Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc
Lời
tác giả: Nhân dịp một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 sắp
được tổ chức tại hai toà soạn hai nhật báo Người Việt và Việt Báo tại
California trong hai ngày 6 và 7 tháng 12, 2014, tôi xin đăng lại một
đoạn trong cuốn Văn học Việt Nam dưới chế độ Cộng sản 1945-1990 để quý
bạn đọc thấy được số phận bi thảm của văn học miền Nam sau năm 1975.
***
Tháng 4.1975, chế độ Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ. Đảng Cộng sản nắm chính quyền trong cả nước.
Chính
sách có tính chất “chuyên chính vô sản” đầu tiên được áp dụng tại miền
Nam là nhắm vào văn hoá, văn học miền Nam trước 1975.
Trước
khi chủ trương bắt các sĩ quan và các công chức trung, cao cấp thuộc
chính quyền cũ đi học tập cải tạo, trước khi tung ra chiến dịch đánh tư
sản mại bản tại các thành phố lớn miền Nam, cộng sản, ngay từ tháng 3 và
tháng 4.1975, chiếm được địa phương nào, đã tức khắc ra lệnh đóng cửa
toàn bộ các cơ sở sinh hoạt văn học nghệ thuật, từ báo chí đến nhà xuất
bản, nhà phát hành và các hiệu sách, đã ra lệnh cho dân chúng phải tiêu
huỷ toàn bộ dấu vết của nền văn học nghệ thuật miền Nam. Trong lúc vẫn
tiếp tục duy trì nền kinh tế năm thành phần thì cộng sản chỉ chấp nhận
một thành phần văn học duy nhất: thành phần văn học hiện thực xã hội chủ
nghĩa, chịu sự thống trị tuyệt đối của đảng.
Mà
thật ra, không phải đợi đến tháng 4.1975, ngay trước đó nữa, từ những
năm đầu tiên của thập niên 1960, ở miền Bắc, cộng sản đã có ý đồ huỷ
diệt văn học miền Nam bằng hai biện pháp: một là chụp mũ nền văn học
miền Nam là “văn học thực dân mới” để qua đó, xoá bỏ vị trí uy nghi của
nó trong tiến trình văn học dân tộc, hai là, ngụy tạo ra cái gọi là “văn
học giải phóng miền Nam Việt Nam” với những người cầm bút ở miền Bắc
được lén lút đưa dần vào miền Nam, ẩn náu trong rừng núi, bưng biền, tự
xưng là nói lên những tiếng nói tâm huyết nhất của đồng bào miền Nam.
Phụ
hoạ với hai biện pháp trên, báo chí miền Bắc không ngớt vu khống, xuyên
tạc văn học miền Nam. Theo Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, trong quyển Nhà
văn Việt nam, tập 1, từ năm 1954 đến 1975, không kể các bài phát trên
sóng của đài Tiếng nói Việt Nam, chỉ tính riêng trên các tạp chí và tuần
báo lớn tại Hà Nội như Học Tập, Thống Nhất, Nghiên cứu nghệ thuật, Văn
Nghệ, Tạp Chí Văn Học... đã có tới 286 bài viết thực hiện âm mưu này
(tr. 305).
Sau
năm 1975, chiếm được miền Nam, mức độ chống phá văn học miền Nam của
đảng Cộng sản ngày càng gia tăng với một quy mô rộng khắp và với một mức
độ vô cùng dữ dội. Không có cuộc Đại hội đảng nào, cộng sản lại không
nêu việc xoá bỏ văn học nghệ thuật miền Nam lên thành một nhiệm vụ chính
trị khẩn cấp. Báo cáo tại kỳ họp Quốc hội khoá 5, Lê Duẩn chỉ thị: “Sau
ngày giải phóng, nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những
dấu vết và di hại của thứ văn hoá ấy. Công việc này cần được tiếp tục
một cách kiên trì, tích cực và triệt để”.
Để
chống lại ảnh hưởng của nền văn học miền Nam trước đây, cộng sản sử
dụng cùng lúc hai biện pháp chính: tuyên truyền và khủng bố.
Chưa
có ai thống kê thử số lượng những bài báo nhằm bôi nhọ văn học miền Nam
từ năm 1975 đến nay là bao nhiêu. Chắc chắn là không ít hơn con số 286
bài viết mà Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức đã nêu ra trong thời kỳ 1954-1975.
Có những tờ báo và những tạp chí dành hẳn một số đặc biệt về chủ đề phê
phán văn học miền Nam như Đại Đoàn Kết số ra ngày 21.7.1977, Nghiên cứu
Nghệ thuật số 3.1977, tạp chí Văn Học số 4.1977… Rồi còn sách nữa. Sách
của một người và sách của nhiều người. Sách chửi bới một cách không
khống hồ đồ và sách giả vờ nghiên cứu một cách khệnh khạng, trịch
thượng. Thuộc loại này, đến nay (1990), có cả thảy mười một “tác phẩm”
đã được xuất bản: một, Văn hoá văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ Ngụy
(hai tập) của các tác giả: Phong Hiền, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Hoa
Lục Bình (1977); hai, Tiếp tục đấu tranh xoá bỏ tàn dư văn hoá mới của
Hà Xuân Trường (1979); ba, Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân
mới trên mặt trận văn hoá, tư tưởng của các tác giả: Trần Văn Giàu,
Nguyễn Huy Khánh, Vũ Hạnh, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phong Hiền, Phan
Đắc Lập, Bùi Công Hùng (1980); bốn, Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng
của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Namcủa Lữ Phương (1981); năm, Nọc độc
văn học thực dân mới của Trần Trọng Đăng Đàn (1983); sáu, Nọc độc văn
hoá nô dịch của Chính Nghĩa (?); bảy, Những tên biệt kích cầm bút của
nhà xuất bản Công an Hà Nội (1986); tám, Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời
Mỹ Ngụy của Lê Đình Kỵ (1987); chín, Lại bàn về nọc độc văn học thực
dân mới Mỹ của Trần Trọng Đăng Đàn (1987); mười, Văn học thực dân mới Mỹ
ở miền Nam những năm 1954-1975 (tập 1) của Trần Trọng Đăng Đàn (1988);
và mười một, Văn hoá văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam
Việt Nam cũng của Trần Trọng Đăng Đàn (1990).
Trong
hầu hết những bài báo và những quyển sách kể trên, cộng sản đều sử dụng
một thủ đoạn bất lương quen thuộc: vu khống. Vu khống những tác giả
chống cộng là CIA. Vu khống những người chuyên viết về các chuyện tình
cảm nhẹ nhàng là “trụy lạc”. Vu khống cả những người chỉ biết mải mê làm
văn chương thuần tuý là “tâm lý chiến”. Với cộng sản, tất cả những gì
nằm ngoài quỹ đạo thống trị của cộng sản đều là “phản động” và đáng bị
lên án. Luận điệu sau đây rất tiêu biểu: “…các loại sách truyền bá chủ
thuyết hiện sinh, hư vô chủ nghĩa, kích động dục tình, tuy bề ngoài
không phát ngôn quan điểm chính thức của Mỹ và chính quyền Sài Gòn,
nhưng thực chất thuộc hệ tư tưởng của chủ nghĩa thực dân mới, phục vụ
cho âm mưu của chính trị và tư tưởng phản động của Mỹ và tay sai”. (Sài
Gòn Giải phóng ngày 15-2-1987).
Song
song với các hoạt động tuyên truyền mà bản chất là vu khống và xuyên
tạc, cộng sản còn huy động công an và thanh niên xung phong đi lùng sục
tịch thu sách báo cũ, bắt bớ những người lưu hành sách báo cũ. Ngày 20
tháng 8.1975, Bộ Thông tin Văn hoá của cộng sản miền Nam Việt Nam ra
thông tri số 218/CT.75 về việc cấm lưu hành cách “loại sách phản động về
chính trị và loại sách dâm ô”. Ngày 8.3.1976, cũng cái Bộ Thông tin Văn
hoá ấy lại tiếp tục ra tiếp thông tri số 15 nhắc lại lệnh cấm trên.
Riêng tại Sài Gòn, tháng 5.1977, Sở Văn hoá Thông tin ra thông tri số
1230/STTVH/XB yêu cầu dân chúng hoặc phải tiêu huỷ hoặc phải giao nộp
toàn bộ các ấn phẩm văn hoá của chế độ cũ. Mỗi bản thông tri trên đều
được đính kèm một danh sách dài ngoằng những tác phẩm bị kết tội là
“phản động” và “dâm ô”. Cả bản thông tri lẫn bản danh mục đều được đăng
tải rộng rãi trên báo chí trong nước. Riêng bản danh mục thì sau này
được bổ sung và tập họp thành một quyển sách khổ lớn, dày cộm, nhan đề
là Danh mục những sách cấm lưu hành được bày bán khắp các hiệu sách
trong nước.
Sau
mỗi bản thông tri, hầu như là một quy luật, cộng sản lại mở chiến dịch
truy quét văn hoá phẩm một cách rầm rộ. Công an bủa giăng đầy các đường
phố để chận bắt những người lén lút mua bán sách báo cũ. Công an xông
vào tận nhà dân chúng, lục lọi khắp nơi để tìm kiếm và tịch thu sách
báo cũ. Cho đến nay, cộng sản đã mở ít nhất năm chiến dịch truy quét lớn
như thế vào các thời điểm: cuối năm 1975, đầu năm 1976, giữa năm 1977,
giữa năm 1981 và giữa năm 1985.
Việc
tàng trữ và lưu hành các sách báo cũ bị xem là một “trọng tội” trước
pháp luật nhà nước. Trong bộ Luật hình sự do cộng sản công bố, đăng trên
báo Nhân dân từ ngày 12 đến ngày 17.7.1985, điều 82 dưới danh xưng “Tội
tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa”, thuộc mục A, chương I,
phần “Các tội phạm” ghi rõ:
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống chính quyền nhân dân thì bị phạt từ 3 năm đến 12 năm:
a/ Tuyên truyền xuyên tạc chế độ xã hội chủ nghĩa.
b/ Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân.
c/ Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
Cũng trong phần Các tội phạm, điều 99 dưới danh xưng “Tội truyền bá văn hoá đồi trụy”, mục B, chương I, ghi rõ:
1.
Người nào làm ra, sao chép, lưu hành, tàng trữ, nhằm phổ biến sách,
báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những phẩm vật khác có tính chất đồi
trụy cũng như có hành vi khác truyền bá văn hoá đồi trụy thì bị phạt tù
từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm:
a/ Có tổ chức.
b/ Vật phạm pháp có số lượng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.
c/ Tái phạm nguy hiểm.
b/ Vật phạm pháp có số lượng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.
c/ Tái phạm nguy hiểm.
Không
phải chỉ đe dọa suông. Trong những năm 1980, 1981 cộng sản đã truy tố
trước toà án nhiều người buôn bán sách báo cũ, trong đó, gây xôn xao
trong dư luận nhất là vụ án Vinh Sử và Bùi Đình Hà bị kết tội 20 năm tù
giam tại Sài Gòn.
Tịch
thu sách báo cũ. Bắt bớ những người lưu hành sách báo cũ. Chưa hết. Từ
năm 1975 đến nay, cộng sản còn tung ra nhiều chiến dịch khủng bố tàn
khốc nhắm vào những văn nghệ sĩ cũ của miền Nam. Cơ man những người bị
bắt, bị đày ải trong các nhà tù, các trại cải tạo. Năm 1978, sau nhiều
năm tháng điều tra, tạp chí Quê Mẹ tại Paris đã công bố bản danh sách
163 văn nghệ sĩ miền Nam bị cộng sản giam giữ trong các trại cải tạo.
Báo
Express số ra ngày 12.8.1978, đã đăng tải đầy đủ tên tuổi 130 văn nghệ
sĩ trong số 163 văn nghệ sĩ nạn nhân của chính sách trả thù của cộng
sản. Ngày 30.4.1980, trong một cuộc họp báo tại Paris, tạp chí Quê Mẹ
lại cung cấp thêm danh sách 40 văn nghệ sĩ mới bị bắt hoặc bị bắt lại
trong năm 1980.
Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc
Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc
0 comments:
Post a Comment