Thursday, February 9, 2012

CỔNG T T/ ĐIỆN TỬ/ HUYỆN TIÊN LÃNG : TẠO NHIỄU LOẠN THÔNG TIN

“…Lãnh đạo ở một số địa phương là đại diện cho người dân để nắm chính quyền, nhưng họ lại luôn muốn khẳng định quyền lực vô biên của mình trước nhân dân và sẵn sàng bất chấp luật pháp để bảo vệ nó.” (TS Đặng Hùng Võ) .

Dù trước đó sở Tư Pháp TP/HP có văn bản số 408/TB- STP ngày 14.2.2009 Nội dung cảnh báo UBND /Huyện Tiên Lãng vi phạm Luật Đất Đai .

Mới đây trước hậu quả sơ khởi đã thấy được trong việc cưỡng chế đất đai trái Pháp Luật tại xã Vinh Quang ngày 7/2, Thành ủy Hải Phòng tổ chức họp báo nhận khuyết điểm với BCT/TW/Đảng và thông báo một loạt các hình thức kỹ luật CB/ Huyện Tiên Lãng . Trong khi chờ Thủ Tướng CP về TP/HP làm việc với Thành Uỷ VàUBND/TP/HP, thì trang WEB “ Cổng Thông Tin Điện Tử” huyện Tiên Lãng tiếp tục làm nhiễu loạn thông tin với bài viết : Vụ cưỡng chế thu hồi đất nuôi trồng thủy sản đối với ông Đoàn Văn Vươn – Thông tin đầy đủ và đúng bản chất về sự việc .”

Mời công luận , bạn đọc tham khảo nội dung bài viết của CTTĐT/Tiên Lãng , đối chiếu với bài viết Báo đối ngoại Vietnam Economic News (VEN) (Bộ Công Thương) và văn bản của Sở Tư Pháp TP/Hải Phòng để thấy ban Biên Tập CTTĐT/ Tiên Lãng , vô trách nhiệm như thế nào khi cố tình làm nhiễu loạn thông tin trước thời điểm Thủ Tướng /CP về TP/Hải Phòng làm việc và kiểm tra nội vụ.

Vụ cưỡng chế thu hồi đất nuôi trồng thủy sản đối với ông Đoàn Văn Vươn – Thông tin đầy đủ và đúng bản chất về sự việc

Tiên Lãng là huyện có điều kiện địa lý tự nhiên tiếp giáp sông, biển, phù sa bồi tụ khu vực cửa sông và ven biển, hàng năm lấn ra biển tới hàng trăm mét. Trong những năm 1980, sau khi quai đê lấn biển, huyện đã phát triển thêm 3 xã (Đông Hưng-Tây Hưng và Tiên Hưng). Từ sau năm 1990, UBND huyện tích cực huy động các nguồn vốn trong đó có nguồn vốn theo Quyết định 327/CT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng Chính phủ) về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển có mặt nước; Quyết định 567/QĐ-UB ngày 22/4/1992 của UBND thành phố Hải Phòng về đẩy mạnh khai thác và nuôi trồng thuỷ sản trên các vùng bãi triều ven biển.

Từ năm 1993 đến năm 2000, huyện đã đưa 1.431 ha đất bãi bồi ven sông, ven biển sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản (NTTS), trong đó UBND huyện giao cho 56 hộ gia đình, cá nhân với diện tích 515 ha, các xã, thị trấn cho 219 hộ thuê 583 ha, UBND thành phố cho Công ty công nghệ Việt Mỹ thuê 333 ha.

Trong số các hộ được UBND huyện giao đất chưa sử dụng vào NTTS có hộ ông Đoàn Văn Vươn được giao 21ha, sau đó được giao bổ sung 19,3 ha thời hạn giao 14 năm, từ tháng 10/1993. Khi hết hạn, UBND huyện thu hồi đất để giao cho UBND xã Vinh Quang quản lý cho thuê theo quy định của Luật Đất đai năm 2003.

Sau nhiều năm giải quyết việc thu hồi để cho thuê theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, ông Đoàn Văn Vươn không chấp hành, yêu cầu huyện phải tiếp tục giao đất. Ngày 05/01/2012 UBND huyện tổ chức cưỡng chế thu hồi và đã giao cho UBND xã Vinh Quang quản lý 19,3ha đất. Tuy nhiên, khi tiến hành thu hồi đất, đối tượng đã manh động chống trả, gây ra vụ án chống người thi hành công vụ nghiêm trọng. Trên các phương tiện thông tin có những thông tin đã đưa tin không đầy đủ và không đúng thực chất của việc thu hồi đất của huyện. UBND huyện thông tin làm rõ một số vấn đề liên quan như sau:

Về giao đất:

Khi vùng đất được bồi tụ, chưa sử dụng, để quản lý, khai thác vùng đất ngập nước, căn cứ Luật Đất đai năm 1987 (công bố ngày 08/01/1988), Nghị định 30/HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và Thông tư05/TTLB ngày 18/12/1991 của Liên bộ Bộ Thuỷ sản và Tổng cục Quản lý đất đai hướng dẫn việc quản lý, sử dụng đất có mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản.

UBND huyện Tiên Lãng ban hành các quyết định giao đất có thời hạn cho một số hộ có nhu cầu và để khai thác, NTTS; Người được giao đất chỉ phải nộp thuế theo quy định, khi hết thời hạn giao đất chủ sử dụng đất phải bàn giao lại toàn bộ mặt bằng và các công trình phục vụ sản xuất, vật kiến trúc xây dựng trong phạm vi đất được giao, nhà nước (UBND huyện) không tính toán giá trị tài sản còn lại cho chủ sử dụng đất.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 13 Luật Đất đai năm 1987; điều 3 Nghị định 30/HĐBT ngày 23/3/1989 và điểm 2 mục II Thông tư 05/TTLT ngày 18/12/1991 của Liên bộ Thuỷ sản và Tổng cục QLĐĐ; UBND huyện Tiên Lãng đã ban hành Quyết định số 447/QĐ-UB ngày 04/10/1993 giao đất chưa sử dụng cho ông Đoàn Văn Vươn sử dụng thời hạn 14 năm với diện tích là 21 ha.

Ngay từ khi được giao đất, ông Đoàn Văn Vươn đã lấn chiếm thêm 19,3 ha, đến năm 1997, UBND huyện kiểm tra và phát hiện ông Vươn lấn chiếm đã xử lý phạt vi phạm hành chính. Theo đề nghị của ông Vươn, UBND huyện đã giao tiếp 19,3ha, thời gian giao đất tính từ ngày giao diện tích 21ha là ngày 04/10/1993.

Lý do không giao đất theo Nghị định 64/CP:

Đất giao cho các hộ sử dụng là diện tích nằm ngoài đê Quốc gia, chưa ổn định, chưa sử dụng, đang thực hiện dự án Vinh Quang 2 do UBND huyện quản lý.

.Theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 13 Luật đất đai năm 1987: UBND huyện giao đất chưa sử dụng cho tổ chức, cá nhân sử dụng có thời hạn hoặc tạm thời để sản xuất nông nghiệp.

Diện tích giao cho ông Đoàn Văn Vươn trong vùng đất chưa ổn định, không thể giao ổn định lâu dài theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ. Trong thời kỳ thực hiện Dự án được Bộ Thuỷ sản phê duyệt tại Quyết định số 750 TS/QĐ ngày 22/10/1993, diện tích giao cho ông Vươn nằm trong tiểu vùng II rộng 200 ha là đất bãi triều trống, còn hoang hoá, cần đầu tư hạ tầng để đưa vào sử dụng.

Xác định không giao diện tích đất bãi triều chưa ổn định theo Nghị định 64/CP, UBND huyện quản lý, đến khi ổn định thì giao cho UBND xã sở tại quản lý; Căn cứ quy định tại điểm 3 Điều 14 Nghị định 74/CP ngày 25/10/1993: đất lấn biển được miễn thuế 07 năm. UBND huyện đã thực hiện nghiêm túc và bắt đầu giao nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp từ năm 2000.

Ông Đoàn Văn Vươn không được giao đất theo nghị định 64/CP trên địa bàn xã Vinh Quang, do đã được địa phương nơi cư trú giao ổn định 20 năm(UBND xã Bắc Hưng giao cho hộ gia đình ông Vươn 7 khẩu, diện tích 2.940m2).

Lý do giao 19,3 ha không tính từ ngày giao đất (9/4/1997):

Xét đề nghị của ông Đoàn Văn Vươn đã thành khẩn nhận rõ việc làm sai trái, lấn chiếm và chấp nhận xử phạt vi phạm hành chính (một triệu đồng). Căn cứ điểm a, khoản 11, mục I, Thông tư 278/TT-ĐC ngày 07/3/1997 của Tổng cục Địa chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 04/CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 1993, để tạo điều kiện cho người dân, UBND huyện tiếp tục giao cho ông Đoàn Văn Vươn 19,3 ha, thời hạn tính từ ngày 04/10/1993.

Diện tích này ông Đoàn Văn Vươn khai báo là đắp vùng rộng ra (sử dụng diện tích này ngay từkhi đắp vùng năm 1993).

Khi giao bổ sung sử dụng cùng với diện tích giao trước, ông Đoàn Văn Vươn đã đồng tình và từ đó đến nay không có khiếu nại về thời gian giao đất, không có khiếu nại về chỉ tiêu nộp thuế SDĐ nông nghiệp đối với diện tích 19,3ha.

Lý do giao đất có thời hạn dưới 15 năm:

Xác định đất bãi bồi, đang lấn biển, chưa ổn định, chưa sử dụng thì không thuộc loại đất giao ổn định 20 năm như quy định của Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ là căn cứ vào:

Tại điểm 2 mục II Thông tư05/TTLB ngày 18/12/1991 của Liên bộ Thuỷ sản và Tổng cục Quản lý đất đai quy định: Mặt nước giao có thời hạn không quá 15 năm.

Điều 5, Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ quy định mức hạn điền: Đất nông nghiệp tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, như Hải Phòng không quá 2,0ha.

Khoản 2, Điều 67, Luật Đất đai năm 2003 quy định thời hạn: Thời hạn sử dụng đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức do được giao trước ngày 01/01/1999 bằng một phần hai thời hạn quy định tại khoản 1 điều này (10 năm), sau đó phải chuyển sang thuê đất.

Về thu hồi đất

Căn cứ Nghị định 30/HĐBT ngày 23/3/1989 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 1987, tại khoản 6 Điều 23 quy định : Người được giao đất có mặt nước để quai đê lấn biển, nuôi trồng thuỷ sản thì thời gian đưa đất vào sử dụng được kéo dài thêm 6 tháng so với quy định tại khoản 5 Điều 14 Luật Đất đai; UBND huyện Tiên Lãng đã để dài thêm đến 18 tháng kể từ khi đến hạn phải giao trả, nhưng ông Đoàn Văn Vươn không bàn giao mà tiếp tục sử dụng 40,3 ha trong gần 4 năm qua không nộp bất cứ khoản nào cho Nhà nước. Cho đến nay ông Đoàn Văn Vươn không chịu nộp số tiền thuế sử dụng đất nông nghiệp là 10.035.000 đồng.

Khi hết thời hạn giao đất, UBND huyện Tiên Lãng yêu cầu ông Đoàn Văn Vươn giao trả lại để thực hiện cho thuê theo Luật Đất đai năm 2003; Việc thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn Văn Vươn căn cứ vào quy định tại khoản 10 Điều 38 Luật Đất đai năm 2003 và căn cứ Điều 80 Luật Đất đai năm 2003, khoản 5 Điều 36 Nghị định 181/2004/NĐ-CP giao cho UBND xã Vinh Quang quản lý quỹ đất này để cho thuê theo quy định.

Ông Đoàn Văn Vươn không chấp hành việc thu hồi đất giao đã hết thời hạn, khởi kiện ra TAND về quyết định thu hồi của UBND huyện. TAND cấp sơ thẩm đã xét xử, bác đơn khởi kiện của ông Vươn.

Sau đó ông Vươn kháng cáo lên Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng; TAND thành phố đã quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, ông Vươn xin rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo, TAND thành phố quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và tuyên bản án của TAND huyện Tiên Lãng có hiệu lực pháp luật. Căn cứ vào phán quyết đó, UBND huyện Tiên Lãng đã nhiều lần làm việc với ông Vươn để bàn việc cho thuê đất, nhưng ông Vươn kiên quyết đòi phải được giao lại đất.

Để đảm bảo kỷ cương, thực hiện trách nhiệm QLNN về đất đai. Sau khi báo cáo các cơ quan có thẩm quyền thành phố, sau nhiều lần đối thoại (8 lần thông báo và làm việc trực tiếp), UBND huyện Tiên Lãng đã tiến hành cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn Văn Vươn.

Lý do thu hồi đất, không bồi thường

Căn cứ mục a, khoản 1, Điều 43 Luật Đất đai năm 2003 không bồi thường về đất; mục c, khoản 2, Điều 43 Luật Đất đai năm 2003 không bồi thường về tài sản gắn liền với đất.

Quyết định số 447/QĐ-UB ngày 04/10/1993 của UBND huyện Tiên Lãng đã quy định rõ khi hết thời hạn giao đất chủ sử dụng đất phải bàn giao lại toàn bộ mặt bằng và các công trình phục vụ sản xuất, vật kiến trúc xây dựng trong phạm vi đất được giao, nhà nước (UBND huyện) không tính toán giá trị tài sản còn lại cho chủ sử dụng đất.

Về tổ chức cưỡng chế

Một số thông tin cho rằng, UBND huyện sử dụng hàng chục cán bộ, chiến sỹ công an, quân sự tham gia tổ chức cưỡng chế là không đúng thực tế. Để tổ chức bảo vệ, đảm bảo ANTT và phòng ngừa xảy ra chống người thi hành công vụ, lực lượng tham gia cưỡng chế bố trí một số công an huyện, xã, dân quân, qua trinh sát nắm tình hình thấy cần phải có lực lượng rà phá bom mìn.

Trong khi Đoàn cưỡng chế đang tiến hành dò mìn, đang vào vận động thuyết phục lần cuối thì ông Vươn đã cho người thân kích nổ mìn tự tạo, bắn súng đạn hoa cải làm bị thương 6 cán bộ, chiến sỹ Công an huyện và Quân sự huyện.

Sau khi vụ việc chống người thi hành công vụ nghiệm trọng xảy ra, theo báo cáo của huyện, Ban giám đốc Công an thành phố cử lực lượng cảnh sát cơ động đến để bao vây, truy bắt tội phạm.

Sự việc chống người thi hành công vụ có nguyên nhân chủ quan là từ lợi ích:

Nếu tiếp tục được giao đất mà không phải thuê thì hàng năm ông Đoàn Văn Vươn chỉ phải nộp 10 triệu đồng/40 ha (số thuế ghi thu năm 2007), thay vì phải thuê trên 100 triệu đồng/40 ha (10 lần).

Nguyên nhân quan trọng nhất là sau khi được giao đất, ông Đoàn Văn Vươn đã cho thuê lại, cụ thể là Hợp đồng thứ 1, cho thuê đất ký ngày 25/12/1999 giữa một bên là ông Đoàn Văn Vươn, một bên là ông Nguyễn Văn Nham xã Vinh Quang với diện tích 6,0ha với giá 5.000.000 đồng/ha/năm (30 triệu đồng/6,0ha/năm) tính từ năm 1999 đến ngày 04/10/2007 là 8 năm bằng 240 triệu đồng. Biên bản bàn giao đầm lập ngày 10/5/2000 diện tích thực tế là 58.655m2 thành tiền là 234.600.000 đồng. Hợp đồng thứ 2 một bên là ông Đoàn Văn Vươn, một bên là ông Phạm Văn Bìa xã Vinh Quang ký ngày 02/3/2008 với diện tích 5,4ha giá cho thuê là 30 triệu đồng/năm, thời hạn đến hết năm 2014 bằng 7 năm, số tiền là 210 triệu đồng. Như vậy là mỗi năm ông Vươn thu địa tô từ phần đất được giao để cho thuê lại chỉ cần 15% diện tích đã gấp 3 lần số tiền thuế SDĐNN phải nộp cho cả 40,3 ha.

Nếu được giao đất thì khi Nhà nước thu hồi (trước thời hạn) làm dự án nào đó ông Đoàn Văn Vươn được bồi thường về đất, công trình đầu tư trên đất, còn nếu thuê đất, khi đến hạn phải thu hồi thì chỉ được hỗ trợ cây cối, hoa lợi.

,Trúc Dân

Và để cảm thông sâu hơn, cùng tận của hành vi dùng vũ khí tự tạo chống lại “cương quyền” của ông Đoàn Văn Vươn, mời bạn đọc xem toàn bộ bài viết ba kỳ của Chí Trung trên Báo Đối Ngoại Vietnam Economic New (VEN)

Hoàng Thanh Trúc

Vụ việc ở Tiên Lãng (Hải Phòng): Báo Đối ngoại VEN đã “vào cuộc” từ năm 2008 - Cập nhật lúc: 10:10 17/01/2012

(VEN) – Những ngày gần đây, dư luận đặc biệt quan tâm đến vụ việc diễn ra ở huyện Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày 5/1/2012. Vụ việc chống lại người thi hành công vụ lực lượng cưỡng chế thuộc khu vực Cống Rộc, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng diễn ra làm 6 cán bộ, chiến sĩ công an, bộ đội bị thương.
Đã có nhiều luồng thông tin khác nhau về sự việc nhưng chủ yếu là những thông tin diễn ra sau ngày 5/1 hoặc một số vấn đề ngay trước đó mà chưa có dịp tiếp cận với những gì đã có từ nhiều năm trước – khi Cống Rộc còn là “nỗi kinh hoàng” của người dân Tiên Lãng.

Dẫu vậy, bằng nhiều nguồn khác nhau, bản chất của sự việc dần được nêu ra tường tận.

Báo đối ngoại Vietnam Economic News (VEN) (Bộ Công Thương) ngay từ năm 2008, báo đã có loạt bài phóng sự “Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển”. Trên cơ sở đơn thư khiếu nại khẩn thiết của người dân, Tòa soạn đã cử phóng viên về “ba chung” tại Cống Rộc và nghiêm túc nghiên cứu hồ sơ, thực hiện chặt chẽ các quy trình trước khi cho đăng trên ấn phẩm Kinh tế Việt Nam, sau đó đăng lại trên trang điện tử http://www.ven.vn - thuộc Báo Đối ngoại Vietnam Economic News.

Tổng Biên tập Báo Đối ngoại VEN – cho biết: “Dù đã gần 4 năm, nhưng vẫn nhớ rất rõ vì đã phải xem xét kỹ càng hồ sơ vụ việc tới từng chi tiết trước khi duyệt đăng những bài này”.

Đúng ra, loạt phóng sự này ban đầu gồm 6 kỳ. Tuy nhiên, do là tuần báo và theo đề nghị của Ban biên tập nên sau đó tác giả loạt phóng sự này đã rút thành 3 kỳ.

Để có tài liệu và hình ảnh cho loạt phóng sự, phóng viên đã phải nhiều lần tới Vinh Quang cùng sống, ăn, ngủ những người dân giữa đầm nuôi tôm (khu vực mới bị cưỡng chế). Trong lần nghỉ lại giữa đầm tôm này, phóng viên đã có lúc phải cùng người dân thức trắng đêm do muỗi và mưa to bất ngờ ập đến. Cũng trong các chuyến công tác, phóng viên không ít lần phải giấu đi những giọt nước mắt khi nghe câu chuyện về quá trình lấn biển của ông Vươn cũng như chứng kiến tận mắt nỗi vất vả, khó khăn của những người dân nơi đây.

Thể theo nguyện vọng của đông đảo bạn đọc và nhằm cung cấp thêm thông tin liên quan đến “sự kiện 5/1/2012” ở Hải Phòng, Tòa soạn xin đăng tải lại 3 kỳ “Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển” đã xuất bản trên ấn phẩm Kinh tế Việt Nam số 30 (ra ngày 22/7/2008), số 31 (ra ngày 29/7/2008), số 32 (ra ngày 5/8/2008) trên trang tin điện tử http://www.ven.vn.
Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển – Kỳ I - Cập nhật lúc: 09:40 22/07/2008


Cống Rộc – nơi từng gây nên nỗi
kinh hoàng đối với người dân
ở Tiên Lãng

(VEN) – Ôm theo gần 2kg đơn thư, tài liệu cầu cứu của những người dân ven biển huyện Tiên Lãng, chúng tôi đến Hải Phòng đúng ngày trời đổ mưa lớn đầu mùa. Vượt qua những quãng đường đất đá dưới cơn mưa tầm tã, cuối cùng chúng tôi cũng đã đến và biết được câu chuyện cảm động của những người “mở đất” và việc một số cá nhân ở huyện Tiên Lãng đang bất chấp quy định của pháp luật và đạo lý, muốn biến hàng trăm ha đất cùng hàng chục tỷ đồng của những người dân nơi đây thành việc của… “biển”.

Kỳ I: Người mang tên Vươn và hàng trăm ha đất ở Tiên Lãng đã “vươn” ra biển như thế nào?

Theo tài liệu của UBND huyện Tiên Lãng, thì hơn 100ha đất bồi thuộc khu vực bãi triều ven biển (ngoài đê) thuộc khu vực cống Rộc (xã Vinh Quang, Tiên Lãng) trước đây là nơi “đầu sóng ngọn gió”, mênh mông nước biển, thường xuyên đe dọa đến sự an nguy của những người dân địa phương. Mặc dù ở đây có một con đê chắn sóng quốc gia, nhưng do phía ngoài đê trống trải nên mỗi lần gió Nam mạnh cũng làm đê sạt lở, chưa nói khi mùa bão lũ đến. Người dân nơi này không ít lần chứng kiến cảnh vỡ đê và thường đi sơ tán mỗi khi nghe tin bão về.

Ông Mai Công Chính – 82 tuổi, nguyên cán bộ Sở Thuỷ sản Hải Phòng – kể: “Đã bao nhiêu năm gia đình tôi ở đây nên biết rất rõ nỗi cơ cực do sóng biển đe dọa. Trước đây phía Nam cống Rộc này rất đáng sợ. Chỗ nhà tôi từng bị nước biển tràn vào và chịu cảnh ngập lụt không biết bao nhiêu lần”. Còn ông Phạm Văn Danh – 79 tuổi, nguyên Bí thư Đảng uỷ xã Vinh Quang, nguyên Thường vụ huyện uỷ Tiên Lãng – thì cho biết: “Cống Rộc khi trước kinh hãi lắm, nước biển mênh mông. Không ai dám nghĩ có ngày ở đó được yên ổn chứ nói gì đến việc bỏ công sức ra đầu tư để sản xuất đâu”. Ông Danh còn kể: Khi nghe tin anh Vươn tuyên bố nhận làm ở khu cống Rộc, ông Đinh Quang Hiên – người nhiều năm đầu tư khai thác vùng ven biển ở Tiền Hải (Thái Bình) và phía Bắc xã Vinh Quang – thách đố: “Nếu thằng Vươn làm thành công tôi sẽ mất với nó một chiếc xe máy đẹp”. Đó là câu chuyện diễn ra cách nay đã hơn 15 năm.

Còn ngày nay, đứng trên đê quốc gia nhìn ra biển, bất cứ ai cũng có thể nhận ra những đầm nuôi trồng thuỷ sản đã được hình thành vững chắc, ổn định với diện tích rộng hàng trăm ha. Ông Chính bảo: “Nhờ có việc đầu tư công sức và hàng chục tỷ đồng của anh Vươn và những hộ dân nên tuyến đê biển này đã thực sự an toàn, người dân trong vùng được yên tâm sinh sống”. Còn để chỉnh trị vùng ven biển này, ông Chính khẳng định: “Quá trình anh Vươn làm ở đây, những con đê bảo vệ cũng vỡ nhiều lần. Có khi đắp sáng, chiều vỡ, đắp tối thì sáng hôm sau vỡ. Việc làm bấy giờ của anh ấy ví như con dã tràng xe cát. Bây giờ không thể nào nói hết công lao của anh ấy”. Ông Danh tiếp lời: “Nhiều người gàn lắm. Tôi cũng ngăn cản. Không ai ngờ là anh ấy làm được đâu. Anh Vươn như đi cải tạo 6-7 năm trời. Cả gia đình anh ấy cũng lao đao, khổ theo. Ngay đứa con gái đầu lòng của anh ấy cũng chết ở ngoài đó”… Những người dân ở Tiên Lãng vẫn kể cho nhau nghe câu chuyện này mỗi khi nhớ về quá trình lấn biển ở vùng cống Rộc. Còn với “người trong cuộc” Đoàn Văn Vươn thì sao?

Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở xã Bắc Hưng (Tiên Lãng), định mệnh đã gắn cuộc đời của ông với biển khơi, như chính cái tên “Vươn” cùng bao khát vọng chinh phục biển – điều mà cha ông – một cán bộ đảng lâu năm – mong muốn. Sau khi rời quân ngũ năm 1986, chàng thanh niên Đoàn Văn Vươn trở về địa phương với quyết tâm tìm cách chế ngự thiên nhiên, biến nỗi kinh hoàng của biển khơi thành tiềm năng phục vụ con người.


Ông Đoàn Văn Vươn bên đầm nuôi trồng thuỷ sản
ở Vinh Quang (Tiên Lãng)

Đã không ít người hồ nghi và coi việc làm của Vươn khi ấy chỉ là sự ngông cuồng của tuổi trẻ. Ông Vươn kể: “Sau khi nghiên cứu địa hình, tôi cho rằng nếu làm được, thì khu vực ấy (cống Rộc) không những sẽ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội lớn. Do đó, tôi đã lập luận chứng kinh tế kỹ thuật và huy động mọi nguồn lực để tiến hành cắt dòng chảy, từng bước khoanh vùng đắp đập ngăn nước”. Hơn nửa năm trời, người ta chứng kiến hơn 750 nhân công cùng 13 tàu, xe cơ giới ngày đêm vật lộn với sóng biển ở cống Rộc. Ước tính đã có trên 23.000m3 đất đá được chuyển từ Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) và trong vùng đổ xuống biển. Từ năm 1994-1998 hàng ngàn cây giống đã được ông bỏ công sức chuyển từ đất liền ra trồng, nhưng tất cả đều bị sóng biển cuốn trôi. Không nản chí, ông tiếp tục nghiên cứu và từng bước kiên trì để tạo nên hàng rào chắn sóng bằng hàng chục tấn đất đá, cùng khoảng 140 tấn xi măng để xây kè và hàng nghìn cây bần, vẹt. Để rồi, máu cùng nước mắt có ngày được đền công: dòng chảy phía ngoài cống Rộc chuyển hướng, chân đê từ chỗ sâu 1,65m (cốt âm) được nâng lên cốt dương và hàng chục ha đất bồi cùng 60ha rừng vẹt ngăn sóng hình thành. Thành công từ việc trồng rừng chắn sóng của ông Vươn còn được các chuyên gia Nhật Bản đến tìm hiểu, nghiên cứu.

Nam cống Rộc được chế ngự đã giúp cho hàng trăm ha đất ven biển ở Tiên Lãng được bồi đắp mạnh hơn, tuyến đê biển được đẩy lùi vào hàng chục nghìn mét và trở nên vững chãi. Cảm khái trước tâm huyết và công sức của con người dũng cảm dám đối đầu với thiên nhiên, tết năm 1994, người con cao tuổi nhất bấy giờ của làng Chùa (Vinh Quang) đã đem pháo ra cống Rộc đốt và nói: “Việc làm của anh Vươn đã làm thay đổi cuộc sống của người dân Vinh Quang. Con cháu chúng tôi sẽ phải ghi nhớ công ơn này. Và nếu được, tôi đề nghị phải đắp tượng anh Vươn”.

Tuy nhiên, để biến ước mơ thành hiện thực, ông Vươn đã phải chấp nhận chuyển cả gia đình đến sống chung với bão lũ; và để có vốn, ông đã phải bán những tài sản có giá trị của gia đình, vay lãi ngân hàng, huy động người thân vào công việc lấn biển và việc ông mất đi cô con gái đầu lòng cho biển cống Rộc.

Sự nỗ lực góp phần chỉnh trị dòng chảy, giữ an toàn cho tuyến đê biển và tạo nên những đầm nuôi trồng thuỷ sản như hiện nay của ông Vươn là cả một quãng thời gian dài với bao công sức, tiền của. Những ngày đầu năm 2008, ông vẫn tiếp tục đầu tư hơn 100 triệu đồng để kè đá cho đầm tôm. Cùng với ông Vươn, ở Tiên Lãng hiện còn nhiều hộ gia đình đang sử dụng đất bồi ven biển để nuôi trồng thuỷ sản, trong đó có không ít những người như ông Vươn. Điều muốn nói ở đây là họ đã và đang đối mặt với những thách thức mới, không những từ biển mà còn từ những việc làm không tuân thủ pháp luật, thiếu tình người của một số người có trách nhiệm ở Tiên Lãng.

(VEN) – Là người có công trong việc mở mang diện tích đất bồi ven biển và có luận chứng kinh tế, hồ sơ về thuỷ lợi, nên ngày 4/10/1993, UBND huyện Tiên Lãng đã có Quyết định số 447/QĐ-UB giao 21ha bãi bồi ven biển thuộc xã Vinh Quang (Cống Rộc) cho ông Đoàn Văn Vươn sử dụng vào mục đích nuôi trồng và khai thác thuỷ sản.

Kỳ II: Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển

Ngày 1/12/2007, ông Vươn nhận được Thông báo số 225/TB-UBND của UBND huyện Tiên Lãng về việc dừng đầu tư vùng nuôi trồng thuỷ sản với lý do thời hạn giao đất ghi 14 năm đã hết. Tiếp đó, ngày 23/4/2008 UBND huyện Tiên Lãng lại có Quyết định số 460/QĐ-UB về việc thu hồi và yêu cầu phải bàn giao lại toàn bộ 21ha đất đang sử dụng cùng các công trình có trên đất cho xã Vinh Quang quản lý trong thời gian… 15 ngày.

Điều đáng nói là, theo đề án và luận chứng kinh tế kỹ thuật mà ông Vươn cung cấp thì thời gian ông đăng ký nhận đầu tư 21ha đất bồi là 30 năm. Đặc biệt, theo quy định của pháp luật thì, đối với loại đất bãi triều ven biển và đất mặt nước ven biển (ngoài đê) là đối tượng được khuyến khích đầu tư sử dụng và được Nhà nước hỗ trợ. Nội dung này được thể hiện khá rõ trong Luật Đất đai, Quyết định số 327-CT, ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường và tại Quyết định số 567/QĐ-UB, ngày 22/4/1992 của UBND TP. Hải Phòng. Cụ thể, tại khoản 1, Điều 67 Luật Đất đai năm 2003 ghi “Thời hạn giao đất, cho thuê đất được tính từ ngày giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; trường hợp đất được Nhà nước giao, cho thuê trước ngày 15/10/1993 thì thời hạn giao đất, cho thuê đất được tính từ ngày 15/10/1993”. Tại điểm 3, mục I, Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT, ngày 13/4/2005 của Bộ Tài nguyên – Môi trường cũng đã hướng dẫn cụ thể về điều này.


Đơn thư, tài liệu do người dân cung cấp lá đơn tập thể
của hơn 20 hộ gia đình ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng.

Chưa cần dẫn chiếu các văn bản khác cũng có thể thấy Quyết định 460/QĐ-UB, ngày 23/4/2008 của UBND huyện Tiên Lãng là trái với tinh thần của pháp luật hiện hành về thời hạn giao đất. Chưa hết, tại Điều II quyết định này, UBND huyện Tiên Lãng còn giao Phòng Tài nguyên và Môi trường và UBND xã Vinh Quang làm thủ tục thu hồi đất cùng toàn bộ công trình có trên đất, mà không bồi thường gì (!). Điều này là không đúng với quy định. Bởi, tại Điều 9 Quyết định số 327-CT ghi “Đối với các dự án sử dụng bãi bồi, đất trống ven biển, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản có quy mô khoảng 700ha, ngang mức dân một xã, mỗi hộ gia đình được giao một số đất để nuôi tôm, cua, rau câu và 700m2 đất để làm vườn. Nhà nước đầu tư hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng theo nguyên tắc hoàn vốn bằng khấu hao. Việc xây dựng công trình nội đồng, nuôi trồng thuỷ sản do hộ gia đình đầu tư bằng vốn tự có hoặc vay vốn ngân hàng. Các bãi bồi, mặt nước nhỏ dưới 700ha do địa phương đầu tư hoặc giao cho các hộ tự làm”. Căn cứ vào nội dung của quyết định này thì gia đình ông Vươn thuộc diện được ưu tiên, tạo điều kiện để quản lý, sử dụng và còn được Nhà nước hỗ trợ trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng đối với diện tích đất trên.

Trong khi “Nhà nước khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp, công ty cổ phần, công ty và các hộ tư nhân, kể cả liên doanh giữa công ty hoặc tư nhân với nước ngoài đầu tư vào việc trồng trọt, chăn nuôi ở vùng đất mới” (Điều 11, Mục B Quyết định 327-CT) và tại khoản 3, Điều 67 Luật Đất đai quy định “Khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng…”, nhưng UBND huyện Tiên Lãng lại không xem xét tới những điều này của Luật Đất đai và Quyết định 327-CT. Qua tìm hiểu, được biết, kể từ khi được giao đất vào năm 1993 đến nay, gia đình ông Vươn luôn chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về quản lý và sử dụng đất. Thậm chí, ông còn bỏ khá nhiều công sức, tiền của để củng cố đê kè, góp phần tích cực cải tạo vùng đất bồi hiệu quả và giữ yên cho cả vùng. Mặt khác, ông Vươn còn được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Liên chi hội Nuôi trồng thuỷ sản nước lợ huyện Tiên Lãng từ năm 1993 đến nay và ông đã có nhiều đơn xin được tiếp tục giao 21ha trên để sản xuất, nhưng không được giải quyết. Vậy nguyên nhân và động cơ nào khiến UBND huyện Tiên Lãng ban hành Quyết định 460/QĐ-UB.

Trước quyết định “ngẫu hứng” này, ông Vươn tiếp tục khiếu nại, nhưng tất cả vẫn bị rơi vào quên lãng. Ông Vươn phẫn uất: “Tôi đã bỏ bao tâm huyết, tiền bạc vào đây, chấp nhận để cả gia đình cơ cực để lo làm ăn, góp phần giữ đất, giữ quê. Thậm chí, con gái tôi cũng chết vì khu cống Rộc này, vậy mà… Nhưng ở đây còn nhiều người khác cũng đang khổ sở, như ông Luân, ông Trong, ông Tin, ông Đọc, ông Tiêu….”. Còn những người dân ở Vinh Quang thì lại bất bình và bức xúc cho ông. Đối với nguyên Uỷ viên thường vụ Huyện uỷ Tiên Lãng Phạm Văn Danh thì: “Khi anh Vươn trình dự án lên UBND huyện năm 1993, huyện cho rằng hão huyền. Vậy mà làm được, góp phần làm bồi nhanh cho cả khu vực”. Ông Danh bức xúc tuyên bố: “Nếu theo quyết định của Chủ tịch huyện (Quyết định 460/QĐ-UB) là cướp trắng của người ta”.

Sự phẫn nộ về những quyết định và việc làm kỳ quặc được phát ra từ UBND huyện Tiên Lãng sẽ còn được đề cập trong bài viết tiếp sau. Ở đây chỉ nói lên một thực tế là niềm tin của người dân nơi đây đối với chính quyền địa phương đang bị phai nhạt dần vì một số vụ việc va chạm giữa dân và các cơ quan chính quyền địa phương đã diễn ra từ nhiều năm nay. Trong thời gian có mặt ở Hải Phòng, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến nỗi bức xúc và tiếp nhận một khối lượng lớn đơn thư, tài liệu do người dân cung cấp xung quanh những quyết định liên quan đến vấn đề đất đai do UBND huyện Tiên Lãng ban hành.

KỲ III
Hàng trăm hécta đất cùng nhiều tỷ đồng của dân có phải là việc của… biển?

Trong lá đơn dài 11 trang của ông Vũ Văn Luân (xóm 9, xã Hùng Thắng, Tiên Lãng) gửi các cơ quan chức năng, có đoạn viết: “Căn cứ vào Quyết định số 471 ngày 2/8/1999 và căn cứ vào Quyết định giao đất số 415 ngày 10/3/2000, chúng tôi khẳng định UBND huyện Tiên Lãng giao đất trái pháp luật”. Cùng với việc phân tích về những việc làm “chẳng giống ai” của chính quyền địa phương, ông Luân cho biết, gia đình ông đã làm nhiều đơn thư và được các cơ quan có trách nhiệm ở trung ương yêu cầu UBND huyện Tiên Lãng giải quyết dứt điểm vụ việc theo đúng pháp luật, nhưng đã hơn 2 năm vẫn không có hồi âm. Chung cảnh ngộ với hộ ông Vươn, ông Luân, còn có gia đình các ông Lương Văn Trong, Hoàng Văn Tin, Nguyễn Văn Tiêu, Nguyễn Thế Đọc… cũng đang chịu nỗi cơ cực vì “bão tố” không đến từ biển. Xin lưu ý, từ tháng 1/1992 đến trước ngày 15/10/1993 – trước khi Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực – UBND huyện Tiên Lãng đã làm thủ tục giao đất nuôi trồng thủy sản cho 18 hộ với tổng diện tích trên 370ha.

Ngày 2/6/2008, chúng tôi tìm đến UBND huyện Tiên Lãng để tìm câu trả lời của những người có trách nhiệm. Trước những bức xúc của các hộ gia đình đang nuôi trồng thủy sản ở xã Vinh Quang, ông Ngô Văn Khánh – Chánh văn phòng UBND huyện Tiên Lãng – khẳng định “Những đầm đến bây giờ hết hạn, chúng tôi sẽ thu hồi để giao cho địa phương, cho xã quản lý, để đỡ gây nên phức tạp. Hơn nữa, quản lý của huyện thực tế cũng không thường xuyên, trực tiếp”. Giải thích về việc tại sao huyện lại không giao cho hộ ông Vươn và những hộ khác thời gian 20 năm như quy định của pháp luật mà chỉ là 12 đến 15 năm, ông Khánh trả lời bằng cách… chuyển đề tài, rồi lấy lý do bận việc và giới thiệu chúng tôi đến gặp lãnh đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường, vì “đó là nơi trực tiếp quản lý tài liệu, giấy tờ”.

Vẫn với những thắc mắc trên, chúng tôi nhận được giải thích từ Phó phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Tiên Lãng – Phạm Văn Trống: “Trong quyết định có ghi thời hạn giao đất, nên khi hết thời hạn thì Nhà nước thu hồi theo Điều 38, Điều 45 của Luật Đất đai”. Nhưng khi đối chiếu với Luật Đất đai và các văn bản pháp luật khác, chúng tôi không tìm thấy quy định nào phù hợp hoặc liên quan đối với trường hợp này. Khi được hỏi: “Vì sao các hộ gia đình ông Vươn, ông Trong, ông Tin…, dù chấp hành tốt các quy định, được giao đất trước ngày 15/10/1993 và đã có đơn xin tiếp tục được giao đất nhiều lần lại không được chấp nhận. Trong khi, tại Báo cáo số 68/BC-UBND ngày 25/12/2006 (sau khi có Kế hoạch 58/KH-UB) lại có 18 hộ ở Vinh Quang được huyện giao mới 67,45ha đất với thời hạn… 20 năm?”. Ông Trống “giải thích” rằng: “Đối với 18 hộ ở Vinh Quang, anh em tôi có ra quyết định giao, cho thuê đất. Đến thời điểm này quyết định vẫn chưa thực hiện và anh em tôi cũng đang báo cáo để xem xét lại việc giao đất năm 2005”.

Xin nói thêm, một trong những “căn cứ” để thu hồi đất của các hộ nói trên là Kế hoạch số 58/KH-UB, được UBND huyện này ban hành vào ngày 1/12/2004. Chưa nhắc tới nội dung, ngay từ khi ra đời văn bản này đã có vấn đề. Theo quy định tại khoản 3, Điều 26 Luật Đất đai năm 2003 thì “UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp”. Tuy nhiên, Kế hoạch 58/KH-UB của UBND huyện Tiên Lãng lại không được gửi cho UBND TP. Hải Phòng, nhưng vẫn được dùng làm cơ sở để ban hành hàng loạt các quyết định quy hoạch, giao và thu hồi đất (!). Chưa hết, trong phần thu hồi đất, Kế hoạch 58 ghi “Không được đền bù tiền đất và công trình xây dựng đã đầu tư trên diện tích thu hồi”. Điều này có nghĩa, những hộ gia đình được giao đất trước ngày 15/10/1993 ở Vinh Quang sẽ bị thu hồi mà không được bồi thường. Như vậy là trái với quy định của Điều 41, Điều 42 Luật Đất đai.

Về quyết định thu hồi đối với diện tích đất giao cho các hộ (từ 12 đến 15 năm) trước ngày 15/10/1993, trái với quy định tại Điều 67, Luật Đất đai và các văn bản pháp luật, ông Trống cho rằng “tùy từng địa phương, người ta giao cho bao nhiêu, quyết định thời hạn là bao nhiêu, mà không cứ phải 20 năm”.

Chưa kể, theo “quan điểm” mà “Kế hoạch 58” đưa ra thì huyện Tiên Lãng chủ trương sẽ xé nhỏ hàng trăm ha đất mà các hộ gia đình đang được giao sử dụng ổn định để cho đấu thầu theo các lô, có diện tích từ 1-5ha/lô. Nghe qua, tưởng hay, nhưng điều này là vô cùng nguy hiểm. Bởi, diện tích đất trên không giống như nền trụ sở UBND huyện Tiên Lãng, mà là đất bồi ven biển – mới được hình thành hơn 10 năm gần đây, nền đất còn nhiều biến động. Càng phi thực tế hơn khi những nền đất này để hình thành nên những đầm nuôi trồng thủy sản ven biển – vốn cần quy hoạch chắc chắn, có thời gian đầu tư lâu dài ổn định. Điều này còn mâu thuẫn với mong muốn “hình thành một vùng nuôi trồng thủy sản bền vững, hiệu quả theo hướng công nghiệp” như các văn bản mà chính quyền huyện Tiên Lãng dùng để báo cáo với cấp trên và làm cơ sở để quy hoạch phát triển.

Cũng cần nói thêm, thời gian qua UBND huyện Tiên Lãng đã giao hàng trăm ha đất cho Công ty Việt Mỹ và hàng chục ha cho Tổng đội thanh niên xung phong với thời hạn từ 27 đến 40 năm, cùng với mục đích nuôi trồng thủy sản, nhưng vẫn chưa sử dụng có hiệu quả. Trong khi đó, các hộ gia đình như ông Vươn, ông Luân, ông Tin, ông Đọc… không những đã có công trong việc đầu tư, khai khẩn, đang làm ăn ổn định và mong muốn được tiếp tục nhận giao đất để sản xuất theo đúng quy định của pháp luật thì lại bị từ chối theo cái “lý” của UBND huyện Tiên Lãng (?!)

Xin chuyển những vấn đề này tới các cơ quan có thẩm quyền với mong muốn những băn khoăn của người dân sẽ sớm được làm rõ.

Chí Trung

TIẾNG NÓI CỦA SỞ TƯ PHÁP / HẢI PHÒNG .

Trong khi UBND huyện Tiên Lãng và TP.Hải Phòng khẳng định việc thu hồi đất đối với ông Đoàn Văn Vươn là đúng quy định pháp luật thì tại văn bản số 408/TB-STP ngày 14.2.2009 do ông Ngô Minh Tuấn – Phó Giám đốc Sở Tư pháp ký thông báo kết luận kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật tại huyện Tiên Lãng, lại khẳng định: Quy định thu hồi đất khi hết thời hạn để chuyển sang hình thức thuê đất là không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 67, khoản 10 Điều 38 Luật Đất đai.

Đoàn kiểm tra của Sở Tư pháp đã tiến hành kiểm tra 17 văn bản quy phạm pháp luật do HĐND, UBND huyện Tiên Lãng ban hành từ ngày 1.1.2005 đến ngày 31.12.2008. Đoàn chỉ rõ: Năm 2008, UBND huyện Tiên Lãng đã ban hành quyết định số 3756/2008/QĐ-UBND, quy định việc quản lý, sử dụng đất, mặt nước, bãi bồi ven sông, ven biển sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Tiên Lãng. Văn bản này quy định về phạm vi đối tượng áp dụng chưa rõ ràng và không phù hợp với Điều 80 của Luật Đất đai.

Điều luật này quy định “đất bãi bồi ven sông, ven biển thường xuyên được bồi tụ hoặc thường bị sạt lở do UBND huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh quản lý, sử dụng và bảo vệ theo quy định của Chính phủ”. Như vậy, việc quản lý, sử dụng và bảo vệ đối với phần diện tích theo quy định này chỉ có Chính phủ mới có thẩm quyền quy định. UBND huyện không có thẩm quyền quy định.

Bản kết luận nêu rõ: Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định nào giao thẩm quyền quản lý đất có mặt nước ven biển cho UBND cấp huyện. Do vậy, UBND huyện Tiên Lãng quy định cho phép mình được quyền quản lý diện tích đất này là chưa phù hợp về thẩm quyền và không thống nhất với tên gọi của văn bản. UBND huyện Tiên Lãng quy định việc thu hồi đất hết thời hạn để chuyển sang hình thức thuê đất là không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 67, khoản 10 Điều 38 Luật Đất đai và không thống nhất với điều 7 của chính quyết định này.

Lý giải cho việc ban hành QĐ này, UBND huyện cho rằng, địa phương có diện tích đất bãi bồi ven sông, ven biển khá lớn, nên cần thiết phải có quy định quản lý, sử dụng thống nhất. Tuy nhiên, Đoàn kiểm tra nhấn mạnh:

Hải Phòng còn có nhiều diện tích đất bãi bồi ven sông ven biển ở nhiều quận, huyện khác nên để đảm bảo sự điều chỉnh thống nhất trong toàn thành phố. Vì vậy, đề nghị UBND huyện tạm đình chỉ việc thi hành quyết định này và xin ý kiến chỉ đạo của UBND TP về việc ban hành văn bản điều chỉnh vấn đề này áp dụng chung trên địa bàn thành phố. Nguồn: http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Quy-dinh-ve-quan-ly-dat-bai-boi-cua-Tien-Lang-tung-bi-tuyt-coi/74535

HOÀNG THANH TRÚC

0 comments:

Powered By Blogger