Ba Mươi Tháng Tư này là Ba Mươi Tháng Tư thứ ba mươi tám. Ba mươi tám năm một niềm tin và hy vọng. Hy vọng vươn lên từ cuộc hành trình đầy gian khổ nhưng nhiều vinh quang của người Việt tỵ nạn CS.
Các cơ quan đoàn thể chánh trị, văn hóa, xã hội, và truyền thông đại chúng của người Việt Hải Ngoại ở Âu, Mỹ, Úc châu từ cả tháng nay đã chuẩn bị tổ chức kỷ niệm một cách long trọng. Ba mươi tám năm trên ba triệu người Việt đã gạt nước mắt rời bỏ quê nhà ra đi tỵ nạn CS trên 60 quốc gia, trải rộng khắp năm châu, bốn biển. Ba mươi tám năm Quốc Hận, nước mất nhà tan, tương lai, sự nghiệp bị CS tước đoạt, người dân Việt không bị CS bỏ tù trong nhà tù lớn là xã hội VN thì cũng bị CS nhốt trong các trại tù biệt giam, kiên giam, lao động khổ sai, biệt xứ.
Suốt 38 năm qua, người Việt tỵ nạn CS dưới mọi hình thức trong thế giới Tự do đồng loạt, đồng lòng tổ chức ngày Ba Mươi Tháng Tư thật lớn. Người Việt tỵ nạn CS, cả ba thế hệ – thế hệ thứ nhứt, một rưỡi, và thứ hai — chụm lại thành một cuộc hành trình đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang với hy vọng vươn lên lớn mạnh thấy rõ.
Cuộc hành trình đầy gian khổ này trải qua 8 giai đoạn: Di tản, Vượt biên, ODP, Đi bán chánh thức HO, Con cái HO, Hồi Hương. Nó gồm máu, nước mắt, mồ hôi, vui buồn, vinh nhục, sướng khổ, thành bại của ba thế hệ, là sự nghiệp chung và lớn của quần chúng, là giai đoạn lịch sử bi hùng của dân tộc Việt. Ông Trời cũng không thể đổi thay sự kiện lịch sử này. CS không thể và không bao giờ chối bỏ được. Việt Cộng ban đầu xem người “vượt biên” là “tội phản quốc, phản động, phản cách mạng” và chỉ một hai thập niên sau phải gọi là “khúc ruột ngàn dặm của quê hương, Việt Kiều yêu nước” để dụ dổ đem tiền và kiến thức, kinh nghiệm VC gọi là “chất xám” để phục vụ quên hương mà CS đang làm chủ.
Cho đến bây giờ đó là cuộc di tản vô tiền khoáng hậu trong lịch sử VN và thế giới. Tổng số sống trên ba triệu và chết không dưới một phần ba. Theo lượng định của Phủ Cao ủy Người Tỵ nạn của Liên Hiệp Quốc, có bao nhiêu thuyền nhân (boatpeople) đến được bến bờ tự do thì có bao nhiêu người chết dưới biển. Máu, nước mắt, mồ hôi, gian nguy, khó khổ, số người, và dặm đường nhiều, đông hơn, nhiều hơn, xa đa dạng hơn cuộc di tản của dân Do Thái ra khỏi Cổ Ai Cập, trước Chúa Ky tô giáng sinh. Một cuộc di tản sau này trở thành linh hồn của văn minh Tây Phương với cỗ sử, niềm tin, và hy vọng của người Do Thái được đúc kết trong Kinh Cựu Ước và được chấp nhận như một phần quan trọng của Thánh Kinh (Bilbe) của Ky Tô Giáo.
Ba mươi tám năm cuộc di tản của người Việt đã làm lương tâm Nhân Loại chấn động, Cộng đồng thế giới bàng hoàng. Liên Hiệp Quốc xem công tác giúp người Việt vượt biên, ra đi trong vòng trật tự là một công tác lớn nhứt thế kỷ của mình. Hầu hết các siêu cường trên thế giới, đặc biệt thuộc văn minh Tây Phương đều có nhận cho người Việt tỵ nạn CS đến định cư. Nước Mỹ là nước dang tay ra đón người Việt tỵ nạn CS nhiều nhứt. Trong thế giới sử, chưa có một nước đồng minh nào như Mỹ, sau 38 năm chiến tranh chấm dứt mà còn cứu khổn phò nguy, cho định cư những đồng đội, đồng minh và gia đình sa cơ thất thế.
Nhưng ba mươi tám năm cuộc hành trình ấy cũng đầy vinh quang, làm vẻ vang dân Việt. Một dân tộc VN yêu tự do, dân chủ, xây dựng nhân quyền đã rõ rệt trưởng thành trong lòng văn minh Tây Phương, trải dài từ Tây Âu, sang Bắc Mỹ, xuống Úc Châu. Một VN Hải Ngoại (Việt Nam D’Outre Mer) đã thành hình, như một nước Pháp Hải Ngoại (France d’ Outre-Mer) trong thời Đức Quốc Xã tạm chiếm nước Pháp, đã đấu tranh đem lại tự do, dân chủ cho nước nhà.
Về chánh trị, thế quốc tế của VN Hải Ngoại mạnh hơn của chế độ CS Hà nội vì CS Hà Nội chiếm được lãnh thổ, cướp được chánh quyền, mà không lãnh đạo được nhân dân, thống nhứt được non sông mà không thống nhứt được dân tộc. Quốc Hội Liên Âu, Mỹ, Úc, trái tim của nhân dân và chánh quyền tiến bộ các nước tự do, dân chủ trên thế giới đứng về phía chánh nghĩa đấu tranh cho tự do, dân chủ của người Việt Hải Ngoại, trong thời đại kinh tế toàn cầu và dân chủ hóa hoàn vũ được văn minh Tin Học yểm trợ. Quốc kỳ VN Cộng Hòa đã được nhiều chánh quyền địa phương, tiểu bang, quận hạt, thành thị Mỹ công nhận như biểu tượng tự do, dân chủ của người Mỹ gốc Việt. Người Việt tại nhiều nước trên thế giới đã đi vào dòng chánh chánh tri, chánh quyền, khoa học kỹ thuật, thể dục thể thao, nghệ thuật thứ bảy, truyền thông của Tây Phương.
Về kinh tế, VN hải ngoại, người Việt đã vượt qua thời kỳ chân ướt chân ráo nơi quê hương mới, một cách thần kỳ. Tự do, dân chủ rõ rệt là điều kiện tiên quyết của phát triển kinh tế. Mỗi năm người Việt Hải Ngoại chỉ gởi cho không để giúp bà con cô bác, bạn bè – chơi chơi thôi – con số đã trên mấy tỷ Đô la. Theo thông lệ số tiền gởi cho của những người định cư ở Mỹ như dân Hispanics, Phi luật Tân, Trung Đông, số tiền cho chỉ chiếm dưới 5%, số tiền kiếm được. Điều đó cho thấy tổng sản lượng thuần của người Việt Hải Ngoại cao hơn của cả nước VN. Lợi tức đồng niên hải ngoại tính trên đầu người nhiều hơn cả trăm lần trong nước. Theo Ngân Hàng Thế giới trung bình một người Việt trong nước chưa đến 450 Đô/năm.
Về văn hóa xã hội, tại Mỹ cũng như tại Tây Âu, Úc Châu, tuy chưa có số thống kê khoa học, con số ước lượng người Việt Hải Ngoại tốt nghiệp đại học 4 năm trên 25% dân số hải ngoại. Nói gọn cứ 4 người Việt Hải Ngoại thì có 1 người tốt nghiệp đại học 4 năm tại các trương đại học trình độ giảng huấn văn hóa, khoa học, kỹ thuật tân tiến nhứt hoàn cầu. “Chất xám” của người Việt Hải Ngoại là cái CS Hà nội thèm muốn nhứt, nhưng dù khan cổ gọi mời, trí thức VN Hải Ngoại đi VN thăm quê hương, thăm người thân thì có, ở lại với CS thì không.
Tiếng Việt hải ngoại đã tiến triễn theo đà tiến hóa của ngôn ngữ, tiếp nối dòng ngôn ngữ Việt của người Việt Quốc Gia trong bao thời kỳ độc lập VN, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, Đệ nhứt, Đệ Nhị Cộng Hòa, và vẫn trường tồn và phát triển sau 3 lần Bắc Thuộc, 1 lần Pháp Thuộc, và CS đọa đày. Những “từ CS” như “hồ hởi, phấn khởi, sô vanh, ưu việt, đồng tình, hoành tráng”, thành tử ngữ (langue morte). Ở hải ngoại người Việt còn phát huy thêm những chữ nghĩa liên quan đến chánh trị tự do, dân chủ và khoa học kỹ thuật là những chữ VN còn thiếu vì hoàn cảnh lịch sử và chiến tranh của nước nhà trước năm 1975.
Kỷ niệm Ba Mươi Tháng Tư thứ ba mươi tám năm nay, người Việt Hải Ngoại tự xét mình một cách nghiêm khắc khách quan nhưng đầy tin tưởng lạc quan. Niềm vui và hy vọng vươn lên với niềm tin sẽ hoàn thành lời hứa đem lại tự do, dân chủ cho đồng bào còn bị kẹt ở lại, lúc gạt nước mắt rời đất nước ra đi.
Sau cùng, không phải “Ra đi là chết một hai phần nào” (Partir c’est mourir un peu ) như một nhà thơ lãng mạn Pháp đã viết. Mà ra đi là để khôi phục niềm tin đã bị tước đoạt, như Charles De Gaulle đã làm. Đó là tự do, dân chủ, nhân quyền VN cho quốc gia, dân tộc Việt. Với một thực tiễn tình hình thấy rõ sau 38 năm – đó là niềm và với hy vọng đã vươn lên — dù bi quan cũng phải thừa nhận./. (Vi Anh)
0 comments:
Post a Comment