệng. Vào cuối tháng 9 năm 1969, hàng trăm người vẫn còn mất tích (sđd., 140). Ngoài ra, Vennema lưu ý rằng "Ngoài các hầm chôn tập thể, có những sự giết người tàn nhẫn riêng rẽ" (sđd., 141).

Porter cố gắng đổ lỗi cho cuộc đánh nhau dữ dội tại một trong những bãi chôn nơi 22 xác được tìm thấy. Theo ông ta, "máy bay Mỹ ném bom xuống làng nhiều lần, phá hủy hàng trăm ngôi nhà và giết thường dân" và "khoảng 250 binh lính cộng sản đã bị giết" trong trận đánh cả ngày (Porter 1974, 4). Ông ta viết thêm rằng "250 bộ xương được tìm thấy tại Khe Đá Mai (không phải 400 như lời của Pike) cũng bị giết trong trận chiến hoặc bởi B-52 Mỹ thả bom" (sđd., 5-6). Tuy nhiên, Vennema (1976, 140) xác định với độ chính xác của một bác sĩ rằng con lạch chứa 500 sọ người và "kiểm tra hồ sơ của quân đội Mỹ không tiết lộ bất kỳ hành động quy mô rộng hoặc B-52 thả bom trong khu vực ngoại trừ một trận đánh gần Lộc Sơn, khoảng 10 km cách khu vực này, vào cuối tháng Tư năm 1968." Vennema (sđd.) nói rằng "cho rằng bất kỳ người chết nào do bởi cuộc tấn công B-52 được vác qua địa hình gồ ghề để được chôn ở suối dường như không hợp lý." Ông (sđd.) tiếp tục khẳng định rằng "tất cả các sọ đều trưng bày một vết nứt bị nén của xương trán giống nhau như là kết quả của một cú đánh với khí cụ nặng" và "các xương khác không bị vỡ nứt thể hiện bằng chứng của gãy xương mà chắc chắn sẽ không phải là trường hợp nếu họ đã chết do bởi kết quả của chiến tranh."

Kết luận của Porter rằng "một số lớn xác phát hiện vào năm 1969 thực ra là nạn nhân của lực lượng không quân Mỹ và đánh nhau trên bộ hoành hành ở các thôn chứ không phải là do Việt cộng" (Porter 1974, 6) mâu thuẫn với lời khai của một bác sĩ nhân chứng mà chính Porter dựa nhiều vào.

Nhiều nguồn khác cung cấp các ước tính phù hợp với báo cáo của Vennema. Bùi Tín (Bui 2002, 66), một cựu đại tá của quân đội Bắc Việt, xác nhận rằng vụ thảm sát Huế có xảy ra. Theo ông, Đại tá Lê Minh, trưởng khu an ninh cộng sản trong cuộc thảm sát Huế năm 1968, ước tính số người chết là 2.000, nhưng ông nói thêm rằng con số đó có thể thấp. Các ước tính khác báo cáo 2.500 đến 3.500, đa số là thường dân hoặc gia đình các viên chức chính quyền Sài Gòn (Prados 2009, 240; Hammel 2007, 159); 2.800 bao gồm cả viên chức chính phủ, chiến sĩ, giáo viên, linh mục, trí thức và các người phản động khác, và thường dân không may mắn, với một số nạn nhân bị bắn, đập chết, và thiêu sống (Braestrup 1994, 215; Isaacs 1984, 360; Oberdorfer 2001, 232; Pike 1970, 30-31). Woodruff (2005, 244) cho biết tổng số 2.810 xác dần dần được tìm thấy trong những mổ tập thể nông vào giữa những năm 1970. Ngoài ra, 1.946 người vẫn còn mất tích Những con số này có vẻ được lấy từ bài chuyên khảo của Pike (Pike 1970, 30-31). Một tài liệu, tuyên bố là lấy được từ Cộng sản, báo cáo số nạn nhân bao gồm 1.892 nhân viên hành chính, 38 cảnh sát, 790 tên bạo ác, 6 đại úy, 2 trung úy, 20 thiếu úy và nhiều hạ sĩ quan (Woodruff 2005, 244; Willbanks 2007, 101).

Trong khi chắc chắn rằng Hồ chấp thuận, mặc dù có thể chỉ trên hình thức, quyết định khởi động cuộc tổng nổi dậy (Duiker 2000, 557), không rõ là ông ta có đặc biệt thông qua kế hoạch dùng bạo lực cách mạng trên dân Huế. Theo Bùi Tín (Bui 2002, 68), cuộc thảm sát xảy ra vì quân đội Bắc Việt trở thành cuồng loạn, và bị mất hướng - và mất cả nhân tính. Bùi Tín (sđd., 67) khẳng định rằng không có lệnh từ cấp trên đòi hỏi tiêu diệt cả tù binh hay thường dân. Theo Trương Như Tảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Cộng, Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng sản (Provisional Revolutionary Government - PRG), nói rằng hoàn toàn không có chính sách hay chỉ thị của Mặt trận để thực hiện bất cứ vụ thảm sát nào, nhưng Tảng thể hiện rằng ông không thấy điều giải thích này đặc biệt thỏa đáng (Truong 1986, 154). Tuy nhiên cả Bùi Tín lẫn Trương Như Tảng có vẻ không biết đến tòa án nhân dân và những bản án tử hình giao xuống các nạn nhân. Tính chất của việc chuẩn bị cho các vụ thảm sát, gồm chuyện tập hợp dân chúng từ các danh sách đen và sự tổ chức tòa án nhân dân, rõ ràng cho thấy vụ thảm sát là một hoạt động có dự tính với những mục đích chính xác và rõ rệt, ra lệnh từ, và được hỗ trợ bởi, chỉ huy cao cấp của Bộ Chính trị Hà Nội (Robbins 2010, 196; Oberdorfer 2001, 232; Vennema 1976, 183), hoặc ít nhất là Hồ có thể đoán trước và mong muốn (Hubbell 1968, 67). Vennema (1976, 184) lưu ý rằng kích động khủng bố là quan trọng với Đảng cộng sản và các thành viên cộng sản không thể kềm hãm được. Robbins (2010, 208) ghi rằng vụ thảm sát Huế không phải là một hành động tự phát của sự quá đáng mà là một thực hiện tàn nhẫn của chính sách cộng sản Bắc Việt.

Báo cáo về các cuộc tàn sát và sự hiện hữu của tòa án nhân dân được nhiều nhân chứng tường thuật (Robbins 2010, 198; Vennema 1976, 94) Trong một báo cáo, Phan Văn Tuấn, lúc đó 16 tuổi, bị bắt bởi VC và bị ra lệnh đào mồ chôn sống một số nạn nhân. Ông mô tả kinh nghiệm của mình trong một cuộc phỏng vấn (Vimeo 2008). Trong một báo cáo khác, bà Nguyễn Thị Thái Hòa kể lại chuyện bà chứng kiến Hoàng Phủ Ngọc Phan, em trai của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giết tàn nhẫn anh bà (DLB 2013). Bà cũng mô tả vụ Nguyễn thị Đoan Trinh sát hại các nạn nhân vô tội. Theo nhiều nguồn tin, một tòa án ngoài trời được chủ trì bởi Hoàng Phủ Ngọc Tường tại trường Gia Hội ở Quận II, là một quan tòa để ra án tử hình cho 203 người (Vennema 1976, 94). Một người, Nguyễn Đắc Xuân, cũng tham gia vào việc giết các nạn nhân vô tội. Tường, Phan, Đoan Trinh, và Xuân là phần một lực lượng chính trị được tổ chức trong lúc Cộng sản chiếm đóng tạm thời một phần của Huế. Lực lượng chính trị này được gọi là Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình (Chính 1998, 131-132). Một số nạn nhân bị bắn tàn nhẫn, đôi khi với tội phạm tầm thường (Vennema 1976, 94). Tòa án tại Gia Hội được biết bởi các cư dân địa phương, những người ẩn núp sau khi ra tòa lần đầu và sau đó sống sót, hoặc trốn thoát (sđd.). Sau phiên toà này, toàn bộ trường học cuối cùng mang lại 203 thi thể của các thanh niên trẻ, những người đàn ông lớn tuổi, và phụ nữ (sđd.). Cũng nên lưu ý rằng Gia Hội không phải là nơi duy nhất mà một tòa án được tổ chức. Các cuộc xử tòa ngoài trời khác được thực hiện dưới danh nghĩa nhân dân và cách mạng, nơi mà lời tuyên án và bản án được những người không có quyền hạn pháp luật đưa ra (sđd., 185). Thông thường, một cán bộ chủ trì làm quan tòa, và cũng là luật sư, công tố viên, bồi thẩm đoàn, và người hành quyết (sđd.).

Trận chiến tại thành Huế:

Trận chiến tại Huế được các tác giả Mỹ mô tả rộng lớn. Các quy luật tham chiến mà không cho phép dùng không lực gây ra rất nhiều phẫn nộ cho Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (Nolan 1996, 140; Warr 1988, 100-102, 123, 125). Hỗ trợ máy bay không được cung cấp cho đến sau này trong trận (Warr 1988, 153).


DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM CHIẾU


DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO

Braestrup, Peter. 1994. Big Story – How the American Press and Television Reported and Interpreted the Crisis of Tet 1968 in Vietnam and Washington. Abridged Edition. Presidio Press, California, U.S.A.

Bui Tin. 2002. From Enemy to Friend, A North Vietnamese Perspective on the War, Naval Institute Press, Maryland, U.S.A.

Chính Đạo. 1998. Mậu Thân 68: Thắng Hay Bại (Tet Offensive 68: Victory or Defeat). Tái bản có bổ sung (Reprinted with supplements). Văn Hóa, Houston, Texas, U.S.A.

Duiker, William J. 2000. Ho Chi Minh: A Life. Hyperion, New York, U.S.A.

Hammel, Eric. 2007. Marines in Hue City: A Portrait of Urban Combat, Tet 1968, Zenith Press, Minnesota, U.S.A.

Herman, Edward and D. Gareth Porter. 1975. The Myth of the Hue Massacre, Ramparts, Vol. 13, No. 8, May-June.

Hubbell, John G. 1968. The Blood-Red Hands of Ho Chi Minh. Reader’s Digest, November 1968, 61-67.

Isaacs, Arnold R. 1984. Without Honor: Defeat in Vietnam & Cambodia, Vintage Books, New York, U.S.A.

Nolan, Keith William. 1996. Battle for Hue: Tet 1968. Presidio Press, California, U.S.A.

Oberdorfer, Don. 2001. Tet! The Turning Point in the Vietnam War, The Johns Hopkins University Press, Maryland, U.S.A.

Pike, Douglas. 1986. PAVN – People’s Army of Vietnam. Da Capo Press, New York, U.S.A.

Prados, John. 2009. Vietnam: The History of an Unwinnable War, 1945-1975, University Press of Kansas, Kansas, U.S.A.

Robbins, James S. 2010. This Time We Win: Revisiting the Tet Offensive, Encounter Books, New York, U.S.A.

Truong Nhu Tang (with David Chanoff and Doan Van Toai). 1986. A Viet Cong Memoir: An Inside Account of the Vietnam War and Its Aftermath, Random House, Inc., New York, U.S.A.

Vennema, Alje. 1976. The Viet Cong Massacre at Hue, Vantage Press, New York, U.S.A., 1976.

Warr, Nicholas. 1988. Phase Line Green: The Battle for Hue, 1968, US Naval Institute Press, U.S.A.

Willbanks, James H. 2007. The Tet Offensive: A Concise History, Columbia University Press, New York, U.S.A.

Woodruff, Mark W. 2005. Unheralded Victory: The Defeat of the Viet Cong and the North Vietnamese Army, 1961-1973, Presidio Press, New York, U.S.A. 2005.


NGUỒN INTERNET

Cần lưu ý rằng nguồn Internet có thể không vĩnh viễn. Một blog có thể gỡ bỏ
bởi tác giả, một bài báo có thể bị xóa, hoặc một Website có thể bị đóng cửa.

DLB (Dân Làm Báo). 2013. Mậu Thân Huế - Câu Chuyện Của Nguyễn Thị Thái Hòa (The Year of the Monkey at Huế – Story of Nguyễn Thị Thái Hòa) http://danlambaovn.blogspot.com/2012/01/mau-than-hue-cau-chuyen-cua-nguyen-thi.html (accessed September 29, 2013).

Porter, Gareth D. 1974. The 1968 ‘Hue Massacre.’ Indochina Chronicle, No. 33, June 24, 1974, pp 2-13. http://msuweb.montclair.edu/~furrg/Vietnam/porterhueic74.pdf (accessed September 29, 2013).

Vimeo. 2008. Nam Dao pv Phan Van Tuan: Mau Than - Anh Con Nho Hay Anh Da Quen (Nam Dao interviewing Phan Van Tuan: The Year of the Monkey - Do you still remember or do you forget). http://vimeo.com/9093448 (accessed September 30, 2013).


TÊN NHÂN VẬT VÀ CÁC TÊN KHÁC
  
Hai: (hư cấu) Một người bị bắt bởi VC và quân BV trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.

Lê Minh: Trưởng An ninh của cộng sản trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.

Lê Thị Trang Tiết: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia trong vụ thảm sát Huế 1968. Dựa vào nhân vật có thật Nguyễn Thị Đoan Trinh, người cáo buộc là sát thủ của nhiều thường dân Huế vô tội.

Liên minh Nhân dân Dân chủ và Hòa Bình: Một liên minh được thành lập bởi những người Cộng sản trong cuộc tổng tấn công Tết tại Huế trong năm 1968.

Lộc: (hư cấu) bị giam cầm bởi VC và quân Bắc Việt trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.

Mai Dinh Châu Cát: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia vụ thảm sát Huế năm 1968. Dựa vào nhân vật có thật Hoàng Phủ Ngọc Tường, kẻ bị cho là chủ tịch Tòa án nhân dân tại trường trung học Gia Hội đã kết án 204 thường dân vô tội với án tử hình và ra lệnh chôn sống nạn nhân trong sân trường.

Miller, Brad: (hư cấu) Hạ sĩ (1968), Đại đội Hotel, Tiểu đoàn 1, Thủy quân lục chiến (trung đoàn) 5, bạn của Trần Ngọc Toàn (hư cấu).

Nguyễn Đức Thắng: (hư cấu) Một nạn nhân bị kết án tử hình trong Toà án Nhân dân trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.

Phạm Đình Phú: (hư cấu): Một học sinh trường trung học Trần Hưng Đạo (hư cấu), bị kết án lao động trong Toà án nhân dân trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.

Trần Ngọc Toàn: (hư cấu): Thiếu úy (1968), Đại úy (1975), Sư Đoàn 1 QLVNCH. Một trong những thuyền nhân năm 1980, chồng của Liên, cha của Trần Ngọc Kiệt (hư cấu), Ông nội của Madeline (Mê Linh) Trần và Melanie Trần.

Trần Thất Thu: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia vụ thảm sát Huế 1968. Dựa vào các nhân vật có thật Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan, bị coi là sát thủ nhiều thường dân Huế vô tội.

Trần Văn Duyệt: (hư cấu) Một học sinh 16 tuổi, bị kết án lao động tại Toà án nhân dân trong vụ thảm sát Huế năm 1968.

Việt Cộng: VC. Một tổ chức quân đội cộng sản miền Nam Việt Nam. Chiến đấu chống Hoa Kỳ và chính phủ miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam (1959-1975).

Vũ Tấn Phong: (hư cấu) Một sinh viên chống cộng tại Đại học Huế, bị giết bởi Trần Thất Thu (hư cấu) năm 1968.

Vũ Thị Lan: (hư cấu) Một sinh viên tại Đại học Huế, bạn gái của Trần Ngọc Toàn (hư cấu), em gái Vũ Tấn Phong (hư cấu). Cô là một trong những nạn nhân bị chôn sống trong vụ thảm sát Huế năm 1968.

©
2014 Cao-Đắc Tuấn



0 comments:

Powered By Blogger