Sau
đây là truyện ngắn "TIẾNG KHÓC VÙI CHÔN" ("BURIED CRIES")
(Cao-Đắc 2014,168-198) trong tuyển tập truyện ngắn "LỬA CHÁY
TRONG MƯA," (Cao-Đắc Tuấn. 2014. Lửa Cháy Trong Mưa. Hellgate Press,
Oregon, U.S.A.) Mỗi truyện trong "LỬA CHÁY TRONG MƯA" đều có
phần ghi chú thích đáng về lịch sử và sự kiện. Phiên bản
tiếng Việt được tác giả dịch từ nguyên tác tiếng Anh, "FIRE IN
THE RAIN." "TIẾNG KHÓC VÙI CHÔN" là truyện dựa vào những gì
xảy ra tại Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968, qua lời tường thuật
của nhân chứng Phan Văn Tuấn và Nguyễn Thị Thái Hòa.
***
Tiếng khóc vùi chôn
Năm 1968
"Những người không thể nhớ lại quá khứ sẽ lập lại nó."
George Santayana (năm 1863 - 1952)
Một nơi nào đó tại Việt Nam, khoảng 1967-1968
Vóc dáng mỏng manh của ông và khuôn
mặt gầy gò làm ông trông già hơn tuổi thật. Mái tóc muối tiêu rút
lại ra sau, lộ ra cái trán cao. Bộ râu ông teo thành vài sợi trắng
thưa thớt treo dưới cằm. Với cặp má hõm và đôi mắt trũng mất hồn,
ông đã mất đi nét oai phong, dù giả tạo, của một tộc trưởng già
nua.
Ông nằm liệt giường trong vài tuần
do sức khỏe suy giảm. Sau khi bị ốm lúc có lúc không nhiều năm,
một số tháng trong những năm đó trong một nước láng giềng, có lẽ ông
đã đến lúc. Ông đã cho di chúc ông sửa đổi trông chờ cái chết,
và đây là lần thứ ba ông làm như vậy.
Ông được đánh thức bởi phụ tá ông,
một người đàn ông trung niên đã ở bên ông gần hai mươi năm. Người phụ
tá nói với ông người khách đang mong của ông đang chờ bên ngoài. Ông
gật đầu và bảo anh ta mời khách vào.
Ông ngồi dậy, dựa người vào tường và
mỉm cười với khách khi ông ta bước vào phòng. Khách ông ngồi trên mép
giường và cầm tay ông. Họ trao đổi lời thăm hỏi thường lệ. Khách ông
là một người cộng sự thân cận đã làm việc với ông hơn 20 năm.
"Tất cả mọi việc đã sẵn sàng," khách ông nói. "Chúng tôi chỉ cần sự chấp thuận của Bác."
Ông gật đầu. "Vâng, hãy tiến hành càng sớm càng tốt."
"Kể cả hoạt động mã đỏ? "
"Tất nhiên. Tại sao chuyện đó cần phải được chấp thuận?"
"Bác biết hệ thống chúng ta làm
việc như thế nào. Họ không thể thực hiện một hoạt động mà không có
một lệnh rõ ràng từ trên."
"Được rồi. Cho họ lệnh trực tiếp
của tôi thi hành hoạt động mã đỏ. Nói với họ tối đa hóa khủng bố để
làm gương cho những kẻ khác."
Khách ông rời sau đó, để lại ông một mình.
Ông nhìn ra cửa sổ vào cái ao lớn
bên ngoài ngôi nhà sàn ông với cặp mắt mệt mỏi. Ông biết chuyến thăm
của khách ông chỉ là một hình thức. Họ không thực sự cần ông chấp
thuận. Ông chỉ là bù nhìn. Họ đã chấp thuận chính họ, nhưng họ vẫn
muốn dùng ông để hợp pháp hóa quyết định họ. Thiên hạ vẫn kính trọng
ông, và sự chấp thuận của ông, mặc dù chỉ là hình thức, thúc đẩy
tinh thần họ. Người của ông đã học kinh nghiệm từ ông rất giỏi.
Hoạt động đó là một chỉ thị bí
mật trong một phần chiến dịch mà người của ông đã nghĩ ra nhiều năm
trước. Bây giờ đang là thời điểm quan trọng của chiến dịch và càng
lúc càng quan trọng cho hoạt động được thực hiện để hỗ trợ chiến dịch.
Đó là một chiến dịch quan trọng, có
thể quyết định số phận đất nước ông. Đây là thời điểm ông đã chờ đợi,
và ông e là ông có thể không sống để chứng kiến sự thành công của nó.
Nhưng bây giờ thời điểm này trong tầm tay. Ông thấy sung sướng. Ông có
thể chết với nụ cười trên mặt.
Một làn gió nhẹ phớt qua cửa sổ,
mang theo mùi ngọt ngào của những bông hoa trong khu vườn ông. Ông cảm
thấy nhẹ nhàng. Ý nghĩ ông lang thang. Ông sống lại những năm của ông,
việc ông vẫn hay làm trong vài tháng qua. Ông nhớ lại những sự kiện,
ghi nhớ những cuộc hội thoại, những bài diễn văn, thư từ. Ông muốn
chắc chắn rằng ông không bỏ lỡ bất cứ điều gì trước khi chết. Ông muốn
cái chết ông là một di sản cho nhiều thế hệ sau này.
Ông nghĩ về chuyện ông đạt tới
mức ông hiện tại. Một câu nói của Abraham Lincoln đi qua óc ông:
"Bạn có thể đánh lừa tất cả mọi người một thời gian, và một số người tất
cả mọi thời gian, nhưng bạn không thể đánh lừa tất cả mọi người tất cả
mọi thời gian." Ông cười khúc khích như một cô gái trẻ. Mỗi lần ông
nhớ đến câu nói đó, ông chỉ cười. Sao lại không? Ông là bằng chứng
hùng hồn cho thấy Lincoln sai bét. Ông là người có thể đánh lừa tất
cả mọi người tất cả mọi thời gian, rất có thể ngay cả sau khi ông chết.
Tất cả mọi người. Không phải chỉ có dân chúng trong nước ông. Thế
giới đầy rẫy những kẻ ngu ngốc, trừ, tất nhiên, ông ra. Dân nước ông
đã bị lừa trong một thời gian dài. Những kẻ bên ngoài, người nước
ngoài, lại còn bị lừa nhiều hơn. Họ không biết gì về ông. Làm sao họ
có thể biết được? Họ không hiểu ngôn ngữ và văn hóa, họ không hít thở
không khí ở đây, họ không sống trên vùng đất này, cha mẹ họ không bị
giết chết ở đây, tài sản họ không bị tịch thu, ông bà chủ đất họ
không bị người làm hoặc thậm chí con cái họ tố cáo là phạm tội ác
chống lại nhân dân. Kẻ thù và nạn nhân ông biết thủ thuật ông, nhưng
không ai có thể tin chúng. Sau thất bại sắp tới của chúng, chúng có
thể ồn ào la hét, nhưng ai sẽ tin vào những kẻ bại trận? Ngay sau
đó, tiếng nói của chúng sẽ bị bỏ qua hoặc gạt đi. Ngay sau đó, tất cả
mọi người sẽ bị lừa mãi mãi. Abraham Lincoln quả là một tên khờ.
Ông có quá nhiều bí mật. Không chỉ
về tên ông, những nơi ông ở trong quá khứ, ngày sinh ông, sự thèm
muốn vô độ của ông với phụ nữ trẻ và xinh đẹp, và các con hoang ông.
Đó chỉ là những chuyện lặt vặt. Ông còn rất nhiều hơn. Vụ đạo văn
tác phẩm chính trị của Nguyễn Ái Quốc và Nhật ký trong tù của vô
danh, vụ bán đứng cụ Phan Bội Châu, vụ nổi dậy Xô Viết Nghệ Tĩnh
bịp bợm, những lời láo khoét và lừa đảo của Việt Minh, vụ Cách
mạng tháng tám ngụy tạo và bản Tuyên bố độc lập giả vờ, vụ
Tuần lễ vàng bóc lột, vụ bầu cử gian lận, cuộc thảm sát đám quốc
gia, thỏa thuận với Pháp, chiến dịch Cải cách ruộng đất đẫm máu, sự
khúm núm bợ đít Trung cộng và Liên Xô, các vi phạm Hiệp định Geneva,
vụ tàn bạo đàn áp Nhân Văn Giai Phẩm, vụ lừa dối về nhượng Hoàng Sa
và Trường Sa cho Trung cộng, sự hình thành dối trá của Mặt trận Giải
phóng miền Nam Việt Nam, và xâm nhập bí mật của quân đội vào Nam Việt
Nam. Đám bè lũ ông đã đồng ý bảo vệ tất cả các bí mật ông trong một
thỏa thuận có lợi cho cả đôi bên. Ông sẽ được tạo thành một vị anh
hùng, có tầm cỡ thần thánh vượt quá tất cả tổ tiên nước ông, và bè
lũ ông được tự do khai thác hình ảnh ông trong bất kỳ cách nào họ thấy
phù hợp. Đó là một chuyện cùng thắng lợi cho ông và đám bè lũ
ông. Còn đám thua thì sao? Những người dân trong nước ông. Quá tệ!
Họ đã chịu đựng hàng ngàn năm. Để cho họ chịu đau khổ thêm một ngàn
năm nữa.
Ông mỉm cười. Ý nghĩ ông mang lại
cho ông thoải mái và thư giãn. Ông đã dàn xếp hết mọi chuyện, do đó
chẳng còn gì để ông lo lắng nữa. Ông duỗi chân ra, nghe tiếng chim
hót bên ngoài và tưởng tượng âm thanh nhẹ nhàng của nước rỉ rả qua
các tảng đá trong vườn.
Ông chạm vào chiếc gối ở đầu
giường và cảm nhận sự mềm mại của nó, cảm thấy tỉnh táo bởi mùi hoa
thủy tiên vàng trong phòng ông. Tiếng chiêm chiếp ồn ào của đàn chim
bên ngoài thu hút sự chú ý ông. Ông nghiêng đầu, lắng nghe những âm
thanh giai điệu quen thuộc, biết rằng những âm thanh đó sẽ không thay
đổi cho đến khi những tia nắng mặt trời cuối cùng rời khỏi cửa sổ. Ông
hít một hơi thật dài và thưởng thức không khí trong lành và hương
thơm.
Ông cảm thấy tràn đầy năng lực và
trong một khoảnh khắc vui sướng, ông cười không cưỡng được. Ông ho
nhưng vẫn cười ra nước mắt.
Ông phải mang tất cả những bí mật ông xuống tuyền đài.
Huế, Tháng Hai năm 1968
Bí mật của Trần Thất Thu sắp bị
tiết lộ, nhưng hắn không cố che giấu nó. Ngược lại, hắn sung sướng
tột đỉnh nói với mọi người hắn thật sự là ai. Mọi chuyện xảy ra
suông sẻ theo đúng kế hoạch. Bộ đội lính chính quy Bắc Việt và
quân Mặt trận giải phóng miền Nam mà hắn là một thành viên tự
hào, đã chiếm cứ nhiều phần của Huế trong vài ngày đầu cuộc tổng nổi
dậy. Hắn đã nhận lệnh từ Lê Minh, Trưởng An ninh Cộng sản, bắt đầu
giai đoạn kế tiếp của hoạt động. Trạng thái mọi người đều phấn
khích. Ai cũng trông mong giây phút này và bây giờ nó đã đến với tất
cả vinh quang đầy đủ.
Trước đó vào buổi sáng, hắn triệu
tập nhóm hắn, gồm các đặc công nằm vùng lâu năm và các chiến sĩ
mới được tuyển dụng, để giao nhiệm vụ tập hợp tất cả cư dân Huế có
tên trên danh sách đen. Hắn phân phát vũ khí, phần nhiều là AK-47,
cho các thành viên trong nhóm và đưa họ bản sao danh sách với tên và địa
chỉ.
"Tới mỗi nhà và gọi tụi nó ra," hắn nói với nhóm hắn.
"Nếu tụi nó chống lại hoặc không chịu ra thì sao?" một thành viên hỏi.
"Dùng bất kỳ phương tiện cần thiết
nào để thực hiện mệnh lệnh. Chúng ta được phép dùng bạo lực cách mạng
để tối đa hóa khủng bố. Chúng ta phải làm thí dụ cho bọn phản động
khác."
"Chúng ta có nên tha phụ nữ và trẻ em không?"
Lệnh không có quy định về phụ nữ và trẻ em. Nhưng nếu lệnh không đề cập đến họ, có nghĩa là việc đó không quan trọng.
"Không," hắn nói không do dự. "Làm
bất cứ chuyện gì cần thiết để hoàn thành công việc. Đừng để cảm
xúc ảnh hưởng đến sứ mạng đồng chí. Đồng chí biết phương châm
chúng ta: Lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Chúng ta có mục
tiêu cao hơn để đạt tới."
Một số bộ đội muốn gia nhập nhóm
hắn trong việc săn bắt. Họ chưa từng bao giờ tới một thành phố thuộc
chính phủ ngụy và họ muốn tìm hiểu nó như thế nào và xem mọi người đáp
ứng với sứ mạng giải phóng ra sao.
"Bằng mọi cách, xin vui lòng tham
gia chúng tôi," hắn nói, mỉm cười với anh chàng trưởng toán bộ đội
non choẹt. "Nhưng nhớ rằng bọn mà chúng ta sắp bắt là đám phản
động. Tụi nó không biết gì về sự hy sinh và lòng tốt chúng ta."
Họ thành lập thành từng nhóm khoảng
mười người. Một số lái xe gắn máy. Một số đi bộ. Mấy anh chàng bộ
đội thích đi bộ vì họ không biết đi xe gắn máy và họ đã quen chạy bộ.
Với nón lính bấc màu xanh lá cây trên đầu, kaki rộng, túi tư liệu
và thực phẩm quanh ngang lưng, và mặt non choẹt, các bộ đội thiếu
niên trông giống như đám học sinh đồng phục đi lạc. Nhưng chuyện đó
không quan trọng; súng AK-47 của chúng không phải là đồ chơi.
Hắn đã bắt hơn năm mươi tên phản
động trong danh sách đen, đa số là các viên chức hạng thấp đến
trung bình của chính phủ địa phương ngụy. Ngoài chuyện van xin và
khóc lóc thông thường, dân Huế phản ứng khá bình tĩnh. Lúc đầu,
hắn nói chuyện tử tế với họ vì một số người biết hắn như bạn họ.
Hắn cam kết với các gia đình là những người thân yêu họ chỉ đi cải
tạo trong một ngày và họ sẽ quay trở lại. Nhưng khi thấy nét sợ hãi họ
khi nhìn thấy khẩu AK-47 đe dọa của hắn, hắn vui mừng với sức mạnh
mới có. Hắn bắt đầu la hét và đánh họ bằng báng súng AK 47. Cảm giác
không thể diễn tả được, và hắn mê cảm giác đó.
Mục tiêu cuối cùng của hắn trong
ngày là Vũ Tấn Phong, một sinh viên chống cộng tại Đại học Huế, nơi Thu
cũng là một sinh viên ghi danh. Hắn ghét tính gan dạ của Phong.
Hắn kết bạn với Phong và giả vờ cũng chống cộng. Hắn đạt được sự tin
tưởng của Phong với câu chuyện bịa đặt về việc người thân hắn bị giết
bởi Việt Cộng (VC). Họ đã đi chơi nhiều lần trò truyện qua cà phê và ăn
trưa. Phong tin hắn là bạn thân, và chia sẻ với hắn những mẩu chuyện
về gia đình mình. Phong làm như thể y là một nhà trí thức, hiểu biết
tất cả các lý thuyết chủ nghĩa Mác và học thuyết Cộng sản. Cha y là sĩ
quan Nam Việt Nam đóng quân ở vùng cao nguyên. Thu đưa tên Phong vào
danh sách đen với lý do rằng y là sinh viên gián điệp bí mật cho chính
phủ ngụy. Tại sao một tên mật vụ lại công khai tố cáo cộng sản? Cấp trên hắn hỏi. Đó là thủ thuật của họ,
Thu trả lời. Chuyện không quan trọng cho dù Phong là một mật vụ hay
không. Y là tên phản động và con trai của một sĩ quan ngụy và đó đủ để
đưa y ra xét xử. Tội phạm y còn trở nên phức tạp hơn nữa vì bạn y là
một sĩ quan bộ binh ngụy. Hắn đã gặp tên sĩ quan này một lần khi họ
đến một quán cà phê và nghe về chuyện tên sĩ quan tán tỉnh em gái
Phong, Lan, một sinh viên đại học xinh đẹp hai mươi tuổi.
Nhà Phong ở trong một khu phố yên
tĩnh. Khi nhóm hắn đến, đường phố trống không - chẳng có ma nào. Mọi
người có thể ẩn núp trong nhà.
Hắn gõ cửa. "Mở cửa."
Không ai trả lời. Hắn ra lệnh bọn
hắn dộng cửa bằng AK 47 và la lớn. Cuối cùng, ông nội Phong mở cửa
và nhóm hắn lao vào trong nhà.
"Thằng Phong đâu rồi?" hắn hỏi ông già đang run rẩy.
Ông già hoảng kinh khi thấy Thu
với bộ mặt khát máu. Thái độ lễ độ, tư cách kính trọng, vẻ
dễ chịu biến mất. "Thu, cháu đó hả?" Ông già vẫn không tin mắt
mình.
Thu hét lên. "Ông già, ông điếc rồi hả? Tôi hỏi ông một câu hỏi. Thằng Phong đâu rồi?"
Ông già lắp bắp. "Nó không có nhà. Nó đi đâu rồi đó, chắc tới trường."
"Lục lọi mọi phòng, rồi mang hết tụi nó ra," Thu ra lệnh đám VC.
Chẳng mấy chốc, toàn bộ gia đình
được tập hợp trong một góc phòng. Ông già và vợ ông, mẹ Phong và ba đứa
con, Lan và hai cậu bé. Thu để họ ngồi trên ghế sofa gia đình. Hắn
cầm khẩu AK-47 và đi qua đi lại trước mặt họ.
"Tôi không muốn phí thì giờ nữa," hắn nói. "Nói cho tôi biết thằng Phong ở đâu và chúng tôi sẽ đi ngay."
Hắn dừng lại và vung vẩy ngón tay
vào họ. "Và đừng có nói dối với tôi. Nếu mấy người nói dối, tôi sẽ
trở lại và giết hết tất cả mấy người."
Mẹ Phong, một phụ nữ trung niên với
một khuôn mặt dễ chịu, cầu xin hắn. "Thu, cô không biết nó ở đâu.
Nó đi từ lúc sáng không nói đi đâu."
Có thể bà ta nói thật. Phong có
thói quen đi ra ngoài mà không nói với gia đình, và y luôn luôn đi đến
trường đại học. Mẹ Phong lúc nào cũng tử tế với hắn. Hắn đang
mặc áo len bà đan cho hắn là quà sinh nhật. Thu vừa định dịu giọng
thì Giao, một trong đám VC và cũng là một sinh viên đại học Huế,
bước vào từ sân sau.
"Xe Honda nó vẫn còn ở phía sau," Giao nói.
Thu điên tiết lên. Bọn này thật là cứng đầu. Đây là lúc dùng bạo lực cách mạng.
"Nó không bao giờ đi đâu mà không
lái chiếc Honda nó," hắn hét lên, vẫy khẩu AK-47. "Tôi đã nói với
mấy người là đừng có nói dối với tôi. Đây là cơ hội cuối cùng
của mấy người. Thằng Phong ở đâu?"
Ông già chắp tay năn nỉ, "Ông Thu,
chúng tôi đang nói với ông sự thật. Chúng tôi không biết thằng Phong
đi đâu. Bạn nó tới đón nó sáng nay."
Khi ông già nói, một trong cậu bé,
cháu ông già, liếc nhìn lên trần nhà. Thu theo tia nhìn nó và thấy
một tấm bảng hình vuông trông giống như một miếng che cho lỗ hổng
thông lên gác xép. Một chiếc ghế đẩu đứng trên sàn nhà ngay dưới
tấm bảng.
Thu mỉm cười. Hắn bước tới Lan, nắm lấy tay nàng và kéo nàng lên. Nàng run rẩy và nước mắt đọng quanh vành mắt.
Thu chỉa súng vào đầu Lan. "Phong,"
hắn quát lên. "Tao biết mày ở trên đó. Leo xuống hoặc tao bắn con
Lan." Hắn biết Phong rất thương cô em gái.
Mấy người đàn bà khóc lóc. "Làm ơn. Làm ơn. Xin đừng bắn."
Lan quằn quại. "Anh Thu, anh Phong không có nhà."
Thu không đếm xỉa gì đến họ. "Tao đếm tới ba. Nếu mày không leo xuống, tao bắn chết con Lan."
"Một," hắn hét lớn.
"Hai."
"Ba."
Khi hắn bước lùi lại và đưa khẩu súng lên, một giọng nói từ gác xép. "Đừng bắn. Tao đi xuống."
Thu mỉm cười.
Tấm bảng được gỡ ra và khuôn mặt Phong xuất hiện. Anh hạ thấp người qua cái lỗ nhỏ, và anh buông mình xuống sàn nhà.
Vừa khi chân anh chạm sàn, Thu ria
ba viên đạn vào anh. Những viên đạn nổ toang. Thân hình Phong ngã
sóng soài trên sàn nhà với máu văng vãi khắp nơi, đỏ cả áo sơ mi
trắng.
Mấy người đàn bà phát ra tiếng
gào thét thảm thiết như những con thú bị làm thịt. Mẹ Phong nhào
tới xác đẫm máu của con bà và ngã gục bên cạnh anh. Bà hét lên điên
dại. "Trời ơi. Con tôi. Con tôi." Bà đập sàn nhà với nắm tay. Đầu
bà gập lên xuống. Mặt bà méo xệch đi, tràn ngập với nước mắt và
máu.
Ông nội đứng dậy. Ông nghiến răng và chỉ ngón tay vào mặt Thu. "Thu, mày là đồ súc vật. Trời sẽ không tha mày."
Thu quay khẩu AK-47 về phía ông già và bắn một phát vào mặt ông. Ông già ngã xuống ghế.
Thu bước ra khỏi nhà. Hắn ra lệnh đám VC. "Mang con nhỏ Lan theo.”
Năm cây số cách chỗ giết người
tại nhà Phong, ở trong nội thành, đại đội Hotel của tiểu đoàn 1,
trung đoàn 5 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, chẳng làm được tiến bộ
nào. Họ tiến lên hai mươi mét, chỉ để bị đẩy trở lại cùng một khoảng
cách bởi súng máy địch bắn xối xả từ trên mái một tòa nhà. Trung
úy Hummel gọi yểm trợ máy bay và pháo kích, nhưng anh đang gặp khó
khăn truyền tin.
Toàn và Brad nghỉ một chút khi
tiếng đạn bắn dừng lại. Họ ngồi dựa người vào bức tường dọc theo
vỉa hè một đường phố rộng. Brad đưa Toàn một điếu Marlboro.
Brad nhả ra một làn khói và
rít một hơi dài. "Bộ anh không phải kiểm tra với xếp anh xem tình
hình đơn vị anh thế nào?"
Toàn đặt chiếc M-16 xuống ngang
đùi, và châm điếu thuốc. "Không, tôi không muốn làm phiền họ. Lính
chúng tôi đang kiệt sức ở bản doanh sư đoàn."
"Xếp anh có bực mình là anh chưa trở về?"
"Không, ổng hiểu mà. Lời giải
thích của trung uý anh với cố vấn Mỹ ổng là đủ rồi. Sự hiểu biết
của tôi về tòa nhà và các vị trí của quân Bắc Việt là tin tình báo có
giá trị nhất các anh có bây giờ. Các anh cần tôi ở đây để kết thúc
việc này."
"Thật ra không phải chỉ là tình báo có giá trị nhất. Đó là tình báo duy nhất mà chúng tôi có."
"Tôi thật không ngờ là tụi mình hoàn toàn không biết chuyện gì xảy ra."
"Tôi cũng không ngờ."
Anh liếc qua Toàn và thấy hình xâm trên lưng bàn tay.
"Này, hình xâm đó là cái gì vậy?"
Toàn mỉm cười. "Cho bạn gái tôi, em bạn tôi. Chúng tôi sẽ kết hôn sau khi mọi chuyện xong xuôi."
"Cô ấy sống quanh đây chứ?"
Toàn hất tàn thuốc lá xuống đất. "Ừ, cổ ở vùng này. Thật ra, tôi đã tính tạt qua nhà cổ xem cổ có sao không. "
Brad mỉm cười. "Thảo nào. Tụi tôi tự hỏi sao anh lại bị mắc kẹt trong tòa nhà đó hồi đầu."
"Này, tôi bị mắc kẹt trong đó không
phải vì tôi dự tính đi gặp cô ấy. Đơn vị chúng tôi rút lui và tôi là
người cuối cùng kéo ra khi đám BV tràn ngập. Lúc đó quá trễ cho
tôi chạy ra mà không bị thấy."
"Anh nói sao cũng được, Thiếu úy."
Toàn cười. "Anh chứng kiến chuyện
đó với chính mắt anh. Nếu họ lôi tôi ra tòa án quân sự, anh sẽ là
nhân chứng của tôi. "
"Lúc đó thì tôi về Mỹ rồi."
Toàn dừng lại, và giọng anh trở nên
nghiêm trọng. "Coi này, tôi không biết tôi đã nói điều này chưa, nhưng
tôi thật sự quý chuyện anh tới cứu mạng tôi. Jimmy và Nick nói
với tôi anh cứ khăng khăng đòi đi tới tòa nhà khi anh nhìn thấy tôi
giết ba tên BV."
Anh chìa tay ra. "Cảm ơn anh rất nhiều vì đã cứu mạng tôi."
Brad bắt tay anh mạnh mẽ trong kiểu chế giễu. "Không có chi, Thiếu úy."
"Hạ sĩ, anh có thể dẹp cái Thiếu úy đi được không?"
Một tràng đạn súng máy vang rền làm ngưng cuộc trò truyện họ. Họ ném thuốc lá và chụp cây M-16.
"Tụi mình phải làm câm miệng cây súng chó đẻ phiền toái này," Brad nói.
"Máy bay với pháo binh mình đâu rồi?"
"Để tôi coi xem sao."
Trước khi anh phóng ra khỏi vị trí
mình, Trung úy Hummel xuất hiện từ góc đường. Anh vẫy tay với Brad.
Brad lom khom sau bức tường thấp đi tới anh.
"Chuyện gì vậy, Trung úy?" Brad hỏi.
"Sẽ không có bắn chuẩn bị, nhưng mình có thể có xe tăng và Ontos trong một giờ."
"Không có máy bay hoặc pháo binh? Sao vậy?"
"Thời tiết và các quy tắc giao tranh bí ẩn. Cấp chỉ huy Việt Nam không muốn phá hủy thành trì của chính họ."
"Cái gì? Trung úy đang đùa, phải không?
"Không, tôi nghiêm trọng thiệt đó.
Mình đang bị dí ở đây vì một số tay sạn óc trong bộ chỉ huy muốn
bảo tồn di tích lịch sử của họ."
"Đéo mẹ. Khi mọi chuyện xong
xuôi rồi, họ sẽ chẳng còn cái gì để bảo tồn được nữa. Tụi lính
BV đâu thèm để ý chuyện đó."
"Được rồi, hạ sĩ. Đó không phải là mối quan tâm chúng ta bây giờ. Anh có thể cầm cự một tiếng được không?"
"Miễn là tụi nó giữ vị trí tụi nó, chúng tôi sẽ giữ vị trí mình."
"Tôi không chắc là tụi nó sẽ giữ vị trí chúng. Sớm hay muộn, chúng sẽ phải tháo chạy ra."
"Chúng ta không thể ngăn chặn chúng. Anh chàng thiếu úy VNCH cho biết có khoảng hai đại đội lính Bắc Việt trong đó. "
Hummel cau mày. "Mẹ kiếp!"
Brad cắn môi. "OK, một tiếng."
Hummel gật đầu, mỉm cười. "Tốt, một tiếng đồng hồ. Tôi sẽ gửi tiểu đội của Buck đến tăng cường vị trí anh."
Brad trở lại với Toàn. "Tụi mình phải cầm cự một tiếng cho đến khi xe tăng và Ontos đến."
"Chẳng sao."
"Cấp chỉ huy anh không muốn máy bay và pháo binh, vì họ muốn bảo tồn di tích lịch sử các vị vua chết của anh."
Toàn nghiêng đầu. "Tại sao tôi phát hiện cay đắng trong giọng nói anh?"
"Tôi không thể kềm được," Brad nói, giọng phẫn nộ. "Chúng ta có hỏa lực mạnh hơn mà không thể xài được."
Toàn không nói một lời. Sự im lặng của anh làm Brad tức điên lên.
Anh buột miệng. "Cái đéo vị trí
lịch sử các anh. Họ muốn bảo vệ cung điện mấy ông vua chết đéo các
anh. Mấy vị vua chết này đã làm gì cho đất nước anh nào? Để tôi nói
cho anh biết lịch sử là gì. Nếu họ không san bằng mấy hội trường và
cung điện vô ích đó, chúng ta sẽ là lịch sử chắc chắn."
"Anh đang nói gì vậy?"
"Tôi đang nói chuyện lính tôi
đang chết vì mấy ông Tướng chết tiệt của anh không chịu thả bom
xuống đám giặc đang núp kín trong cái đéo vị trí lịch sử
bọn anh."
Toàn sôi máu lên. Mẹ kiếp, mày
biết đéo gì về lịch sử? Đất nước mày chỉ có 200 năm lịch sử, và đó
không phải ngay cả lịch sử. Tổ tiên mày đến từ Anh, Ái nhĩ lan, Pháp,
và chiếm đóng các vùng đất người da đỏ. Mày gọi đó là lịch sử? Dân
mày thậm chí không có một bản sắc. Mày làm cái đéo gì ở đây nào?
Mày có giúp tụi tao chiến đấu chống lại tụi Cộng sản, chống lại
Tàu đỏ và Nga, hay là mày ở đây vì đám tướng lãnh trong cái đéo
Ngũ Giác Đài tụi mày và đám nghị sĩ lấy quá nhiều tiền quyên
góp từ cái đéo liên hợp kỹ nghệ quân sự để chế tạo máy bay,
trực thăng, bom, xe tăng, đến nỗi họ phải gửi tụi mày đến đất nước
nhỏ bé của tụi tao để biện minh cho ngân sách quốc phòng của tụi mày?
Tất nhiên, anh sẽ không hét lên
những lời đó với Brad, người đã cứu mạng anh và đang chiến đấu cùng
với anh chống lại cùng một kẻ thù. Tuy nhiên, sự bộc phát cảm xúc
bị đè nén làm anh nghẹn lời. Anh nghiến răng và nắm chặt báng
súng M-16.
"Hạ sĩ," anh nói một cách bình tĩnh
sau khi hít một hơi dài, "anh đang nói với tôi hay là nói với chính
anh? Nếu anh đang nói với tôi, tôi muốn nhắc anh rằng anh đang nói
chuyện với một sĩ quan. Anh nên coi chừng ngôn ngữ anh."
Brad ngớ người. Anh biết vô lễ
với một sĩ quan cấp trên là một hành vi phạm tội bị trừng phạt bởi tòa
án quân sự, nhưng vô lễ với một sĩ quan đồng minh? Anh thậm chí không
phải là vô lễ. Anh chỉ bày tỏ ý kiến mình. Nhưng anh biết những gì anh
nói là không nên nói. Người thiếu úy VNCH không cần phải ở lại với
tiểu đội anh, phơi bày trước nguy hiểm. Hắn ở đây vì hắn muốn giúp
đơn vị anh chiếm lại khu vực bị kẻ thù chiếm đóng. Brad lập tức hối tiếc
về sự bùng nổ của mình.
"Thiếu úy," anh nói, "tôi xin lỗi vì lời nói của tôi. Chẳng qua chỉ vì một trong lính tôi bị tiêu tùng sáng nay."
Toàn nuốt mạnh. "Không sao. Anh nên đi nói với lính anh đi."
"Chính thế."
"Mà này, nếu anh muốn biết những gì
các vị vua chết đã làm cho đất nước chúng tôi, có lẽ anh nên nghĩ đến
chuyện học lịch sử nước chúng tôi sau khi anh hoàn thành nhiệm kỳ
tòng quân của anh."
"Tôi sẽ nghĩ về chuyện đó."
Brad bò lại đám lính anh đang ngồi quỳ sau bức tường.
Toàn nghiền nát mẩu thuốc lá trên
mặt đất. Anh nhìn lên bầu trời đầy mây, cố gắng lấy lại bình tĩnh.
Anh ngạc nhiên là anh có thể nổi giận với những lời Brad một
cách dễ dàng như vậy. Anh chàng Mỹ chỉ nói những gì trong đầu anh
ta, và kể ra thì anh cũng có lý do nói những gì anh nói. Lính anh
ta chết vì kẻ thù được cho phép ẩn núp một cách an toàn trong tòa nhà.
Ngoài ra, anh ta không biết quý trọng nhu cầu bảo tồn di tích lịch
sử một phần vì anh ta đang chiến đấu trên đất người khác.
Anh nguyền rủa mình là quá nhạy
cảm. Cộng sản biết cách tấn công bằng chiến tranh tâm lý. Cuộc tấn
công của chúng ngay trong trung tâm Huế và cung điện vua chúa, vào
những ngày Tết trang trọng, cho thấy chúng khôn ngoan như thế nào.
Chúng không quan tâm về giá trị lịch sử của cung điện hoàng gia và các
vị vua đã chết, mặc dù đó cũng là tổ tiên chúng. Chúng thậm chí
không màng đến ý nghĩa thiêng liêng những ngày đầu tiên trong năm mới.
Chẳng bao lâu, anh bình tĩnh lại.
Anh quyết định không để cho sự tức giận xen vào sứ mệnh mình. Anh nhìn
hình xâm trên lưng bàn tay và mỉm cười. Mỗi lần anh bực bội, nhìn vào
hình xâm luôn luôn mang lại cho anh niềm vui và sự thanh thản tâm
trí. Đó là hình xâm một cành hoa lan. Nhánh hoa dài chạy qua cổ tay
anh, với một đóa hoa lan duy nhất ngay chính giữa với nhiều lá. Các
màu đã phai nhạt, nhưng chuyện đó không quan trọng. Lan là tên nàng
và mỗi khi anh nhìn vào lưng bàn tay anh, anh nhớ đến nàng. Hình ảnh
Lan từ từ nổi lên trong tâm trí anh và mang lại cho anh cảm giác yên
bình và thoải mái. Ý nghĩ anh trôi tới những ngày anh trải qua với
nàng trong sáu tháng qua.
Nàng là em gái Phong, thân nhân của
bạn anh. Một hôm, anh và người bạn đến một quán cà phê và gặp Phong và
Lan. Nét đẹp ngây thơ của Lan làm anh ngây ngất trong buổi gặp gỡ
đầu tiên, và từ đó, tình yêu giữa một thiếu nữ và một sĩ quan bộ binh
trẻ chớm nở.
Như hầu hết các chuyện tình trong
chiến tranh, tình yêu hai người là một chuyện tình vô tội. Anh viết
thư cho nàng khi anh trên đường hành quân. Nàng trả lời với những
bài thơ ngắn về chiến tranh, hòa bình, và tình yêu của họ. Ước mơ nàng
là cho hòa bình khi không còn đánh nhau để anh có thể trở về cuộc sống
dân sự và xây dựng gia đình với nàng. Mỗi khi anh có ngày nghỉ
phép, anh gặp nàng. Hai người dành buổi tối yên tĩnh ngồi dưới gốc
cây bên bờ sông Hương.
Trong một buổi tối đáng nhớ, hai người nắm tay nhau và Lan thấy hình xâm trên tay anh.
"Hoa gì đó anh?" Nàng hỏi.
Toàn mỉm cười. "Em không biết hoa gì à?"
"Trông giống như hoa lan vậy."
"Đúng vậy. Tên em đó mà. Hoa là em. Em luôn luôn ở bên anh."
Lan nhìn anh. Dưới ánh trăng sáng,
môi nàng run rẩy và mặt nàng sáng ngời. Anh cúi đầu xuống và hôn
nàng. Đó là nụ hôn đầu tiên của hai người. Anh ôm nàng trong vòng tay
anh. Cảm giác nôn nao làm anh run lên.
Nàng trải lưng bàn tay anh và chỉ vào đóa hoa lan. "Đây là tim em nè. Trái tim em luôn luôn ở bên anh."
"Ừ, anh mang tim em với anh khắp nơi anh đi."
"Đừng để bất cứ gì xuyên qua tim em nha. Em sẽ chết nếu anh để chuyện đó xảy ra."
"Anh hứa sẽ không để chuyện đó xảy ra."
Đó là một buổi tối lãng mạn. Anh ôm chặt thân hình nàng trong vòng tay, biết rằng anh sẽ không bao giờ quên giây phút đó.
Anh không biết những gì đã xảy ra
với Lan và gia đình nàng. Nhà nàng ở quận III, trong vùng đang ở
dưới sự kiểm soát cộng sản trong những ngày đầu tiên cuộc tấn công. Gia
đình nàng có thể gặp rắc rối vì cha nàng là chỉ huy trưởng một đơn vị
thiết giáp đóng ở vùng cao nguyên. Có thể có những tên VC nằm
vùng, ra mặt cung cấp thông tin cho kẻ thù. Anh hy vọng chúng tha gia
đình nàng. Phong, anh nàng, chỉ là một sinh viên đại học và nàng chỉ
là một sinh viên đại học hai mươi tuổi. Họ làm gì để hại chúng? Anh đã
từng nghe những chuyện về hành động man rợ của VC đối với các viên
chức chính phủ. Bắt cóc và ám sát không phải là không thông thường,
nhưng những hành động này đa số nhắm vào các viên chức, chứ không
vào gia đình họ.
Một loạt nổ lựu đạn gián đoạn sự
suy nghĩ của anh. Anh chụp lấy cây M-16 và chuyển tư thế. Brad đang
bò về từ đầu kia tường.
"Chuyện gì vậy?" Toàn hỏi.
"Một đám quân BV đang di động ra khỏi tòa nhà," Brad nói.
"Mình nhào ra đi."
Phú không biết phải làm gì. Cùng với
hàng trăm người bị bắt khác, nó ngồi trên mặt đất sân trước trong chùa
Tĩnh Quan. Bên phải nó là đôi vợ chồng già trạc năm mươi mấy tuổi.
Bên trái nó là một thanh niên trẻ cỡ tuổi hai mươi. Họ trông ngơ ngơ
ngác ngác và mệt mỏi. Đa số đến từ các vùng hàng xóm lân cận,
nhưng một số đã đi bộ từ các quận khác cách cả ba cây số. Nó bị bắt
khi trốn trong nhà vệ sinh trường trung học Trần Hưng Đạo, chỉ cách
chùa Tĩnh Quan hai khu phố. Một nhóm bộ đội, hơn hai mươi nam nữ cỡ
tuổi nó, lục lọi toàn bộ trường trung học, từ các lớp học, văn phòng
hiệu trưởng, cho tới phòng chờ của giáo viên. Một cô gái bộ đội xông
vào nhà vệ sinh khi cô phát hiện nó. Nó tưởng cô ấy sẽ bắn khi cô
chỉa súng vào nó.
"Anh đang làm gì ở đây?" Cô ta hét lên.
Răng nó đánh lập cập và đôi chân run rẩy. "Thưa chị, em đang lau chùi nhà vệ sinh."
Cô gái chọc súng vào bụng nó. "Ra khỏi đây."
Khi nó ra ngoài, nó nhận ra nó
không phải là người duy nhất. Một chục người khác, trong đó có hai đứa
bạn nó, Duyệt và Huy, đã bị tập hợp. Đám bộ đội chỉa súng dẫn
họ tới chùa.
Trên đường đi, Phú giật mình khi
thấy bộ đội khắp nơi trên đường phố. Hàng trăm người, mặc đồng phục
kaki xanh lá cây, mũ bấc xanh lá cây, với súng AK-47 lủng lẳng dưới
vai, tràn ngập cả mấy khu phố. Hàng chục VC trong bộ đồ bà ba đen
đi lẫn lộn với họ. Đám bộ đội chạy qua lại, quát tháo với đám
dân bị bắt trong giọng Bắc kỳ, với âm điệu nặng nề, nghe như
tiếng ngoại quốc. Nó đã từng nghe người ta nói với giọng đó, nhưng
không với cách phát âm khác biệt như vậy và cũng chẳng nhiều người.
Tại chùa, những người bắt họ phát giấy tờ và ra lệnh đám bị bắt
viết xuống tất cả mọi thứ về bản thân: tên, địa chỉ, nghề nghiệp, và
những nơi sống trong ba mươi năm qua. Nó chỉ mới có mười sáu tuổi,
nên không phải viết nhiều. Sau khi nộp lại tờ thông tin, đám bộ đội
dẫn họ đến sân trước và ra lệnh họ ngồi xuống, từng hàng một, theo
thứ tự mà họ nộp giấy tở.
Phú nhẩm đếm số người bị bắt và
tổng kết khoảng 215. Mười bốn phụ nữ. Một nửa là những người trẻ cỡ
tuổi hai mươi, ba mươi, và một nửa là trung niên ở tuổi bốn mươi và năm
mươi. Nó thấy chỉ có năm, sáu thiếu niên cỡ tuổi nó. Nó nhận ra
vài gương mặt quen thuộc. Bà Hải có gian hàng bán bánh mì cho trẻ em như
nó trên đường đến trường. Ông Lộc cho thuê sách trẻ em trong cửa hàng
bên kia đường nơi nó ở. Cô Lan là sinh viên năm thứ ba tại Đại học
Huế, và là bạn chị nó. Cô đến nhà nó vài lần mượn sách chị nó. Tất
cả đều trông sợ hãi và hoang mang, tuân theo lệnh đám bộ đội răm
rắp mà không nói một lời.
Họ ngồi trên mặt đất, mặt họ tối
xầm với nét lo âu. Thỉnh thoảng, một số liếc nhìn đám người đứng
coi được phép đứng sau hàng rào dây kẽm gai. Nhiều người trong đám
người coi là bạn hoặc người thân những người bị bắt. Phú quét mắt
nhìn mặt đám người đứng coi để xem có ai từ gia đình nó, nhưng
chẳng thấy ai cả.
Tại sao nó ở đây? Tại sao những người này ở đây?
Họ ngồi đó một lúc lâu mà không
nói chuyện với nhau. Trước đó, một tên bộ đội trung niên thông báo họ
bị cấm nói. Họ có thể đi vào phòng vệ sinh nếu giơ tay xin phép và sau
đó mỗi lần chỉ có một người. Trông họ như một đám trẻ em mẫu giáo.
Đám bộ đội và VC có vẻ rất bận rộn chuẩn bị cho một cái gì đó, có
thể là một bài diễn văn về chủ nghĩa Mác, hoặc một bài giảng về người
Mỹ và chính phủ ngụy Nam Việt Nam. Họ kê một bàn và vài cái ghế ở sân.
Hai tên VC, một thanh niên và thiếu nữ, cả hai cỡ hai mươi mấy
tuổi, ngồi bên bàn, lật qua các tờ thông tin, thỉnh thoảng dừng lại
rồi nói chuyện với nhau, và viết nguệch ngoạc ghi chú trên mấy tờ
giấy.
Phú đã nghe chú nó nói là những
người cộng sản thích tuyên truyền qua các bài giảng và thảo luận ca
ngợi cộng sản và lên án chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Nó thật
sự chẳng hiểu nhiều về chính trị và chiến tranh. Nó đang học lớp
mười một và chuẩn bị thi Tú tài quốc gia phần một trong mùa hè. Cha mẹ
nó qua đời nhiều năm trước và nó hiện đang sống với chú nó, một bác
sĩ tại bệnh viện. Sáng nay, khi nghe tiếng súng cối nổ và đạn bắn,
nó chạy đến trường với hy vọng gặp bạn bè. Bây giờ ngồi trên mặt
đất, nó nguyền rủa cho sự ngu xuẩn của mình.
Tới ba giờ chiều, đám bộ đội
và VC có vẻ làm xong những gì họ đang làm. Hai tên VC đọc xong
những tờ thông tin và đặt chúng lên bàn.
Một người đàn ông trung niên mặc áo
trắng lái một chiếc xe gắn máy Honda vào sân. Hắn xuống xe và bước
nhanh thẳng tới bàn, không thèm để ý đến đám người bị bắt đang
ngồi sát vào nhau như đàn cừu sợ hãi. Hai tên VC chào đón hắn và
để hắn ngồi ở giữa bàn. Khi hắn ngồi xuống ghế, tiếng thì thầm
lan ra trong đám bị bắt. Phú không biết hắn là ai, nhưng dựa vào
phản ứng của mấy người bị bắt, hắn có vẻ là người nổi tiếng trong
vùng.
Hai tên VC ngồi hai bên hắn. Người
đàn ông mặc áo trắng lấy ra một khẩu súng lục K-54 và cầm nòng
súng trong tay như thể hắn cầm cái búa nhỏ thường dùng bởi quan
tòa. Một số VC trong bộ đồ bà ba đen đứng lan tràn xung quanh, tay
cầm AK-47.
Người đàn ông trung niên áo trắng
quét mắt qua những người bị bắt và hắng giọng. Hắn đập khẩu súng lục
lên bàn kêu gọi sự chú ý mọi người. Chuyện đó hoàn toàn không cần
thiết vì ai cũng yên lặng và mọi mắt tập trung vào hắn. Hắn nói với
một giọng Huế rõ ràng. "Tôi là Mai Dinh Châu Cát, đại diện Liên minh
Nhân dân Dân chủ và Hòa bình. Hôm nay, tôi chủ trì Toà án nhân dân này
để quyết định các tội ác phạm bởi những tên tội phạm bị dân bắt giữ."
Trời đất ơi! Hắn nói gì vậy? Phú tự hỏi. Mình phạm một tội ác? Mình bị dân bắt giữ? Đám bộ đội là dân à?
Châu Cát dừng lại. "Giúp tôi trong
phiên toà này là đồng chí Lê Thị Trang Tiết, ngồi bên trái tôi, và
đồng chí Trần Thất Thu, ngồi bên phải tôi." Hắn đập khẩu súng lục
trên bàn. "Hãy bắt đầu phiên tòa."
Không ̣để phí thì giờ, Trang Tiết đọc tên kẻ "tội phạm" đầu tiên trong danh sách trên giấy. "Nguyễn Đức Thắng, 42 tuổi."
Hai tên VC dẫn người đàn ông ngồi ở
đầu hàng đầu tiên lên trước bàn. Người đàn ông đứng thẳng, đối diện
Châu Cát. Tên bộ đội trung niên đã nói với họ là họ không được nói
trừ khi được cho phép.
Thất Thu đọc tờ giấy. "Nguyễn Đức
Thắng là chủ nhà hàng Miền Trung. Nhà hàng là ngụy trang cho hoạt động
hắn là đặc vụ CIA bí mật. Hoạt động hắn phản động và gây tổn hại cho
cuộc cách mạng hòa bình của dân."
Hắn đưa tờ giấy cho Châu Cát. Châu Cát liếc nhanh qua tờ giấy.
"Hình phạt là tử hình," Châu Cát nói cụt lủn.
Mọi người há miệng kinh ngạc.
Tiếng thì thầm rải rác trong đám đông. Châu Cát đập khẩu súng lục trên
bàn. "Yên tĩnh. Yên tĩnh. Lấy lại trật tự."
Mấy tên VC vung vẩy súng AK 47. Đám đông trở nên im lặng ngay tức khắc.
Thắng giơ tay lên, có lẽ muốn xin phép nói, nhưng hai tên VC đẩy ông qua các VC khác và chúng lẹ làng dẫn ông đi.
Phiên tòa toàn bộ kéo dài ít hơn một phút.
Phú choáng váng. Nó tưởng đang nằm mơ. Hàng chục câu hỏi xoay vòng qua tâm trí nó. Làm
sao chuyện này có thể được? Họ có thể làm chuyện đó được sao? Họ
thật sự nghiêm trọng? Ông Thắng sẽ bị giết? Đây thật sự là một phiên
tòa? Luật sư đại diện cho bị cáo đâu rồi? Nó chỉ là một đứa trẻ, nhưng nó biết những điều căn bản của một phiên tòa hình sự.
Một người ngồi sau nó thì thầm, "Tụi nó chỉ hù thôi."
Chính thế! Họ chỉ hù thôi. Họ
đang dùng chiến thuật làm sợ hãi. Họ muốn dọa những người bị bắt và
những người đứng coi. Chắc chắn là hù vì nếu họ thật sự muốn
giết ông Thắng, họ có thể làm chuyện đó mà không cần xét xử. Tại sao
họ cần phải phí thì giờ với phiên tòa này? Với ý nghĩ đó, Phú thở
phào nhẹ nhõm.
Án kế tiếp cũng là một án tử
hình, cũng ít hơn một phút. Từng người một, đám VC dẫn các tội nhân
đối diện tòa, đọc tội ác của họ, công bố bản án, rồi dẫn họ đi.
Trong vòng một giờ, một phần ba đám tội nhân bị kết án với sự hữu
hiệu của một nhà máy lắp ráp dây chuyền. Phần lớn, gần 99%, lãnh
án tử hình. Một tội nhân hét lên phản đối khi bản án được công bố. Ông
ta lập tức bị mấy tên VC đánh đập bằng báng súng và kéo đi. Một số
nhận được án nhẹ với các loại hình phạt, như lao động, tiền phạt. Chỉ
có một trường hợp được tuyên bố trắng án. Khi đến lượt Duyệt, Phú lo
lắng.
Trang Tiết đọc, "Trần Văn Duyệt, mười sáu tuổi."
Thất Thu tiếp theo. "Trần Văn
Duyệt là học sinh trường trung học Trần Hưng Đạo. Cha nó làm việc
cho chính phủ ngụy là nhân viên thành phố."
"Vì tuổi nó và cha nó chỉ là một nhân viên chính phủ cấp thấp, Duyệt lãnh án nhẹ làm lao động," Châu Cát công bố.
Phú thở một hơi dài nhẹ nhõm.
Duyệt được dẫn đến bên phải sân, nhập vào vài người khác, những
người nhận được cùng một bản án. Duyệt cúi đầu xuống, tránh những
tia nhìn chằm chằm.
Ngay sau đó, Lan được dẫn đến đứng trước mặt tòa.
Thất Thu mỉm cười. Hắn thì thầm vào tai Châu Cát và Châu Cát gật đầu. Lan run rẩy, nước mắt lăn dài trên mặt nàng.
"Vũ Thị Lan là sinh viên Đại học
Huế," Thất Thu công bố. "Anh cô là một thành phần cực đoan với những
suy nghĩ cực kỳ phản động. Cha cô là một sĩ quan cao cấp phục vụ trong
quân đội chính phủ ngụy."
"Án tử hình," Châu Cát nói.
Lan phát ra một tiếng thét và ngã
khụy xuống đầu gối. Hai tên VC lập tức kéo nàng đi. Họ kéo thân hình
nhỏ bé của nàng như một con thú đã chết. Đầu nàng gục xuống và chân
lê trên mặt đất.
Cảnh tượng kích động Phú. Phản ứng
Lan có vẻ quá đáng nhưng cho thấy bất cứ chiến thuật nào họ đang
dùng, chiến thuật đó quả có hiệu nghiệm. Nó không biết họ có
đang chơi một trò chơi. Cách họ tiến hành phiên tòa, mặc dù đặc thù và
độc đoán, có vẻ nghiêm trọng. Họ có thể dành nhiều thì giờ để hù
người ta một cách nghiêm trọng như vậy sao?
Khi tên nó được gọi, nó cố gắng
bình tĩnh và bước thẳng tới bàn. Nó khoanh tay và nhìn chằm chằm vào
Thất Thu. Nó biết số phận của mình được quyết định bởi bất cứ điều gì
Thất Thu nói.
Thất Thu thậm chí không nhìn nó. Hắn chỉ đọc thẳng từ tờ giấy. Hắn có vẻ mệt mỏi và chỉ muốn làm cho xong chuyện.
Giọng nói hắn đều đều. "Phạm Đình
Phú là học sinh trường trung học Trần Hưng Đạo. Nó là một trẻ mồ côi
và sống với chú nó là bác sĩ tại bệnh viện. Mặc dù chú nó làm việc
cho chính phủ ngụy, hắn có ích cho dân."
"Vì tuổi nó và chú nó là một bác sĩ hữu ích với cách mạng, Phú lãnh án nhẹ làm lao động," Châu Cát nói bình thản.
Phú không có thì giờ phản ứng khi
một tên VC chọc khẩu AK-47 vào lưng nó và đẩy nó tới chỗ Duyệt
đang đứng. Nó và Duyệt trao đổi tia nhìn mà không để lộ nét gì
trên mặt. Phú không biết nó nên khóc hay cười, nhưng nó sợ rằng bất cứ
cảm xúc nào nó để lộ ra đều có thể gây rắc rối.
Tới sáu giờ chiều, toàn bộ phiên
tòa đã xong. Sáu tội nhân nhận được án nhẹ lao động. Bốn phải trả
tiền phạt. Họ được phép về nhà lấy tiền. Một người được tuyên bố trắng
án. Những người còn lại lãnh án tử hình.
Châu Cát sau đó đưa ra một bài phát
biểu với những người còn lại, kể cả những người đứng coi. Phú
chẳng thèm nghe những gì hắn nói. Nó nghĩ về những gì thật sự sẽ
xảy ra cho những người lãnh án tử hình. Tiếng hét ám ảnh của Lan và
thân hình nhỏ bé của nàng vẫn còn vất vưởng trong tâm trí nó.
Đám VC dẫn Phú và năm đứa trẻ
khác vào trong chùa. Phú thấy đói nhưng nó không dám hỏi ăn. Nó
không tin là họ sẽ cho nó ăn. Tuy nhiên, nó mừng rỡ khi thấy một
số ni cô sửa soạn bữa ăn trong nhà bếp.
Một tên VC trung niên với một vết
sẹo trên mặt chỉ vào một cái bàn trong góc chùa. "Tụi mày có mười
lăm phút ăn rồi đi làm việc."
Đám thiếu niên ăn trong im lặng. Kỳ lạ, Phú ăn ngon miệng, mặc dù nó không thích đồ ăn chay.
Sau khi ăn, tên VC sẹo mặt ra lệnh
tụi nó vác gạo và đạn dược từ khắp nơi trên các đường phố về chùa.
Phú được bổ nhiệm làm toán trưởng vì nó có vẻ lực lưỡng và cao
hơn những đứa kia. Trong lúc làm việc, Phú nghe tiếng súng nổ từ xa.
Nó thấy khói bốc lên về hướng cổ thành. Hy vọng nó dâng lên.
Đến tối, chúng được nghỉ ngơi một
lúc để chúng có thể tiếp tục làm việc vào ban đêm. Phú và các bạn
trao đổi ít đối thoại vì chúng không muốn chọc giận những kẻ bắt
chúng. Tòa án nhân dân đã cho thấy những người này thất thường như thế
nào.
Mỗi đứa kiếm một chỗ trong sân sau
chùa để nghỉ ngơi hoặc chợp mắt một chút. Phú ngồi xuống và dựa người
vào tường, Nó kiệt sức. Hình ảnh những gì xảy ra trong tòa án nhân dân
tái hiện lại trong tâm trí nó. Nó tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra cho
những người bị kết án tử hình. Bây giờ họ bị nhốt ở đâu? Nó cũng
không thấy dân địa phương khác sau khi kết thúc phiên tòa. Những
người đứng coi được phép trở về nhà họ, có lẽ để mang về tin tức cho
những người thân yêu của đám bị bắt. Phú hy vọng chú nó sẽ không sao.
Qua những gì chúng nói, có vẻ là chúng có chút tôn trọng bác sĩ.
Chúng có thể cần bác sĩ và y tá sau đó.
Chẳng mấy chốc nó chìm vào giấc ngủ.
Phú bị đánh thức bởi tiếng hét. "Thức dậy."
Nó mở mắt ra. Tên VC sẹo mặt đá nó. Nó lập tức đứng lên. Trời tối rồi. Nó đã ngủ được khoảng một tiếng.
Tên VC sẹo mặt tập hợp tất cả đám thiếu niên. Hắn đưa cho chúng xẻng và cuốc và dẫn chúng tới một góc phía sau chùa.
"Đào một cái hố ở đây," tên VC sẹo mặt ra lệnh, chỉ vào một vùng trống phía sau một cây lớn và đám cây bụi.
"Thưa chú, cháu có thể biết bề dài, bề sâu và rộng?" Phú hỏi.
"Đào sâu hai mét, rộng hai mét và dài mười mét."
Trước khi đi, tên VC nói, "Làm càng lẹ càng tốt. Tao sẽ kiểm tra tụi mày trong một giờ. "
Đám trẻ bắt đầu làm việc ngay lập
tức. Thỉnh thoảng, một tên VC ló đầu ra cửa sổ nhà bếp và
nhìn về hướng chỗ chúng làm việc. Trong khi làm việc, Phú liếc
nhìn xung quanh. Các đường phố đã tối nhưng vẫn có chút ánh đèn.
Nó thấy hàng chục bộ đội đi bộ trên đường phố, tay cầm AK-47.
Không thể nào trốn thoát được.
Trong lúc nghỉ ngơi, đám trẻ bắt đầu nói chuyện, nhưng cố gắng giữ tiếng nói thấp.
"Tụi mình phải ra khỏi đây càng sớm càng tốt," Phú thì thào.
"Bằng cách nào? Tụi nó ở khắp nơi," Duyệt nói.
"Cho dù tụi mình có chạy thoát
ra khỏi chỗ này, mình sẽ đi đâu?" Huy nói. "Tụi nó có thể còn
nhiều ở phía bên kia và tụi nó sẽ bắt lại mình."
Huy nói đúng. Qua những gì đám VC nói, chúng đã chiếm toàn bộ quận, và có thể các quận huyện lân cận.
"Mình không thể ở đây được," Phú nói.
"Mình nên chờ lính mình tới."
"Họ không đến đâu. Đã hai tuần rồi
từ lúc bắt đầu đánh nhau. Nếu họ định chiếm lại thành phố, lẽ ra
họ phải đến giờ này rồi. "
"Ý mày nói họ bỏ rơi tụi mình?"
"Tao không biết. Tụi mình không biết tình hình thế nào. Nhưng có vẻ là họ không đến, ít nhất trong một thời gian."
"Nhưng lúc tao đi tiểu, tao nghe
tụi nó nói là đừng có phí phạm đạn và tránh gây tiếng động lớn
vào ban đêm vì tụi nó sợ tiết lộ vị trí tụi nó. Có vẻ tụi nó sợ
lính mình đang đến."
"Có lẽ tụi nó chỉ thận trọng, tao không tin là lính mình sẽ đến giải cứu mình như lính biệt kích."
"Nếu lính mình không đến, tại sao tụi nó muốn mình đào hào này? Bộ đó không phải là cho tụi nó phòng thủ?"
Phú dừng lại. Nó nhìn những gì tụi
nó đã đào cho đến nay, chỉ dài khoảng hai mét, nhưng hai hoặc ba người
có thể lọt vừa với vũ khí và vẫn còn dư chỗ để di chuyển xung quanh.
Điều duy nhất đặc biệt là vị trí của rãnh ở mặt sau chùa, che bởi
phía trước. Nếu rãnh hào là để phòng thủ, thì lẽ ra nó phải
được đặt ngay phía sau cổng trước chứ?
Chúng trở lại làm việc để tránh
nghi ngờ từ con mắt tò mò của đám VC. Tên VC sẹo mặt trở lại trước nửa
đêm và ra lệnh cho chúng đào thêm mấy rãnh hố nữa.
Đêm lạnh, và những làn gió lạnh
làm giảm bớt thân nhiệt đám trẻ. Chúng làm việc âm thầm dưới ánh
đèn yếu ớt từ một máy phát điện. Phú bỏ chuyện trốn thoát. Nó rất
mệt mỏi đến độ chỉ muốn làm xong việc để có thể được phép ngủ. Bàn
tay nó tê cứng và thân hình nó thấm đẫm mồ hôi.
Tới ba giờ bốn mươi lăm sáng,
chúng làm xong nhiều rãnh ở sân sau. Đống đất và bụi bẩn trải dài
dọc theo bên cạnh rãnh. Đến lúc này, Phú tin rằng các hào rãnh sẽ
được dùng cho một cái gì đó khác hơn hố để phòng thủ, bởi vì cách
dàn xếp các hào rãnh có vẻ lung tung không theo thứ tự gì. Nó
nghĩ các hào rãnh này được dùng như mộ chôn người. Nhưng cho ai? Nó
không muốn nghĩ đến những người bị kết án tử hình.
Âm thanh của những bước chân từ xa
khiến đám trẻ dừng lại. Một nhóm người đang bước về phía chúng. Phú
nghỉ tay trên xẻng, nhìn chằm chằm vào đám đông đang tới gần. Một
tên VC đội nón lính trong áo sơ mi trắng và quần bộ đội xanh lá
cây xuất hiện; hắn cầm một khẩu AK-47 ngang hông. Phía sau hắn là cả
chục người cả nam lẫn nữ, hộ tống bởi ba tên VC trong bộ đồ bà ba
đen, AK-47 lủng lẳng từ vai. Phú giật mình khi thấy những khuôn mặt
quen thuộc. Các tội nhân bị kết án tử hình. Họ đi một cách khó
khăn. Chỉ tới khi họ đến gần hơn thì Phú mới biết tại sao. Họ bị
trói tay quặt ra sau lưng và bị cột vào nhau thành một chuỗi bằng
các dây điện thoại. Người này sang người khác. Một số bước đi chân
không, một số đi dép.
Phú ngạc nhiên kinh hoàng khi
thấy một ngày đã thay đổi họ như thế nào. Họ đều trông mòn mỏi.
Những miếng giẻ bẩn thỉu nhét ở miệng họ để lại mắt họ là nét
diễn tả duy nhất; những cặp mắt lõm và ngơ ngác biểu lộ không
một sức sống.
Mấy tên VC trong bộ bà ba đen ra
lệnh những người bị bắt trói đứng bên cạnh các rãnh hố. Phú thấy Lan
đứng đó; nàng xanh xao và hốc hác. Cặp mắt bàng hoàng của nàng nhìn
chằm chằm vào một mục tiêu vô hình nào đó.
Mấy tên VC bước trở lại, mặt lạnh lẽo của họ xầm lại. Một tên cầm khẩu AK-47 như thể hắn sắp sửa bắn. Phú run rẩy.
"Tất cả mấy người đã phạm tội ác chống lại nhân dân và cách mạng," tên VC áo trắng tuyên bố.
Tên VC trong bộ bà ba đen giơ súng
và bắn một phát độc nhất vào mặt người đàn ông đứng ở đầu chuỗi
người. Ông ta ngã xuống rãnh, không một tiếng kêu, kéo những người
khác theo với ông. Một người ngã, người kế tiếp ngã theo, và mọi
người còn lại rớt xuống rãnh. Họ gào lên nhưng tiếng la hét của họ bị
bóp nghẹt bởi giẻ trong miệng thành những tiếng ú ớ. Vài người
cố đứng lên nhưng không được vì trọng lượng những người khác.
"Lấp hố, mau!" Tên VC áo trắng quát với đám trẻ.
Phú cứng người. Nó không cử động được. Mấy đứa kia đứng chết sững.
Mấy tên VC chọc AK-47 vào đám trẻ. Tên VC áo trắng quất lưng Phú với báng súng. "Làm đi, nếu không tao bắn!"
"Không," Phú la lên.
Những người nam nữ trong rãnh quằn
quại dữ dội. Một ông đẩy mình lên trên mặt đất tại mép rãnh, hai tay
vẫn bị trói sau lưng, nhưng một tên VC đập đầu ông với báng súng
AK-47. Ông phát ra một tiếng rít ngắn ngủn từ miệng bị bịt và ngã
xuống. Tên VC quay lại và chọc khẩu súng vào một đứa. "Lấp hố!"
Đứa bé lau nước mắt. Nó do dự, sau
đó từ từ xúc đất từ các đống trên mặt đất và hất vào rãnh. Phú,
Duyệt, Huy và mấy đứa khác đứng, nước mắt tràn trụa trên mặt.
Tên VC áo trắng giơ cây AK-47 lên và nhắm vào đầu Phú. "Tao làm thiệt đó, lấp hố!"
Phú nuốt ực. Nó đẩy cái xẻng vào
đống đất mới đào, cầm cán trong một tay và lau nước mắt bằng tay
kia, ấn cạnh xẻng với bàn chân, kéo nó ra với nắm đất, và hất vào
rãnh. Mấy đứa kia làm theo nó. Những khối đất vất lên đầu các nạn
nhân đang lăn lộn lổm ngổm dưới hố. Một số nhìn lên, nhưng phải
quay đầu tránh đất bắn văng tung tóe lên mặt họ. Đất và bụi bẩn chẳng
mấy chốc lấp đầy miệng bị bịt của họ. Một ông cố leo lên bằng đầu
gối, nhưng bị đánh với báng súng và rớt trở xuống.
Lan nằm mẹp dưới hai người đàn
ông. Nàng đá và đẩy họ ra, nhưng họ ngã xuống, lăn đè lên nàng.
Nàng luồn lách dưới sức nặng của những người đàn ông. Nàng nhìn lên.
Mấy miếng vải đen trong miệng chặn tiếng thét của nàng. Mặt nàng
méo mó với đau đớn và kinh hoàng. Tia mắt nàng chạm tia mắt Phú.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, vẻ thê lương trong đôi mắt đẫm lệ của
nàng đâm vào tim nó.
Nó xúc đất giận dữ. Nó nghiến
răng, nắm chặt cán xẻng, xúc vào đống đất, hất đất lên mà không
nhìn. Những nắm đất bay vào rãnh. Mắt nó mờ đi. Tai nó ù lên. Nhưng
nó cứ xúc mạnh và hất.
Một nơi nào đó ở xa xa, một tiếng nổ vang lên trong màn đêm yên tĩnh.
Toàn nghe tiếng nổ. Chắc là đạn súng cối phe địch ở một nơi nào đó phía tây. Anh dừng lại và giơ tay lên. Từ xa, Brad và Jimmy đứng lại, chờ tín hiệu anh. Anh để một phút trôi qua.
Bây giờ là bốn giờ sáng. Đường
phố còn tối, nhưng mặt trời sẽ lên trong khoảng hai tiếng và cổ
thành sẽ bị bắn phá và pháo kích dữ dội. Toàn ra hiệu cho hai anh
thủy quân lục chiến tiếp tục chạy thận trọng về phía tòa nhà bị
quân BV chiếm đóng. Họ vượt qua đường từng người một, cách hai phút.
Nếu kẻ thù thấy bất kỳ một người trong toán họ và bắn, ít nhất hai
người kia sẽ được cảnh báo.
Tòa nhà chỉ khoảng 200 m ở phía
trước. Tối và yên tĩnh. Nhưng Toàn biết hàng chục lính BV vẫn tỉnh táo.
Anh đã ở đó với chúng một đêm và anh biết thói quen chúng.
Trước đó, trung úy Hummel đã chấp
thuận yêu cầu họ để thực hiện nhiệm vụ lẻn vào bên trong tòa nhà để
tiêu diệt các khẩu súng máy đã dí sát lính thủy quân lục chiến tại
vị trí họ cả ngày. Hummel miễn cưỡng về chuyện cho phép sứ mạng,
nhưng sau khi nhìn thấy sự bất hiệu lực của xe tăng và Ontos, anh
không còn sự lựa chọn nào. Yêu cầu lập đi lập lại cho yểm trợ máy
bay và pháo binh đã bị từ chối. Đồng thời, lệnh từ bộ chỉ huy càng
lúc càng nhiều, cấp bách và bó buộc hơn. Lính thủy quân lục chiến
phải chiếm lại tòa nhà càng sớm càng tốt. Các vị tướng rất lo lắng.
Washington không muốn thấy Huế liên tục trên các tiêu đề báo chí và
truyền hình.
Khi Toàn lần đầu tiên nói với Brad
về ý anh xâm nhập vào tòa nhà để tiêu diệt các khẩu súng máy, Brad nghĩ
anh chàng thiếu úy Việt điên rồi.
"Anh đang bị thuốc hành hay sao đó?" Brad hỏi một cách hoài nghi.
"Không, chẳng có chút nào hết. Ngược lại, tôi tỉnh như sáo sậu," Toàn nói một cách bình tĩnh.
"Thế tại sao anh đề nghị tụi mình tự tử?"
"Vẫn tốt hơn là ngồi đây dòm xe
tăng M-48 hoặc Ontos của mình ép qua đường phố chật hẹp và bị nổ
tung lên bởi hỏa tiễn B-40."
"Và anh nghĩ rằng chiến lược kamikaze của anh sẽ thành công?"
"Làm sao nó có thể là một sứ mạng cảm tử khi kế hoạch là mình lẻn vào trong tòa nhà chúng mà chúng không biết?"
"Làm sao mình làm chuyện đó được?"
"Tôi biết một cách bí mật vào bên
trong mà không bị thấy," Toàn nói với một nụ cười tự mãn. "Đừng quên
rằng tôi đã lục lọi tòa nhà đó kỹ lưỡng và tôi ở lại đó một đêm."
"Cách bí mật gì?"
"Có một đường hầm kết nối hệ thống
thoát nước dưới đất ở đường phố đến phòng dịch vụ trong tòa nhà và có
một cầu thang từ phòng dịch vụ lên tới mái nhà."
Brad nhìn Toàn chằm chằm, không biết anh ta đang nói đùa hay thật.
Mặt Toàn trở nên nghiêm trọng. "Tin
tôi đi, Brad. Tôi không biết lý do tại sao có đường hầm ở đó. Tòa
nhà cũ; nó được Pháp xây và Nhật chiếm đóng trong Thế chiến II. Nó có
nhiều lối đi bí mật. Có lẽ đường hầm được dùng là một nơi trú ẩn."
"Và cầu thang?"
"Tôi nghĩ là nó chính yếu được dùng bởi những người bảo trì để có lối đi nhanh lên tới mái nhà."
"OK, tôi tin anh. Nhưng giả sử chúng
ta có thể lên tới mái nhà mà không bị phát hiện, và giả sử chúng ta có
thể giết tất cả mấy tên điều khiển súng máy. Làm sao anh tính ra
khỏi tòa nhà?"
"Cùng lối mình đi vào. Ngay sau
khi mình xong việc, mình sẽ đi ra qua đường hầm và không có cách nào
tụi nó có thể thấy tụi mình."
Nghe có vẻ như cốt truyện của một
tiểu thuyết chiến tranh dở ẹt, nhưng Brad thích chí. Anh và Toàn
nói thêm về kế hoạch và cuối cùng anh bị thuyết phục là chuyện đó có
thể làm được. Cả hai đến gặp Hummel và trình bày ý tưởng. Sau vài
giờ thảo luận qua lại, Hummel cuối cùng đồng ý cho Toàn dẫn Brad và
Jimmy để thực hiện một sứ mạng "không cách đéo nào làm được"-
lời của Hummel - mà anh từng nghe.
Cái lỗ cống dẫn đến đường hầm nằm
trong một ngõ hẻm gần vỉa hè trên đường phía sau tòa nhà địch. Toàn
và hai chiến hữu Mỹ phải đi vòng quanh các khu phố qua một ngõ tắt
để họ có thể đến gần tòa nhà từ phía sau. Ngay cả với ngõ tắt, họ
cũng mất gần một tiếng và bây giờ họ chỉ còn hai trăm mét cách tòa
nhà.
Đường phố hoàn toàn vắng teo. Dân
cư chắc đã chạy ra khỏi khu vực khi cuộc chiến bắt đầu. Toàn khá quen
thuộc với khu phố đặc biệt này vì anh đã đến đây nhiều lần trong
những năm qua. Ngõ hẻm nơi có lỗ cống nằm bên cạnh các cửa hàng tạp
hóa mà anh thường xuyên lui tới mỗi khi đến phần này thành phố. Kẻ thù
không tin rằng họ có thể đến tới tòa nhà từ phía sau. Chúng không
biết rằng có một ngõ tắt tới đây từ các đường ngang qua tòa nhà. Nhưng
tất nhiên, gác canh chúng hoàn toàn thức tỉnh. Ngoại trừ là
chúng không biết gì về đường hầm.
Từ vị trí này trở đi, Toàn không
muốn đi ra ngoài trên đường phố để tránh lộ diện. Trời tối, nhưng kẻ
thù vẫn có thể thấy được những di động. Anh dẫn Brad và Jimmy xuyên
qua những ngôi nhà và các cửa hàng, len lỏi khoảng cách hai trăm mét
qua các ngõ hẻm nhỏ và đường vòng. Chẳng mấy chốc, họ đến lỗ cống.
Nó hoàn toàn được che bởi những bức tường cao cả hai bên mặt ngõ.
Sự im lặng và bóng tối cho Toàn một
cảm giác kỳ lạ. Anh đưa ra dấu hiệu tay để Brad và Jimmy gỡ cái nắp
trên miệng cống. Cái nắp không khóa. Hai anh TQLC dỡ bỏ nắp từ từ
trong khi Toàn đứng canh chừng. Đó là một lỗ cỡ trung bình, vừa đủ
lớn cho một TQLC Mỹ trang bị đầy đủ chui xuống. Toàn đã vẽ một sơ
đồ chỉ cho họ đường hầm. Đường hầm nằm khoảng hai mét từ miệng cống,
một phần ẩn sau một bức tường. Nước thải ở bên trái.
Toàn đi xuống đầu tiên. Anh hạ thấp
người qua lỗ cống, cố gắng giữ chiếc M-16 không chạm vào mép lỗ.
Từng người một, họ hạ xuống từ từ qua lỗ cống. Jimmy là người cuối
cùng. Anh giơ nắp trên đầu và cẩn thận đưa nó xuống vị trí chính xác như
trước.
Một khi trên mặt đất, Toàn thở
phào nhẹ nhõm. Ít nhất họ không phải lo lắng bị quân địch thấy. Anh
bật đèn pin và dẫn hai anh TQLC tới đường hầm. Mặc kệ mùi hôi thối
từ rác rưởi trong nước thải, họ nín thở, bò qua đường hầm trên hai tay
và hai chân trong khi vẫn giữ đồ nghề khỏi mặt đất. Đó là một
chuyến tập dượt đau đớn và mệt mỏi, một chuyện mà họ đã không bao giờ
thực hành trong quá trình huấn luyện quân sự họ.
Sau nửa giờ bò âm thầm trên tay và
đầu gối, họ đến cuối đường hầm. Họ bây giờ ở ngay bên trong bản doanh
đối phương. Toàn ra dấu nghỉ ngơi. Họ ngồi trên mặt đất, nhìn nhau với
vầng trắng quanh mắt trên mặt bôi dầu xám xịt. Họ ngồi im lặng
trong năm phút trong khi tập trung sự chú ý vào âm thanh đến từ trên.
Toàn từ từ đứng dậy và nhòm qua một
khe hẹp giữa hai tảng đá chặn lỗ hổng đường hầm. Phòng dịch vụ tối
đen. Anh nhìn chằm chằm vào bóng tối một lúc để điều chỉnh thị lực. Anh
không thể nhìn thấy toàn bộ phòng, nhưng không có âm thanh, không có
hơi thở đều đặn của một tên lính Bắc Việt đang ngủ.
Anh gật đầu với Brad và hai người
từ từ đẩy những tảng đá sang một bên, để lộ một căn phòng không cửa sổ
trống rỗng, với một cầu thang xoắn ốc trong góc.
Toàn đẩy mình lên và bò ra cửa.
Brad và Jimmy theo. Họ xúm quanh cầu thang. Brad ngạc nhiên vỉ kích
thước nhỏ bé của cầu thang và kiểu hẹp, nó giống như một cầu thang
dành cho con nít trong nhà chơi cho trẻ con. Bậc thang làm bằng
gạch cỡ bàn chân kết nối với nhau bởi hai ống đồng xoắn ốc cuộn lên
và quanh một cột thép thẳng đứng. Toàn đã bảo đảm với Brad là cầu
thang vững chắc và có thể chịu được trọng lượng cả hai người, nhưng
bây giờ anh đối diện nó, anh không chắc chắn làm sao Toàn có thể có
cái ước lượng chuyên môn như vậy. Toàn biết Brad hoài nghi, nhưng anh
không muốn giải thích. Anh chỉ vào đồng hồ, cho biết họ không có nhiều
thì giờ. Brad nhìn Jimmy và nhún vai.
Không có lý do gì để mà do dự
nữa. Họ sẽ phải thử và xem như thế nào. Toàn leo lên đầu tiên, Brad
theo sau. Jimmy ở lại phía sau để phụ sức khi họ rút lui trong trường
hợp quân địch khám phá ra căn phòng dịch vụ. Cầu thang hơi trùng
xuống khi hai người leo lên lúc mới đầu, nhưng nó có vẻ vững
vàng. Nó sẽ dẫn lên mái nhà qua luôn ba tầng. Nó đứng trong một
khoảng trống nhỏ dọc và bị chặn bởi các bức tường ở mỗi tầng. Kẻ thù
không thể nhìn thấy họ, nhưng họ có thể nghe thấy chúng nếu chúng gây
ra tiếng động.
Đó là một chuyến leo lên nhọc
nhằn. Họ leo từng bước một. Ở mỗi bước, họ dừng lại và lắng nghe dấu
hiệu hiện diện của địch. Chung quanh thật yên tĩnh. Có lúc Brad tự
hỏi không biết đám lính BV đã rời khỏi tòa nhà rồi hay không. Tuy
nhiên, khi họ đến gần mái nhà, họ nghe tiếng thì thầm và ngửi mùi khói
thuốc lá. Chắc chắn, có lính BV trên mái nhà.
Cầu thang dẫn đến một khoảng trống
dưới bầu trời. Khi họ leo lên gần hơn, tiếng thì thầm trở thành to
hơn. Toàn bước ra khỏi cầu thang và dán mình vào tường. Có một chỗ
nhỏ cho cả hai người đứng ở rìa mái nhà sau một bức tường. Một cú trượt
và cả hai sẽ lao ba tầng xuống dưới mặt đất.
Họ nín thở, chờ đợi. Mấy tên lính
BV đang nói chuyện và hút thuốc lá. Brad ngửi mùi thơm quen thuộc thuốc
lá Pall Mall. Đám lính BV chắc là đã lấy thuốc lá Mỹ trong tòa
nhà hoặc các cửa hàng trên đường phố. Họ lặng lẽ và từ từ lấy lựu đạn
bằng một tay trong khi tay kia nắm chặt khẩu M-16. Toàn kín đáo
nhìn qua tường vào mái nhà. Anh chìa các ngón tay ra để Brad có thể
thấy số đếm, rồi mở và đóng bàn tay hai lần. Bốn tên lính và hai
súng máy.
Toàn quay lại và đối diện Brad. Anh gật đầu. Đã đến lúc tấn công. Họ đếm nhẩm. Một. Hai. Ba.
Nhanh như chớp, cả hai nhảy ra khỏi
tường và bắn M-16. Brad ném lựu đạn vào toán lính BV. Tiếng nổ xé
toang bầu không khí im lặng. Mấy tên lính BV không có cơ hội.
Cả tòa nhà thức dậy. Đám lính
BV tràn ra sân và nhìn lên mái nhà. Chúng hét lên điên cuồng trong khi
bắn AK-47 lên không. Brad nhẩy tới chiếc súng máy DShK cỡ 0,51, đẩy
tên lính BV ngã trên mặt súng, quỳ xuống và gắn ống đạn. Anh
chỉa khẩu súng máy xuống và bắn không ngừng vào đám lính BV đang
chạy tứ tung trong sân. Bị bất ngờ, chúng không biết tiếng súng từ đâu
và trong phút bối rối ban đầu chúng trở thành mục tiêu dễ dàng.
Toàn phóng tới một súng máy khác,
một khẩu PK làm tại Nga, gắn trên góc mái nhà. Brad nạp lại đạn và
nhìn lên Toàn. Theo những tông phấn màu của ánh nắng trước bình minh,
anh thấy Toàn nhìn lại anh với một biểu hiện lạ trên khuôn mặt anh ta.
Trước khi anh biết chuyện gì xảy ra, Toàn giơ chiếc M-16 của mình và
bắn một tràng. Một tiếng thét phát ra từ phía sau Brad. Anh quay lại
và nhìn thấy khuôn mặt đẫm máu của tên lính BV mới bị bắn trước đó,
nhưng không đủ để giết chết hắn, cho đến bây giờ. Một khẩu súng lục rơi
ra khỏi bàn tay hắn.
Brad mỉm cười và giơ ngón tay cái lên với Toàn. Cảm ơn anh đã cứu tôi. Bây giờ chúng ta huề nhau rồi.
Những bước chân nặng nề kêu vang
vang từ cầu thang chính lên mái nhà. Toàn vội vã trở lại và bắn khẩu
M-16 vào đám lính BV đang chạy tới gần.
"Mình đi đi. Tụi nó biết mình ở đâu rồi," Toàn hét lên.
Brad bắn thêm một loạt đạn và
vội vã trở lại cầu thang ở cạnh mái nhà. Anh quẳng lựu đạn vào khẩu
súng máy và bắn M-16 vào mấy súng đã bị đập nát, hất cả hai cây
súng ra kh̉ỏi mái nhà.
Brad trèo xuống cầu thang trong khi Toàn nạp lại khẩu M-16.
"Toàn, đi, đi," Brad gào lên.
"OK, anh đi trước đi," Toàn hét
lại, trút hết đạn trong chiếc M-16 vào đám lính BV và ném lựu đạn
xuống cầu thang chính. Anh phóng ngược lại bờ mái nhà.
Cầu thang dịch vụ lắc lư dữ dội
khi hai người vội vã leo xuống. Khi họ leo qua mỗi tầng, họ nghe thấy
tiếng bước chạy nặng nề và tiếng la hét cuồng loạn của đám lính BV.
Jimmy đang ngước mặt nhìn họ với
nét mặt lo lắng. Khi họ nhảy xuống, họ phóng qua lỗ hổng đường hầm
và lăn xuống giữa những bước chân rầm rập bên ngoài phòng dịch vụ.
Họ khum người xuống và chạy thật nhanh qua đường hầm. Nón lính họ đập
vào trần đường hầm, nhưng họ tiếp tục chạy. Jimmy bò ngược đầu, canh
chừng quân địch trước khi chạy theo chiến hữu anh. Nỗ lực anh
không cần thiết. Đám lính BV đang bận rộn chạy kiếm chỗ núp và
không quan tâm về một phòng dịch vụ không xài.
Ngay sau khi họ trồi lên khỏi
miệng cống, họ chạy trở lại các ngõ hẻm phía sau các cửa hàng và các
ngôi nhà. Tiếng la hét và đạn bắn từ tòa nhà phai dần, nhưng họ vẫn
tiếp tục chạy. Họ không còn sợ bị kẻ thù nhìn thấy, nhưng họ muốn thoát
ra khỏi tầm bắn của chúng càng sớm càng tốt.
Sau khi qua nhiều khu phố, Toàn
chạy chậm lại. Ngay sau khi anh ném lựu đạn, anh đã cảm thấy một cơn
đau ở bàn tay, nhưng anh không chú ý. Cơn đau bây giờ trở thành không
thể chịu đựng nổi. Anh nhìn xuống và thấy máu chảy ra khỏi bàn tay. Anh
buông cây M-16 nặng nề xuống và lảo đảo.
Brad quay đầu và thấy Toàn ngồi xổm trên mặt đất.
"Anh có sao không?" Anh hét lên.
Toàn không trả lời. Anh vung vẩy tay với nét mặt đau đớn.
Brad quì xuống bên cạnh anh. "Anh có đau không?"
"Tôi không biết."
Jimmy hét lên từ phía sau. "Mình tới đây là an toàn rồi."
Toàn nâng bàn tay lên. Máu bớt
chảy, nhưng một mảnh đạn bị mắc kẹt ở giữa bàn tay anh. Chắc mảnh đạn
đó văng từ lựu đạn anh khi anh ném chúng vào kẻ thù.
Anh lật bàn tay lên. Trong kinh dị, anh thấy mảnh đạn xuyên qua mặt sau bàn tay anh ngay giữa đóa hoa lan xâm trên tay.
Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng anh.
"Lan ơi," anh kêu lên.
danlambaovn.blogspot.com
Cần lưu ý rằng nguồn Internet có thể không vĩnh viễn. Một blog có thể gỡ bỏ bởi tác giả, một bài báo có thể bị xóa, hoặc một Website có thể bị đóng cửa.
TIẾNG
KHÓC VÙI CHÔN -
GHI CHÚ LỊCH SỬ VÀ SỰ KIỆN
Cao-Đắc Tuấn
VỤ thảm sát Huế:
Vụ thảm sát Huế được biết và ghi
nhận nhiều (Chính
1998, 134-137;
Willbanks 2007, 99-103; Vennema 1976; Robbins 2010,
196-208; Oberdorfer 2001, 198-235; Pike 1970, 26-31). Tuy nhiên, mặc cho sự quy
mô và tàn bạo của nó, vụ thảm sát Huế hầu như không được báo cáo ở Hoa Kỳ
vào lúc đó và bây giờ bị quên lãng (Braestrup 1994, 215; Robbins
2010, 196).
Mặc dù chứng cớ đầy rẫy cho một vụ
thảm sát hơn hai ngàn nạn nhân, một vài học giả cãi là không có một cuộc tàn
sát thực sự. D.
Gareth Porter, cùng với đồng nghiệp ông ta, đăng một loạt các bài báo (Porter
1974; Herman và Porter 1975) cáo buộc các cơ quan Nam Việt Nam và Hoa Kỳ bịa
đặt bằng chứng trong báo cáo số người chết trong vụ thảm sát ở Huế năm 1968. Herman và Porter (1975) bác bỏ báo cáo của Douglas Pike về số dân bị giết
bởi Cộng sản và kết luận rằng chữ 'thảm sát' dùng cho sự giết dân Huế của
Cộng sản chỉ là một mưu đồ tuyên truyền lừa đảo (sđd.,
4). Herman và Porter (sđd.)
đồng ý rằng cộng sản có giết một số thường dân trong
lúc họ chiếm đóng Huế, nhưng bày tỏ rằng không có bằng chứng cho thấy họ
hành quyết số lớn. Một nguồn chính yếu mà Herman và Porter dựa vào để
thiết lập lý thuyết họ là báo cáo của bác sĩ Alje Vennema, một bác sĩ Tây phương duy nhất đã xem xét các ngôi mộ, người, theo Herman và Porter,
thấy rằng số nạn nhân trong các chỗ chôn cất bị Mỹ ở
Sài Gòn thổi phồng hơn bảy lần, tổng cộng chỉ có 68 thay vì tuyên bố chính thức
là 477
(sđd., 2). Herman và Porter
xác định thêm rằng theo Vennema, đa
số xác chết mặc quân phục và những vết thương cho thấy rằng họ là nạn nhân của
cuộc chiến
(sđd.). Tuy
nhiên, những chi tiết Vennema cung cấp mâu thuẫn với những gì Herman và Porter
báo cáo. Bác sĩ Alje Vennema, một cảm tình viên phản chiến, trình bày phiên bản
riêng của ông về vụ thảm sát trong sách ông, Sự Thảm Sát tại Huế bởi Việt Cộng, xuất bản năm 1976, một
năm sau bài của Herman và Porter. Trong sách ông, Vennema ghi chi tiết về
vụ
thảm sát. Báo cáo của ông bao gồm chứng kiến của chính
ông về các mộ và các cuộc phỏng vấn các nhân chứng và những người sống sót
khác.
Porter dựa vào Vennema cho kết luận ông ta
rằng chính phủ miền Nam Việt Nam đã thổi phồng số các vụ hành quyết thực sự.
Theo Porter, Vennema "bất chợt ở bệnh viện tỉnh Huế trong cuộc Tổng tấn
công Tết và là người điều tra riêng về các hầm chôn" (Porter 1974, 3).
Vì vậy, báo cáo của Vennema nên tượng trưng cho các báo cáo đáng tin cậy
nhất về những gì đã xảy ra tại Huế và nên là bằng chứng duy nhất đáng tin cậy
nhất. Chúng ta hãy nghe những gì Vennema thực sự nói về vụ thảm sát.
Về các hầm chôn phát hiện và số lượng
xác người, Vennema báo cáo những địa điểm sau đây:
1) Trường trung học Gia Hội (Vennema
1976, 129-131): Tổng số hầm chôn: 14 và thêm một số lượng hầm chôn không rõ.
Tổng số xác chết: 203, gồm cả nam giới (trẻ và già) và phụ nữ. Trong số người
chết là một phụ nữ 26 tuổi "với chân và tay bị trói, một miếng giẻ nhét
vào miệng" và những người "không có vết thương rõ ràng"; một cảnh
sát 42 tuổi người đã bị chôn sống; một phụ nữ báo rao đường 48 tuổi,
"cánh tay bà bị trói và một miếng giẻ nhét vào miệng" và những người
không có vết thương trên cơ thể, có thể là đã bị chôn sống.
2) Chùa Theravada, được gọi là Tăng Quang
Tự (sđd., 131-132): 12 rãnh có 43
xác. Trong số người chết là một thợ may, tay trói và bị bắn xuyên qua đầu, một
số người bị trói tay sau lưng bằng giây thép gai, và một số có miệng nhồi với
giẻ rách. "Tất cả những người chết là nạn nhân bị trả thù và báo
oán" (sđd., 132).
3) Bãi Dâu Con Mo (sđd., 131): 3 rãnh với 26 xác.
4) Đằng sau một chủng viện nhỏ, nơi mà
tòa án tổ chức các phiên xử (sđd.,
133): 2 rãnh với 6 xác (3 người Việt Nam làm việc cho Đại sứ quán Hoa Kỳ, hai
người Mỹ làm việc cho USOM, và một giáo viên trường trung học Pháp nhầm lẫn là
Mỹ ). "Tất cả đều bị trói tay."
5) Quận Tả Ngạn (sđd.): 3 rãnh với 21 thi thể, "tất cả là đàn ông, với hai tay
bị trói, và các lỗ đạn trên đầu và cổ.
6) Năm dặm về phía đông Huế (sđd.): 1 rãnh với 25 xác, tất cả bị bắn
vào đầu, tay bị trói sau lưng.
7) Gần các lăng của hoàng đế Tự Đức và Đồng
Khánh (sđd., 133-135): 20 rãnh với
thêm số lượng rãnh nhỏ không rõ. Tổng cộng có 203 xác được phát hiện. Trong số
người chết là một linh mục Pháp, Cha Urbain, người đã bị trói hai tay và không
có vết thương trên cơ thể, và linh mục khác Pháp, Cha Guy, có một vết thương đạn
trên đầu và cổ. Không có xác phụ nữ và trẻ em nào được tìm thấy, cho biết rằng
"các nạn nhân bị giết tàn nhẫn và không phải trong hoạt động quân sự.
8) Cầu An Ninh (sđd., 135): 1 rãnh với 20 xác.
9) Cửa Đông Ba (sđd., 135): 1 rãnh với 7 xác.
10) Trường tiểu học An Ninh Hạ (sđd., 135): 1 rãnh với 4 xác.
11) Trường Vân Chí (sđd., 136): 1 rãnh với 8
xác.
12) Chợ Thông, một chợ (sđd., 136): 1 rãnh với 102 xác.
"Đa số bị bắn và trói, trong đó có nhiều phụ nữ, nhưng không có trẻ
em."
13) Trên mặt các ngôi mộ lăng hoàng đế
Gia Long (sđd., 136): gần 200 xác đã
được tìm thấy. Một số người có tay "bị trói sau lưng, và họ bị bắn xuyên qua
đầu."
14) Nửa đường giữa chùa Tạ Quang và
chùa Tu Gy Văn, 2,5 km về phía tây nam của Huế (sđd., 137): 4 xác người Đức (3 bác sĩ và một người vợ của bác
sĩ).
15) Đông Gi, 16 km trực tiếp phía đông Huế
(sđd.): 110 xác, tất cả là đàn ông
và "hầu hết bị trói tay và giẻ nhét vào miệng."
16) Làng Vĩnh Thái, làng Phù Lương, và
làng Phú Xuân, khoảng 15 km về phía nam và phía đông nam thành phố (sđd., 137-138): 3 hầm chôn với hơn 800
xác (gồm có 135 ở Vĩnh Thái, 22 Phù Lương, 230 và sau 357 tại Phú Xuân): Hầu
hết là nam giới với một số ít phụ nữ và trẻ em. Trong số người chết là Cha Bửu
Đồng và hai chủng sinh.
17) Làng Thượng Hòa, phía Nam lăng vua
Gia Long (sđd., 139): 1 hầm chôn với
11 xác. "Các xác chết cho thấy cùng một loại vết thương ở đầu và cổ, có
lẽ gây ra do hành quyết."
18) Làng Thủy Thành và Vĩnh Hưng (sđd.): hơn 70 xác, "đa số là nam
giới với một số phụ nữ và trẻ em."
"Có vài người chết có lẽ là trong thời gian chiến tranh vì họ
có nhiều loại vết thương và thân thể bị cắt; những người khác trưng bày vết
thương duy nhất ở đầu và cổ, nạn nhân của hành quyết."
19) Khe Đá Mài (sđd.): 500 sọ. "Trong số rất nhiều những bộ xương có các mảnh
quần áo bình thường, không phải vải kaki màu xanh của đồng phục Bắc Việt hoặc
Việt Cộng. Tất cả các sọ đều trưng bày một vết nứt bị nén của xương
trán giống nhau như là kết quả của một cú đánh với khí cụ nặng."
Danh sách trên của các hầm chôn cho thấy
tổng cộng 19 hầm chôn và khoảng 2307 xác chết. Hầu hết trưng bày những vết
thương gây ra bằng cách hành quyết và không phải bởi kết quả của chiến tranh.
Nhiều người bị trói tay và giẻ nhét vào miệng. Vào cuối tháng 9 năm 1969, hàng
trăm người vẫn còn mất tích (sđd.,
140). Ngoài ra, Vennema lưu ý rằng "Ngoài các hầm chôn tập thể, có
những sự giết người tàn nhẫn riêng rẽ" (sđd., 141).
Porter cố gắng đổ lỗi cho cuộc đánh
nhau dữ dội tại một trong những bãi chôn nơi 22 xác được tìm thấy. Theo ông
ta, "máy bay Mỹ ném bom xuống làng nhiều lần, phá hủy hàng trăm ngôi nhà
và giết thường dân" và "khoảng 250 binh lính cộng sản đã bị giết"
trong trận đánh cả ngày (Porter 1974, 4). Ông ta viết thêm rằng "250 bộ
xương được tìm thấy tại Khe Đá Mai (không phải 400 như lời của Pike) cũng bị
giết trong trận chiến hoặc bởi B-52 Mỹ thả bom" (sđd., 5-6). Tuy nhiên, Vennema (1976, 140) xác định với độ chính
xác của một bác sĩ rằng con lạch chứa 500 sọ người và "kiểm tra hồ sơ của
quân đội Mỹ không tiết lộ bất kỳ hành động quy mô rộng hoặc B-52 thả bom trong
khu vực ngoại trừ một trận đánh gần Lộc Sơn, khoảng 10 km cách khu vực này,
vào cuối tháng Tư năm 1968." Vennema (sđd.)
nói rằng "cho rằng bất kỳ người chết nào do bởi cuộc tấn công B-52 được
vác qua địa hình gồ ghề để được chôn ở suối dường như không hợp lý." Ông
(sđd.) tiếp tục khẳng định rằng
"tất cả các sọ đều trưng bày một vết nứt bị nén của xương trán
giống nhau như là kết quả của một cú đánh với khí cụ nặng" và "các
xương khác không bị vỡ nứt thể hiện bằng chứng của gãy xương mà chắc chắn sẽ
không phải là trường hợp nếu họ đã chết do bởi kết quả của chiến tranh."
Kết luận
của Porter rằng "một số lớn xác phát hiện vào năm 1969 thực ra là
nạn nhân của lực lượng không quân Mỹ và đánh nhau trên bộ hoành hành ở các
thôn chứ không phải là do Việt cộng" (Porter 1974, 6) mâu thuẫn với lời
khai của một bác sĩ nhân chứng mà chính Porter dựa nhiều vào.
Nhiều nguồn khác cung cấp các ước tính phù hợp
với báo cáo của Vennema. Bùi Tín (Bui 2002, 66), một cựu đại tá của quân đội Bắc Việt, xác nhận rằng vụ thảm
sát Huế có xảy ra. Theo ông, Đại tá Lê Minh, trưởng khu an ninh cộng sản
trong cuộc thảm sát Huế năm 1968, ước tính số người chết là 2.000, nhưng ông
nói thêm rằng con số đó có thể thấp. Các ước tính
khác báo cáo 2.500 đến 3.500, đa số là thường dân hoặc gia đình các viên chức
chính quyền Sài Gòn (Prados 2009, 240; Hammel 2007, 159); 2.800 bao gồm cả viên
chức chính phủ, chiến sĩ, giáo viên, linh mục, trí thức và các người phản
động khác, và thường dân không may mắn, với một số nạn nhân bị bắn, đập chết,
và thiêu sống (Braestrup 1994, 215; Isaacs
1984, 360; Oberdorfer 2001, 232; Pike 1970, 30-31). Woodruff (2005, 244) cho
biết tổng số 2.810 xác dần dần được tìm thấy trong những mổ tập thể nông
vào giữa những năm 1970. Ngoài ra, 1.946 người vẫn còn mất tích Những con số
này có vẻ được lấy từ bài chuyên khảo của Pike (Pike 1970, 30-31). Một tài
liệu, tuyên bố là lấy được từ Cộng sản, báo cáo số nạn nhân bao gồm 1.892
nhân viên hành chính, 38 cảnh sát, 790 tên bạo ác, 6 đại úy, 2 trung úy, 20
thiếu úy và nhiều hạ sĩ quan (Woodruff 2005, 244;
Willbanks 2007, 101).
Trong khi chắc chắn rằng Hồ chấp thuận, mặc dù có thể
chỉ trên
hình thức, quyết định khởi động cuộc tổng nổi dậy (Duiker
2000, 557), không rõ là ông ta có đặc biệt thông qua kế hoạch dùng bạo lực cách mạng trên dân Huế. Theo Bùi Tín (Bui 2002, 68), cuộc thảm sát xảy ra vì quân đội Bắc Việt trở thành cuồng loạn,
và bị mất hướng - và mất cả nhân tính. Bùi Tín (sđd., 67) khẳng định rằng không có lệnh từ cấp trên đòi hỏi tiêu
diệt cả tù binh hay thường dân. Theo Trương Như Tảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Cộng, Huỳnh
Tấn Phát, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng sản (Provisional
Revolutionary Government - PRG), nói rằng hoàn toàn không có chính sách hay chỉ
thị của Mặt trận để thực hiện bất cứ vụ thảm sát nào, nhưng Tảng thể hiện rằng ông không thấy điều giải thích này đặc biệt
thỏa đáng (Truong 1986, 154). Tuy nhiên cả Bùi Tín lẫn Trương Như Tảng có vẻ không biết đến tòa án nhân dân và những bản án tử hình giao xuống các nạn nhân. Tính
chất của việc chuẩn bị cho các vụ thảm sát, gồm chuyện tập hợp dân chúng từ
các danh sách đen và sự tổ chức tòa án nhân dân, rõ ràng
cho thấy vụ thảm sát là một hoạt động có dự tính với những mục đích chính
xác và rõ rệt, ra lệnh từ, và được hỗ trợ bởi, chỉ huy cao cấp của Bộ
Chính trị Hà Nội (Robbins 2010, 196; Oberdorfer 2001, 232; Vennema 1976, 183),
hoặc ít nhất là Hồ có thể đoán trước và mong muốn (Hubbell 1968, 67). Vennema
(1976, 184) lưu ý rằng kích động khủng bố là quan trọng với Đảng cộng sản và
các thành viên cộng sản không thể kềm hãm được. Robbins (2010, 208) ghi rằng vụ thảm sát Huế không phải là một hành động tự phát của sự quá
đáng mà là một thực hiện tàn nhẫn của chính sách cộng sản Bắc Việt.
Báo cáo về các cuộc tàn sát và sự
hiện hữu của tòa án nhân dân được nhiều nhân chứng tường thuật (Robbins
2010, 198; Vennema 1976, 94) Trong một báo cáo, Phan Văn Tuấn, lúc đó 16 tuổi,
bị bắt bởi VC và bị ra lệnh đào mồ chôn sống một số nạn nhân. Ông mô tả
kinh nghiệm của mình trong một cuộc phỏng vấn (Vimeo 2008). Trong một báo cáo
khác, bà Nguyễn Thị Thái Hòa kể lại chuyện bà chứng kiến Hoàng
Phủ Ngọc Phan, em trai của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giết tàn nhẫn anh
bà (DLB 2013). Bà cũng mô tả vụ Nguyễn thị Đoan Trinh sát hại các nạn
nhân vô tội. Theo nhiều nguồn tin, một tòa án ngoài trời được chủ trì bởi
Hoàng Phủ Ngọc Tường tại trường Gia Hội ở Quận II, là một quan tòa để ra án tử
hình cho 203 người (Vennema 1976, 94). Một người, Nguyễn Đắc Xuân, cũng tham gia
vào việc giết các nạn nhân vô tội. Tường, Phan, Đoan Trinh, và Xuân là phần một
lực lượng chính trị được tổ chức trong lúc Cộng sản chiếm đóng tạm thời một phần
của Huế. Lực lượng chính trị này được gọi là Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa
bình
(Chính
1998, 131-132). Một số nạn nhân bị bắn tàn nhẫn, đôi khi với tội phạm
tầm thường (Vennema 1976, 94). Tòa án tại Gia Hội được biết bởi các cư dân địa
phương, những người ẩn núp sau khi ra tòa lần đầu và sau đó sống sót, hoặc
trốn thoát (sđd.). Sau phiên toà này,
toàn bộ trường học cuối cùng mang lại 203 thi thể của các thanh niên trẻ, những
người đàn ông lớn tuổi, và phụ nữ (sđd.).
Cũng nên lưu ý rằng Gia Hội không phải là nơi duy nhất mà một tòa án được tổ
chức. Các cuộc xử tòa ngoài trời khác được thực hiện dưới danh nghĩa nhân
dân và cách mạng,
nơi mà lời tuyên án và bản án được những người không có
quyền hạn pháp luật đưa ra (sđd., 185). Thông thường, một cán bộ chủ trì làm quan tòa, và cũng là luật sư, công tố viên, bồi thẩm đoàn,
và người hành quyết (sđd.).
Trận chiến tại thành Huế:
Trận chiến tại Huế được các tác giả Mỹ
mô tả rộng lớn. Các quy luật tham chiến mà không cho phép dùng không lực gây ra rất nhiều phẫn nộ cho Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ
(Nolan 1996, 140; Warr 1988, 100-102, 123, 125). Hỗ trợ máy bay không được
cung cấp cho đến sau này trong trận (Warr 1988, 153).
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM CHIẾU
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
Braestrup, Peter. 1994. Big Story – How the American Press and
Television Reported and Interpreted the Crisis of Tet 1968 in Vietnam and
Washington. Abridged Edition. Presidio Press, California, U.S.A.
Bui Tin. 2002. From Enemy to
Friend, A North Vietnamese Perspective on the War, Naval Institute Press,
Maryland, U.S.A.
Chính Đạo. 1998. Mậu Thân 68: Thắng Hay Bại (Tet
Offensive 68: Victory or Defeat). Tái bản có bổ sung (Reprinted with
supplements). Văn Hóa, Houston, Texas, U.S.A.
Duiker, William J. 2000. Ho
Chi Minh: A Life. Hyperion, New York, U.S.A.
Hammel, Eric. 2007. Marines in Hue City: A Portrait of Urban Combat, Tet 1968, Zenith
Press, Minnesota, U.S.A.
Herman, Edward and D. Gareth Porter. 1975. The Myth of the Hue Massacre, Ramparts, Vol. 13, No. 8, May-June.
Hubbell, John G. 1968. The
Blood-Red Hands of Ho Chi Minh. Reader’s Digest, November 1968, 61-67.
Isaacs, Arnold R. 1984. Without Honor: Defeat in Vietnam &
Cambodia, Vintage Books, New York, U.S.A.
Nolan, Keith William.
1996. Battle for Hue: Tet 1968. Presidio
Press, California, U.S.A.
Oberdorfer, Don. 2001. Tet! The
Turning Point in the Vietnam War, The Johns Hopkins University Press,
Maryland, U.S.A.
Pike, Douglas. 1986. PAVN – People’s Army of Vietnam. Da Capo
Press, New York, U.S.A.
Prados, John. 2009. Vietnam: The History of an Unwinnable War,
1945-1975, University Press of Kansas, Kansas, U.S.A.
Robbins, James S. 2010. This Time
We Win: Revisiting the Tet Offensive, Encounter Books, New York, U.S.A.
Truong Nhu Tang (with David Chanoff and Doan Van Toai). 1986. A Viet Cong Memoir: An Inside Account of the
Vietnam War and Its Aftermath, Random House, Inc., New York, U.S.A.
Vennema, Alje. 1976. The Viet Cong
Massacre at Hue, Vantage Press, New York, U.S.A., 1976.
Warr, Nicholas. 1988. Phase
Line Green: The Battle for Hue, 1968, US Naval Institute Press, U.S.A.
Willbanks, James H.
2007. The Tet Offensive: A Concise
History, Columbia University Press, New York, U.S.A.
Woodruff, Mark W. 2005. Unheralded Victory: The Defeat of the Viet
Cong and the North Vietnamese Army, 1961-1973, Presidio Press, New York,
U.S.A. 2005.
NGUỒN INTERNET
Cần lưu ý rằng nguồn Internet có thể không vĩnh viễn. Một blog có thể gỡ bỏ bởi tác giả, một bài báo có thể bị xóa, hoặc một Website có thể bị đóng cửa.
DLB (Dân Làm Báo). 2013. Mậu Thân Huế - Câu Chuyện Của Nguyễn Thị Thái Hòa (The Year of the Monkey at Huế – Story of Nguyễn Thị Thái Hòa)
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/01/mau-than-hue-cau-chuyen-cua-nguyen-thi.html
(accessed September 29, 2013).
Porter, Gareth D. 1974. The
1968 ‘Hue Massacre.’ Indochina Chronicle, No. 33, June 24, 1974, pp 2-13. http://msuweb.montclair.edu/~furrg/Vietnam/porterhueic74.pdf (accessed September 29, 2013).
Vimeo. 2008. Nam
Dao pv Phan Van Tuan: Mau Than - Anh Con Nho Hay Anh Da Quen (Nam Dao
interviewing Phan Van Tuan: The Year of the Monkey - Do you still remember or
do you forget). http://vimeo.com/9093448 (accessed September 30, 2013).
TÊN NHÂN VẬT VÀ CÁC TÊN KHÁC
Hai: (hư cấu) Một người bị bắt bởi VC và quân BV trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.
Lê Minh: Trưởng An ninh của cộng sản trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.
Lê Thị Trang Tiết: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia trong vụ thảm sát Huế 1968. Dựa vào nhân vật có thật Nguyễn Thị Đoan Trinh, người cáo buộc là sát thủ của nhiều thường dân Huế vô tội.
Liên minh Nhân dân Dân chủ và Hòa Bình: Một liên minh được thành lập bởi những người Cộng sản trong cuộc tổng tấn công Tết tại Huế trong năm 1968.
Lộc: (hư cấu) bị giam cầm bởi VC và quân Bắc Việt trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.
Mai Dinh Châu Cát: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia vụ thảm sát Huế năm 1968. Dựa vào nhân vật có thật Hoàng Phủ Ngọc Tường, kẻ bị cho là chủ tịch Tòa án nhân dân tại trường trung học Gia Hội đã kết án 204 thường dân vô tội với án tử hình và ra lệnh chôn sống nạn nhân trong sân trường.
Miller, Brad: (hư cấu) Hạ sĩ (1968), Đại đội Hotel, Tiểu đoàn 1, Thủy quân lục chiến (trung đoàn) 5, bạn của Trần Ngọc Toàn (hư cấu).
Nguyễn Đức Thắng: (hư cấu) Một nạn nhân bị kết án tử hình trong Toà án Nhân dân trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.
Phạm Đình Phú: (hư cấu): Một học sinh trường trung học Trần Hưng Đạo (hư cấu), bị kết án lao động trong Toà án nhân dân trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.
Trần Ngọc Toàn: (hư cấu): Thiếu úy (1968), Đại úy (1975), Sư Đoàn 1 QLVNCH. Một trong những thuyền nhân năm 1980, chồng của Liên, cha của Trần Ngọc Kiệt (hư cấu), Ông nội của Madeline (Mê Linh) Trần và Melanie Trần.
Trần Thất Thu: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia vụ thảm sát Huế 1968. Dựa vào các nhân vật có thật Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan, bị coi là sát thủ nhiều thường dân Huế vô tội.
Trần Văn Duyệt: (hư cấu) Một học sinh 16 tuổi, bị kết án lao động tại Toà án nhân dân trong vụ thảm sát Huế năm 1968.
Việt Cộng: VC. Một tổ chức quân đội cộng sản miền Nam Việt Nam. Chiến đấu chống Hoa Kỳ và chính phủ miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam (1959-1975).
Vũ Tấn Phong: (hư cấu) Một sinh viên chống cộng tại Đại học Huế, bị giết bởi Trần Thất Thu (hư cấu) năm 1968.
Vũ Thị Lan: (hư cấu) Một sinh viên tại Đại học Huế, bạn gái của Trần Ngọc Toàn (hư cấu), em gái Vũ Tấn Phong (hư cấu). Cô là một trong những nạn nhân bị chôn sống trong vụ thảm sát Huế năm 1968.
© 2014 Cao-Đắc Tuấn
Lê Minh: Trưởng An ninh của cộng sản trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.
Lê Thị Trang Tiết: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia trong vụ thảm sát Huế 1968. Dựa vào nhân vật có thật Nguyễn Thị Đoan Trinh, người cáo buộc là sát thủ của nhiều thường dân Huế vô tội.
Liên minh Nhân dân Dân chủ và Hòa Bình: Một liên minh được thành lập bởi những người Cộng sản trong cuộc tổng tấn công Tết tại Huế trong năm 1968.
Lộc: (hư cấu) bị giam cầm bởi VC và quân Bắc Việt trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.
Mai Dinh Châu Cát: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia vụ thảm sát Huế năm 1968. Dựa vào nhân vật có thật Hoàng Phủ Ngọc Tường, kẻ bị cho là chủ tịch Tòa án nhân dân tại trường trung học Gia Hội đã kết án 204 thường dân vô tội với án tử hình và ra lệnh chôn sống nạn nhân trong sân trường.
Miller, Brad: (hư cấu) Hạ sĩ (1968), Đại đội Hotel, Tiểu đoàn 1, Thủy quân lục chiến (trung đoàn) 5, bạn của Trần Ngọc Toàn (hư cấu).
Nguyễn Đức Thắng: (hư cấu) Một nạn nhân bị kết án tử hình trong Toà án Nhân dân trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.
Phạm Đình Phú: (hư cấu): Một học sinh trường trung học Trần Hưng Đạo (hư cấu), bị kết án lao động trong Toà án nhân dân trong cuộc thảm sát Huế năm 1968.
Trần Ngọc Toàn: (hư cấu): Thiếu úy (1968), Đại úy (1975), Sư Đoàn 1 QLVNCH. Một trong những thuyền nhân năm 1980, chồng của Liên, cha của Trần Ngọc Kiệt (hư cấu), Ông nội của Madeline (Mê Linh) Trần và Melanie Trần.
Trần Thất Thu: (hư cấu) Một đặc công Việt Cộng nằm vùng tham gia vụ thảm sát Huế 1968. Dựa vào các nhân vật có thật Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan, bị coi là sát thủ nhiều thường dân Huế vô tội.
Trần Văn Duyệt: (hư cấu) Một học sinh 16 tuổi, bị kết án lao động tại Toà án nhân dân trong vụ thảm sát Huế năm 1968.
Việt Cộng: VC. Một tổ chức quân đội cộng sản miền Nam Việt Nam. Chiến đấu chống Hoa Kỳ và chính phủ miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam (1959-1975).
Vũ Tấn Phong: (hư cấu) Một sinh viên chống cộng tại Đại học Huế, bị giết bởi Trần Thất Thu (hư cấu) năm 1968.
Vũ Thị Lan: (hư cấu) Một sinh viên tại Đại học Huế, bạn gái của Trần Ngọc Toàn (hư cấu), em gái Vũ Tấn Phong (hư cấu). Cô là một trong những nạn nhân bị chôn sống trong vụ thảm sát Huế năm 1968.
© 2014 Cao-Đắc Tuấn
0 comments:
Post a Comment