Mặt thật hàng tướng Dương Văn Minh


Mỗi lần 30 tháng 4 đến, người Việt tỵ nạn lại nhắc đến Dương Văn Minh và gọi ông là “Hàng Tướng”. Nhưng hành tung và vai trò của ông trong cuộc chiến VN vẫn còn nhiều bí ẩn. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra và có một vài tranh luận xung quanh hàng tướng này.

Hôm đám tang Tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, cựu dân biểu VNCH, có đọc một bài điếu văn, nói rằng “Đây là cái chết lần thứ nhì của một người lính suốt đời lo cho đất nước”. Tuy nhiên, qua bài điếu văn đó, người ta nhận thấy Nguyễn Hữu Chung muốn mượn cái chết của Tướng Dương Văn Minh để nói về mình hơn là nói về Tướng Minh. Đó là cái bệnh trầm kha của nhiều “lãnh tụ” quốc gia. Hôm 30 tháng tư vừa qua, nhân kỹ niệm 30 năm mất miền Nam, Đại Tá Vũ Văn Lộc, bút hiệu Giao Chỉ, có viết bài “Tưởng Niệm Big Minh, Một Vòng Hoa Cho Niên Trưởng”, nhưng nội dung bài này cũng chỉ để nói lên tình “huynh đệ chi binh” mà thôi.

Website của Giao Điểm, [một diễn đàn chống "Giatô" và kêu gọi Phật giáo Ấn Quang "hồi tà", trở về với Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh,] đã phổ biến bài “Cái chết của một Hàng Tướng: Dương Văn Minh (1916-2001)” của Vũ Ngự Chiêu, tức Chánh Đạo, tức Nguyên Vũ, nói là trích trong “Ngàn Năm Soi Mặt, tâm bút”, để bênh vực cho Tướng Dương Văn Minh. Trong nỗ lực bôi đen “Giatô”, Vũ ngư. Chiêu viết rằng ông Lâm Lễ Trinh đã “làm án tử hình Ba Cụt hầu chuẩn bị bước lên chức Bộ trưởng Nội vụ – một bản án tiêu biểu cho chế độ giáo phiệt của anh em ông Diệm” (tr. 137), mặc dù Ba Cụt đã chịu đầu hàng. Ở cuối bài, Vũ Ngự Chiêu đã kết kuận như sau: “Hậu thế sẽ có dịp thẩm giá Tướng Minh một cách trung thực hơn. Vì Tướng Minh, giống như ông Trần Văn Hương, chỉ là những tác nhân phụ thuộc, ở buổi “hết quan, tàn quân.” Nhóm Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, v.. v… mới là những tội nhân chính của lịch sử.” Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh.

Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ. Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ. Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”, nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh.

Vài nét về Tướng Big Minh

Dương Văn Minh sinh ngày 16.2.1916 tại Vĩnh Long (có tài liệu nói sinh tại Mỹ Tho). Sỡ dĩ ông có biệt danh là Big Minh vì cao 6 feet và nặng 200 pounds, và được gọi như thế để khỏi lẫn lộn với Tướng Trần Văn Minh.

Ông có vợ và ba con: hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm hiện ở Pháp, và người con gái là Dương Mai, có chồng là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài, hiện ở Pasadena, California.

Lúc nhỏ ông theo học trường Chasseloup Laubat ở Saigon và đỗ tú tài II vào năm 1938 cùng một lớp với Tướng Trần Văn Đôn.

Năm 1940, ông Minh gia nhập quân đội Pháp, tốt nghiệp khóa Hạ sĩ quan trừ bi. Thủ Dầu Một với cấp bậc Aspirant tức là Chuẩn Úy.

Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, Dương Văn Minh đang phục vụ tại Cap’s Jacques (Vũng Tàu) và bi. Nhật cầm tù. Khi Pháp trở lại, ông trở lại phục vụ trong quân đội Pháp năm 1946 với cấp bậc Thiếu Úy.

Năm 1952 ông mang cấp bậc Đại Úy và phục vụ tại Phủ Thủ Hiến Nam Phần. Từ Năm 1953 – 1954, ông được thăng Thiếu Tá rồi Trung Tá và phục vụ tại Tổng Tham Mưu Quân Khu 1. Năm 1954 – 1955 ông là Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Saigon.

Dương Văn Minh là cháu của Nguyễn Ngọc Thợ Khi ông Diệm về chấp chánh, ông Nguyễn Ngọc Thơ được mời làm Bộ Trưởng Nội Vụ, đã đề cư? Dương Văn Minh chỉ huy huy lực lượng bảo vệ Saigon. Ngày 3.5.1955, Dương Văn Minh được thăng Đại Tá và giữ chức Quân Trấn Trưởng Saigon.


Người đầu tiên đã giúp ông Diệm chống lại các giáo phái không phải là Đại Tá Dương Văn Minh mà Đại Tá Dương Văn Đức.

Ngày 5.6.1955, Đại Tá Đức được cử chỉ huy Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng bình định miền Tây Nam Phần. Ông cho quân tiến chiếm Cái Vồn (Cần Thơ), phá tan đại bản doanh của Tướng Trần Văn Soái. Ngày 29.6.1955 ông tiến vào núi Ba Chúc, tấn công lực lượng của Tướng Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt.

Ngày 21.9.1955, với tư cách Quân Trấn Trưởng Saigon, Đại Tá Dương Văn Minh được cử làm Chỉ Huy Trưởng Chiến Dịch Hoàng Diệu, mở cuộc hành quân truy kích tàn quân Bình Xuyên tại Rừng Sát. Trung tá Nguyễn Khánh làm Chỉ Huy Phó và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh làm Tham Mưu Trưởng.. Sau khi Chiến Dịch Hoàng Diệu chấm dứt, ngày 6.11.1955, ông Diệm cho tổ chức biểu tình hoan hô các chiến sĩ Rừng Sát trở về. Đại Tá Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng. (Có tài liệu nói Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng ngày 23.10.1955).

Trong thời gian ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Tỉnh Trưởng các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên và Mỹ Tho, Ba Cụt đã mưu sát ông đến 6 lần, nhưng ông vẫn thoát được. Để đối lại, ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng đã cho mở các cuộc hành quân để truy kích Ba Cụt, nhưng không bắt được. Do đó, khi nghe ông Ngô Đình Nhu hỏi ý kiến về việc dẹp loạn Trần Văn Soái và Ba Cụt ở miền Tây, ông xin lãnh trách nhiệm ngay. Đây là một cơ hội tốt giúp ông thanh toán một kẻ thù luôn theo đuổi ông. Ông xin xử dụng Tướng Dương Văn Minh vào công tác này. Vì thế, ngày 29.12.1955, ông Diệm đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại Tá Dương Văn Đức chỉ huy và cho Đại Tá Đức lên Thiếu Tướng. Tướng Đức tỏ vẽ bất bình về chuyện chấm dứt công tác một cách đột ngột này.

Do đó, ngày 10.6.1956, ông Diệm phải cử Tướng Đức đi làm Đại Sứ tại Nam Hàn.

Rất hận về chuyện ông Nguyễn Ngọc Thơ đưa Tướng Dương Văn Minh xuống cướp chỗ của mình, khi tham gia cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 30.1.1964 lật đô? Dương Văn Minh, Tướng Đức đã đi tìm ông Nguyễn Ngọc Thơ, lúc đó là Thủ Tướng Chính Phủ, kéo ra và đánh mấy bớp tai trước mặt mọi người!

Mặc dầu Dương Văn Minh đang bị điều tra về việc biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bảy Viễn, ngày 1.1.1956, ông Diệm đã cư? Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Nguyễn Huệ bình định miền Tây. Ngày 13.4.1955 Tướng Ba Cụt đã bị bắt ở Chắc Cá Đao, cách Long Xuyên 15 cây số và bi. Tòa Án Quân Sự tuyên án tử hình. Sáng 13.7.1956, lúc 5 giờ 40 sáng, Tướng Ba Cụt đã bị hành quyết tại nghĩa địa ở đường Hoa Bình, Cần Thợ

Trong cuộc phỏng ván ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y, lúc đó là Tỉnh Trưởng Chợ Lớn, cho biết sau khi xử bắn và chôn Ba Cụt xong, Nguyễn Văn Nhung có về gặp ông và cho ông biết Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho anh ta đào xác Ba Cụt lên đem đi thiêu rồi lấy tro rải xuống sông Cửu Long, để tay chân bộ hạ của Ba Cụt không lấy xác ông ta đem về lập đền thờ. Nhưng có nhân chứng khác cho biết Nguyễn Văn Nhung đã đào xác Ba Cụt lên, văm nhỏ rồi bỏ vào bao bố đem rải xuống sông chứ không hề thiêu.

Trong cuốn hồi ký “VN máu lửa quê hương tôi” Đỗ Mậu phịa rằng “vì ông Diệm nhiều lần dụ dỗ Lê Quang Vinh theo đạo Thiên Chúa mà Lê Quang Vinh nằng nặc không theo. Nếu theo đạo Thiên Chúa thì Lê Quang Vinh sẽ được rửa tội trong một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức Bà Saigon và sẽ được trọng thưởng, và tất nhiên sẽ được tha mạng.” (trang 124).

Ngày 31.5.1956, Chiến Dịch Nguyễn Huệ kết thúc. Ông Diệm lại cử Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định các tỉnh Tiền Giang và Hậu Giang. Ngày 29.8.1956 ông Diệm cử Tướng Minh làm Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng, chỉ huy Phân Khu Saigon.Chợ Lớn và tiếp tục chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định miền Tây. Ngày 30.10.1956, chiến dịch này kết thúc với kết quả 441 bị tử trận, 948 về quy thuận, 1169 bị bắt và hơn 1.000 súng bị tịch thụ

Ngày 1.2.1957 Dương Văn Minh được thăng Trung Tướng và giữ chức Chỉ Huy Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Chức Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng được trao lại cho Tướng Dương Văn Đức mới đi học khóa chỉ huy và tham mưu ở Mỹ về. (Khi Tướng Đức xin đi Pháp, chức này lại được trao cho Tướng Nguyễn Khánh). Tướng Minh cũng được gởi qua Mỹ học khóa chỉ huy và tham mưu tại ỤS. Command and General Staff College ở Fort Leavenworth thuộc bang Kansas.

Đầu năm 1960, cơ quan tình báo khám phá ra Tướng Dương Văn Minh đã liên lạc với Hà Nội qua người em là Thiếu Tá VC Dương Văn Nhựt, nên Tướng Minh không được tin dùng nữa (chúng tôi sẽ tường thuật sau). Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cư? Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu mới từ Hoa Kỳ về làm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân với nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát Tướng Minh.

Cuối năm 1962 Tổng Thống Diệm quyết định giải tán Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”. Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tư Lệnh Vùng I, được cử làm Tư Lệnh Lục Quân, một chức vụ mới đặt để thay thế Bộ Tư Lệnh Hành Quân.


Dương Văn Minh Nguyễn Ngọc Thơ

Lúc đầu, Tướng Harking tỏ vẽ bất bình về chuyện Tướng Minh bị hạ tầng công tác. Ông ta nghĩ rằng ông Diệm sơ. Tướng Minh làm đảo chánh nên đã hành động như vậy. Nhưng sau khi biết được Tướng Minh có liên lạc với VC, cơ quan CIA cũng đồng ý về biện pháp này.

Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm, nên khi muốn lật đổ ông Diệm, CIA quyết định xử dụng Tướng Minh. Nhưng sau đó chỉ cho Tướng Minh làm Quốc Trưởng 3 tháng.

Ngày 30.1.1964, theo sự sắp xếp của CIA, Tướng Nguyễn Khánh làm “chỉnh lý” xúc các tướng đảo chánh và biến Dương Văn Minh thành Quốc Trưởng bù nhìn.

Ngày 24.10.1964, Nguyễn Khánh đưa ông Phan Khắc Sửu lên làm Quốc Trưởng thay Dương Văn Minh. Ngày 24.11.1964, ông Sửu thăng cho cả Nguyễn Khánh lẫn Dương Văn Minh lên Đại Tướng. Ngày 20.12.1964, Nguyễn Khánh bắt Dương Văn Minh đi lưu vong, làm Đại Sứ VNCH tại Thái Lan. Mãi đến năm 1968, khi ông Trần Văn Hương lên làm Thủ Tướng, Dương Văn Minh mới được trở về VN. Ông đã đến Saigon ngày 5.10.1968.

Sau đây là một số bí ẩn chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh.

VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG

Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự”, Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại:

Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp: “Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn. “Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói: “- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó. “Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi. “Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả! “Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt! “Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1]

Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể.

Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau: Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít. Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này.

Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này.

Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì. Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2]

Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!”

CHỨA CHẤP GIÁN ĐIỆP VIỆT CỘNG

Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả. Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén. Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu Tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10., Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh. Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Có lẽ trước đó Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã trình nội vụ cho Tổng Thống biết rồi. Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: “Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không?” Rồi ông nói tiếp: “Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?” Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết.

Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể xử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cố vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên mới hạn chế như vậy.

Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.” Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”.

Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau: “Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam – được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngã Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa hồng để nhập vai người đi buôn. Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”. Bài báo viết thêm: “Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.”

BỊ BIẾN THÀNH TÊN ĐAO PHỦ CỦA MỸ


Vì không hiểu gì về thủ đoạn chính trị, Dương Văn Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành tên đao phủ thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ.

1.- Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm. Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt. Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này do Đại Tá Mai Hữu Xuân cầm đầu. Tướng Minh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của mình, đi theo làm sát thủ. Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không.


Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh: – Tại sao hai ông ấy chết? Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) [3]


“Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) ” DVM

2.- Giết ông Ngô Đình Cẩn Chính Tướng Nguyễn Khánh đã cho soạn thảo và ban hành Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Toà Án Quân Sự đưa ra những quy định trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật, và cử nhóm tay chân bộ hạ vào làm “phán quan” để tuyên án tử hình ông Cẩn. Sắc Luật lại quy định rằng các bị cáo không có quyền kháng cáo hay thượng tố. Bị cáo bị án tử hình có thể đệ đơn xin ân xá lên Quốc Trưởng trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Trong trường hợp phạm nhân bị xử tử hình đã đệ đơn ân xá, án tử hình sẽ thi hành trong hạn 5 ngày kể từ khi tuyên án, nếu trong hạn đó, đơn xin ân xá không được chấp thuận. Những sự quy định này nhắm gài Tướng Dương Văn Minh, lúc đó đang là Quốc Trưởng bù nhìn, vào cái thế phải chịu trách nhiệm giết ông Cẩn. Mặc dầu đứng đàng sau Tướng Khánh trong vụ làm luật giết ông Cẩn và biết chắc ông Cẩn phải bị giết, Đại Sứ Cabot Lodge giả vờ đứng ra làm con thoi, đề nghị Tướng Minh ân xá cho ông Cẩn. Tướng Minh biết mình bị gài nên nói với Đại Sứ Lodge: “Khánh luôn luôm tìm cách đặt tôi vào tình trạng khó khăn (He always tries to put me in the difficult position). Tôi sẽ bị cả nước thù ghét và tố cáo nếu tôi ân xá Cẩn.” Đại Sứ Lodge nhận xét: “Rõ ràng là Khánh đang sắp xếp các sự việc để cho Minh gánh lấy tất cả trách nhiệm nếu không hành quyết Cẩn.”


Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn!

BỊ ĐƯA RA LÀM HÀNG TƯỚNG

Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!”


Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ

Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi.

Frank Snepp cho biết thêm:

“Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng”. [4]

Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội.

Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151.

Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập.

Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại.

Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngũ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại, lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại:

“Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống…”

Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại.

Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng. Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5]

Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt.


“Văn Kiện” Đầu hàng

Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự”. Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền… Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh.


Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30.


Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng!

* * * * * * * * *


Quyết định trả tự do tại dinh Độc Lập tối 2/5/1975.

Ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Binh… được trả tự do. Quyết định trả tự do của Ủy ban quân quản được thông báo tại buổi lễ trang trọng và thân mật tại hội trường dinh Độc Lập tối 2/5/1975. Tại buổi lễ này, Phó chủ tịch Ủy ban quân quản Sài Gòn – Gia Định Cao Đăng Chiếm đã phát biểu với một chất giọng miền Nam trầm ấm:

“…Nhân dân Việt Nam chúng ta đã trải qua cuộc đấu tranh anh dũng và khốc liệt, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh bại chính sách Việt Nam hóa chiến tranh để giành thắng lợi vĩ đại và vô cùng to lớn từ xưa đến nay.

Thi hành chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, Chính phủ mong rằng trong tình hình mới chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực xây dựng lại Tổ quốc của chúng ta, làm cho nhân dân chúng ta giàu mạnh, Tổ quốc của chúng ta hùng cường. Do đó, chúng tôi mong rằng mỗi người VN chúng ta đều tùy theo khả năng của mình, góp công sức vào việc xây dựng Tổ quốc của chúng ta. Bữa nay, thi hành lệnh của cấp trên, các anh được tự do về với gia đình. Chúng tôi sẽ tổ chức đưa các anh về đến nơi đến chốn…”. (Trích băng ghi âm)

Đáp lại, ông Dương Văn Minh nói ngắn gọn thế này:“ …Ngày hôm nay, đại diện cho các anh có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước.Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt Nam độc lập”. (Trích băng ghi âm)Mọi người được về với gia đình ngay sau buổi lễ đó. Chiếc xe Ford màu xanh dương đậm đưa ông Minh ra khỏi dinh Độc Lập lúc 22 giờ. Khi xe chuyển bánh, vị tổng thống 48 giờ nói:- Thôi, giã từ quá khứ chết chóc. Vĩnh viễn hòa nhập vào đời sống hòa bình.(Theo Tuổi Trẻ)

NHÌN LẠI CON NGƯỜI CỦA DƯƠNG VĂN MINH


Tướng Nguyễn Chánh Thi tiết lộ rằng khi còn ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh có gởi cho ông một lá thư đề ngày 15.4.1987, trong đó có đoạn như sau:

“Thi,

“Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.

“Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.

“Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.

“Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần- lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.

“Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra…”


Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên.

Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây:

Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm:

(1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra.

(2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế.

Thứ hai là ngố:

Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ:

(1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền.

(2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng!

Thứ ba là hèn:

(1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào!

(2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại:

- Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định.

Tổng Thống Minh trả lời:

- Các em chuẩn bị bàn giao đi.

Thiếu Tá Tài hỏi lại:

- Có phải là đầu hàng không?

Tổng Thống Minh trả lời:

- Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập.

Thiếu Tá Tài nói:

- Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?”

Tổng Thống Minh trả lời:

- Tùy ý các anh em.

Nói xong cúp máy!

(3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò… Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”.

Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng”!

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
Ngày 8.8.1983, Dương Văn Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó. Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Tướng Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây.


Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long và Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu ông đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California.

Lữ Giang
29.4.2009

Ghi chú:

[1] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: Một trời tâm sự, Xuân Thu, Hoa Kỳ 1987, tr. 27 và 28.

[2] Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Tập II, California, Hoa Kỳ, tr. 66 – 70.

[3] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 231.

[4] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 382 – 383.

[5] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 540.

Thượng Tọa Thích Trí Quang và Đại Tướng Minh (hay Những giấc mơ lãnh tụ)


Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, sau 1975, bị CS đưa vào các trại tập trung ở miền Bắc như Hà Tây và Thanh Lâm (Thanh Hóa). Ở Thanh Lâm, ông được giam ở một biệt khu gồm 10 nhân vật cao cấp quân sự và hành chánh của VNCH, do đó sự tiếp xúc giữa ông và các đội lao công khổ sai rất hạn chế (Theo lời cựu Đại Tá Luật, nguyên Tỉnh Trưởng Ban Mê Thuột cho đến tháng 3/75 sang Mỹ theo diện HO năm 1993, hiện đang cư ngụ tại St. Peterburg, FL cho biết : Nguyễn Hữu Có đã làm ăng ten trong trại tù cộng sản. Hắn đã bán đứng nhiều chiến hữu để khỏi bị đi lao động).


TT Nguyễn Hữu Có

Tuy nhiên, một số đội đó đã tiếp xúc và nghe ông phân trần về riêng ông. Đọc xong bài tường thuật nầy, người ta sẽ thấy sự tráo trở của Thượng Tọa Thích Trí Quang (người chủ chốt của PGAQ trong các vụ biến loạn 1963, 1967 và 1975) ra sao, ngay cả với những Phật tử đặt hết lòng tín nhiệm vào ông. Nhưng đã quá trể. Người ta phải biết điều nầy từ 12 năm về trước. Hồ Văn Quang, một tù nhân bị khổ sai vừa mới tới Mỹ qua diện HO, đã được nghe ông kể chuyện như sau :


Thượng Tọa Thích Trí Quang

Khi còn ở Đài Loan, tôi đã nghe bài nói chuyện về việc từ chức của TT Thiệu về việc từ chức và trao quyền lại cho ông Trần Văn Hương. Tôi bay về Việt Nam. Trong tôi, điều chắc chắn là thế nào ông Hương cũng phải nhường chức Tổng Thống lại cho Đại Tướng Dương văn Minh. Khi về tới VN thì mọi chuyện coi như xong xuôị Với tình bằng hữu, tôi đã tìm đến tướng Minh để coi có việc gì làm không. Minh tiếp tôi niềm nở và câu đầu tiên Minh nói với tôi :

- Ồ ! Anh Có, sao anh đến chậm quá. Trong tình thế nầy anh em mình mỗi người phải góp một tay mới được. Thôi thì anh lên Tổng Tham Mưu phụ giúp với anh Vĩnh Lộc, rồi sau mọi việc sẽ tính…

Tôi thì ở Đài Loan mới về, nói thực thì mình cũng muốn cái chức Tổng Tham Mưu Trưởng lắm. Nếu Minh cho lập nội các thì thêm chức Bộ Trưởng Quốc Phòng càng tốt…Trong lòng tôi nghĩ vậy, nhưng rồi tôi chả đuợc nhắc đến gì vì mọi việc chính trị lúc bấy giờ đều do sự sắp xếp giữa Minh, ông Vũ Văn Mẫu và nhất là Thượng Tọa Thích Trí Quang. Tôi có cảm giác như lúc đó Thượng Tọa Thích Trí Quang mới chính là Tổng Thống, còn Minh chỉ là người giúp việc cho Thượng Tọa Thích Trí Quang mà thôị Tôi lên Tổng Tham Mưu, ở đây Vĩnh Lộc bảo tôi :

- Thôi anh về chơi đi, tình hình nầy chẳng có việc gì phải bàn cãi nữa đâụ Để chờ Tổng Thống Minh có quyết địh như thế nào, chứ anh mà ngồi đây thì uổng phí lắm. Tôi chạy đi chạy về, khi thì Dinh Độc Lập, khi thì Tổng Tham Mưu, khi thì đi với Minh vào Ấn Quang…Suốt ngày chạy liên miên, nhưng “Thầy” Trí Quang cứ bảo :

- Tổng Thống và các ông phải bình tĩnh vì mọi việc tôi đã sắp xếp đâu vào đấy rồị Phía bên kia người ta đã gặp tôi và đã bàn lập một phái đoàn gặp các ông mà bàn luận về việc hòa giải lập chính phủ liên hiệp trong vài ngày tới thôi, chậm nhất là vào ngày 29/4.

Minh và nội các chạy đi chạy về liên tục, nhất là Minh ngày nào cũng điện thoại hoặc đích thân gặp Thượng Tọa Thích Trí Quang để xem tình hình. Lắm lúc Thượng Tọa Thích Trí Quang gần như không muốn tiếp Minh mặc dầu Minh là đương kim Tổng Thống. Tội cho Minh ở giai đoạn nầy vì bản chất thật thà và quá ngây thơ trong cách làm chính trị của ông ta. Tôi hỏi Minh :

- Tổng Thống phải làm thế nào chứ ? Mình có thể gặp thẳng bên kia, chứ qua “thầy” mãi thì sự thể ngày chỉ trầm trọng thôi.

Ông Mẫu nói :

- Trung Tướng cứ nôn nóng mãị Chính trị chứ đâu phải quân sự mà cứ đánh ào ào tới là được.


Thich Tri Quang

Tôi nghĩ cũng buồn vì sức Minh có hạng trong khi tình hình quá rối ren. Minh kham không nổi thành ra mọi việc phải nhờ vào ông Mẫn và nhất là Thượng Tọa Thích Trí Quang. Sự có mặt của tôi như không gợi cho Minh một cái gì tin tưởng, do đó trong nội các mà ông Mẫn thành lập, mặc dầu còn nhiều chỗ còn trống nhưng vẫn không có tên tôị Tôi có hỏi Minh thì Minh trả lời:

- Thầy Trí Quang và ông Mẫu đang sắp xếp…

Cái chức Xử Lý Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực cũng có lẽ được Thượng Tọa Thích Trí Quang đưa ra vào giờ chót và ông Hạnh (đầu hàng CS từ lâu) đã thực hiện quyền hạn của mình lần đầu tiên vào sáng 30/4/1975 với lời tuyên bố tất cả các binh chủng phải hướng mủi súng lên không và chờ lệnh, không được hành động bất cứ việc gì nếu không có lệnh phát trên đài phát thanh…

Vào ngày chót, suốt chiều 29 rạng sáng 30/4, một đêm mà hoàn toàn chúng tôi không ngủ để đón chờ phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam…Như hồi nãy tôi nói, Minh làm việc với nội các tại Dinh Độc Lập rất ít mà tại Ấn Quang thì nhiều hơn… Tôi nói với Minh :

- Tổng Thống nên coi lại tình hình và phải có hướng khác, chứ tôi thấy thì hình như bên kia không hề đá động gì đến hòa giải hay thương thuyết gì rồi đó…

Minh, vẻ mặt u sầu, buồn buồn nhưng luôn luôn ngồi đứng không yên, hết gọi chỗ nầy,lại gọi chỗ kia và riêng số điện thoại của Thầy Trí Quang là sát tay của TT nhất. Khoảng 4g30 chiều 29/4/1975, tôi và Minh trở lại Ấn Quang gặp “Thầy” Trí Quang. “Thầy” vẫn tiếp tục nói câu :

- Tổng Thống đừng nôn nóng, mọi việc sáng nay tôi đã gặp được phía bên kia và họ nói là chậm lắm tối nay sẽ đến, và có lẽ ngày mai là chúng ta họp bàn với họ được rồi.

Mọi người ai cũng hồi họp chờ đợi, hết ngồi lại đứng, đi đi, lại lại… Mỗi người đều theo một ý nghĩ riêng trong chờ đợị Thời gian sao mà dài quá.

Một…haị..bạ..bốn giờ sáng, phía Ấn Quang vẫn im lặng như tờ. 4g30 sáng, Minh không thể chịu đựng nỗi nữa, nhấc điện thoại lên, bên kia đầu dây vẫn chưa có ai bắt…Sau chừng 4 lần “reng” thì tiếng Thượng Tọa Thích Trí Quang nhè nhẹ giọng Huế :

- Tổng Thống đó hả. Kính chào Tổng Thống. Mãi tới giờ này tôi vẫn chưa thấy gì cả, phía bên kia vẫn không đưa người tới và với tình hình quân sự hiện tại họ đã vào đô thành rồị Theo tôi giờ này giải pháp chính trị không thích hợp nữa và có lẽ vai trò của tôi không thể giúp ích gì cho Tổng Thống trong lúc nàỵ Bây giờ Tổng Thống còn là vị Đại Tuớng giỏi về quân sự thì Tổng Thống nên dùng cái lợi thế của Tổng Thống trong cách kết thúc đi. Xin kính chào tạm biệt Tổng Thống.

Minh buông máy thở ra chán nản, hai tay ôm lấy đầu, ngồi thin thít không nói một lờị Chúng tôi tất cả ngơ ngác. Cả phòng im phăng phắt mặc dầu bây giờ ngoài đường đang quá chộn rộn cho cảnh hỗn loạn cao điểm nhất của chiến tranh. Năm giờ sáng. Minh bảo chúng tôi :

- Thôi các ông ai về nhà nấy, tắm rửa, ăn sáng, ăn mặc chỉnh tề. Đúng 8 giờ sáng chúng mình gặp nhau tại đây để bàn chuyện tiếp…

Mọi việc tới đây kể như kết thúc mối tình giữa Thượng Tọa Thích Trí Quang và Minh, và nó cũng sẽ kết thúc cuộc đời chính trị của Minh trong vài giờ tớị

Tôi từ giã Minh và Dinh Độc Lập từ đó…

Và dĩ nhiên đã không có mặt trong nội các của Minh và Mẫn trong khi bàn giao hay ký kết văn bản đầu hàng vô điều kiện…

Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Diệm dày công gầy dựng đã tan theo hư không mà đi…

Saigon Nhỏ 26/8/1994

Lời Phân Trần Của Tướng Dương Văn Minh


VỀ NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975

Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đã trôi qua được trên 31 năm. Thường thì thời gian là yếu tố xóa nhòa mọi nỗi đau của quá khứ, nhưng đối với đa số người miền Nam, vết đau 30 tháng 4 còn tươi rói vì những đau đớn, mất mát xảy ra cho họ và gia đình do Cộng sản gây ra sau ngày 30 tháng 4. Hàng ngàn người bỏ mình trong những trại tù cải tạo độc ác, tàn bạo của Cộng sản, hàng trăm ngàn người bỏ mình trên biển cả khi vượt biển tìm tự do. Nghĩ đến ngày 30 tháng 4, đa số người dân miền Nam oán trách Tổng Thống Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng để đưa đến cảnh “nước mất nhà tan ” sau này. Từ trước đến nay đã có nhiều dư luận phê phán chuyện đầu hàng ô nhục của tướng Minh nhưng tâm tư và suy nghĩ của tướng Minh khi quyết định đầu hàng Cộng sản là chuyện không ai suy đoán nổi. Ông Minh không viết sách và tránh né trả lời phỏng vấn của báo chí nên khó ai đoán biết tâm tư, suy nghĩ của ông khi đầu hàng như thế nào. Sau này mới biết tướng Minh đã bộc bạch tâm tư suy nghĩ của ông về quyết định đầu hàng trong biến cố 30 tháng 4 trong một lá thư gửi cho một người đàn em cũ là Trung tướng Nguyễn chánh Thi vào năm 1987 khi tướng Minh ở Pháp. Xin cám ơn Trung tướng Thi đã cho phép người viết bài này công bố bức thư của tướng Minh để soi sáng phần nào lịch sử Việt Nam cận đại.

Ðại tướng Dương văn Minh nhậm chức Tổng thống do Tổng thống Trần văn Hương trao lại chỉ vài ngày trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.(Dương văn Minh nhậm chức tổng thống vào ngày 27 tháng 4 năm 1975. Bởi vậy người ta thường gọi Dương văn Minh là tổng thống 3 ngày). Buổi chiều nhậm chức Tổng thống trong dinh Ðộc lập thì trời u ám và có mưa…. Phóng viên Nguyễn mạnh Tiến (hiện nay đang làm ở Ðài Á châu Tự Do) lúc ấy đang làm cho Ðài phát thanh Sài Gòn, đã tường thuật buổi lễ nhậm chức này. Phóng viên Tiến đã bắt đầu bài phóng sự tường trình bằng câu nói : “Buổi lễ nhậm chức Tổng thống xảy ra vào buổi chiều trong dinh Ðộc lập trong khi bên ngoài trời mưa u ám như tình thế đất nước hiện tại…” – Trực giác cảm nhận của Phóng viên Tiến thật chính xác vì chỉ vài ngày sau, miền Nam rơi vào tay Cộng sản để rồi đưa đến bao tang tóc, mất mát cho dân chúng miền Nam.


Dương Văn Minh & Vũ Văn Mẫu trên đdường đến Đài Phát thanh tuyên bố đầu hàng

Toàn bộ bức thư của Tướng Dương văn Minh viết cho Tướng Nguyễn chánh Thi có nội dung như sau :

15-4-87

“Thi,
Ðược tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.

Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.

Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.

Anh em có đọc sách của anh Ðỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Ðỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Ðỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.

Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Ðôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Ðỗ Mậu (cũng như nhiều người) không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã nhắn nhủ để cứu dân.

Riêng tôi, tôi không tự tử không phải vì thiếu can đảm, nhưng vì những lý do rất đơn sơ :

- Tôi không tự sát vì thân thể mình do Trời Ðất (Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, mình không có quyền hy sinh.
- Mình có quyền hy sinh : tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v…v Tóm tắt mình chỉ có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi.

Ðây là một lý thuyết tôi đã hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, vì lúc nào tôi cũng xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi. Tôi đã dám làm thì tôi cũng dám chấp nhận những búa rìu bất cứ từ đâu tới. Không có gì thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần thì có ngày xum họp trên quê cha đất tổ.

Tôi đã nói nhiều quá ! Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong gì hơn được gặp lại các bạn.

Thân mến
Dương văn Minh”


Ðọc những lời phân trần trên của tướng Minh cho thấy những ảnh hưởng đến từ bên ngoài về quyết định đầu hàng Cộng sản ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông cũng biện bạch cho quyết định không tự tử của ông sau khi đầu hàng. Thật ra những người đặt vấn đề tướng Minh nên tự tử vì nhìn gương của những bậc tiền bối như quan đại thần Phan thanh Giản đã uống thuốc độc tự tử khi phải giao mấy tỉnh ở miền Nam cho Pháp và quan Tổng đốc Hoàng Diệu treo cổ tự tử khi thành Hà Nội mất vào tay quân Pháp. Sau này nhìn những tấm gương tử tiết của 5 vị tướng Phạm văn Phú, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Lê văn Hưng, Nguyễn khoa Nam người ta lại tiếc cho tướng Dương văn Minh đã không tử tiết để nêu gương anh dũng cho ngàn sau. Dĩ nhiên quyết định tìm đến cái chết không phải lúc nào cũng là một quyết định dễ dàng trong bất kỳ tình huống nào của cuộc sống. Tướng Minh đã biện luận cho quyết định không tự sát để duy trì mạng sống của ông vì lề lối suy nghĩ của ông và ông cho biết là ông sẵn sàng nhận chịu mọi sự phê phán của thế gian. Ða số dư luận quần chúng đánh giá tướng Minh thuộc loại người nhu nhược, hèn nhát, tham sống sợ chết. Tướng Minh đã qua đời vào tháng 8 năm 2001 ở California, Hoa Kỳ. Hai tháng sau đó Tổng thống Thiệu cũng qua đời ở Boston. Biến cố miền Nam rơi vào tay cộng sản miền Bắc đã làm tử thương biết bao nhiêu nhân mạng của chiến sĩ và đồng bào, riêng hai ông Tổng Thống có trách nhiệm là Nguyễn văn Thiệu và Dương văn Minh đều chọn cách chết già êm ả. Thật đáng tủi hổ cho hai ông khi mang tiếng là lãnh đạo quốc gia trong thời ly loạn !

Phải nói rằng khi Tổng thống Nguyễn văn Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975 thì tình hình miền Nam đã đi tới giai đoạn hết thuốc chữa. Quyết định không viện trợ khẩn cấp 300 triệu của Quốc Hội Mỹ coi như cái chết của miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Sau này có nhiều dư luận đặt vấn đề là tại sao Tổng thống Nguyễn văn Thiệu không bán đi 16 tấn vàng trong ngân khố để lấy tiền mua vũ khí cho quân đội miền Nam tiếp tục chiến đấu. Dĩ nhiên Tổng thống Thiệu không phải ngu dại gì mà không biết đến điều ấy nhưng phải thấy rằng chuyện giật sập miền Nam năm 1975 là quyết định của Mỹ và chắc chắn Mỹ sẽ không dễ dàng cho phép ông Thiệu bán vàng để mua vũ khí bảo vệ miền Nam. Ông Thiệu thì không bao giờ làm cái gì trái ý Mỹ vì sợ Mỹ. Số vàng 16 tấn này sau này lọt vào tay Cộng sản sau 1975 và theo sự tiết lộ của cựu Ðại tá miền Bắc Bùi Tín thì số vàng này cũng dần dần bị tẩu tán bởi những tay lãnh đạo tham ô ở miền Bắc.

Phải nói là ở thời điểm ký Hiệp định Paris năm 1973, chắc chắn ở cương vị lãnh đạo, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu cũng nhìn thấy rõ sự rút lui chạy làng của người đồng minh Hoa Kỳ… Ðáng lý ra ông Thiệu phải lo xây dựng chiến khu ở miền Tây để phòng sau này Sài gòn có bị mất thì ông sẽ về miền Tây lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nhưng ông Thiệu không phải là người lãnh đạo yêu nước, thương dân. Ông chỉ quan tâm nhiều đến mạng sống và của cải của ông và gia đình. Ông tiếp tục bám víu quyền lực ngày nào còn viện trợ Mỹ, nghĩa là ngày nào còn xôi thịt. Cuộc bầu cử độc diễn năm 1971 cho thấy ông Thiệu dùng mọi thủ đoạn xấu xa, bẩn thỉu để duy trì quyền lực. Ðến khi đất nước lâm nguy, Mỹ cúp viện trợ thì lúc ấy ông mới từ chức và tính chuyện “được làm vua, thua chạy trước”. Tội làm mất miền Nam là của Tổng thống mặt trơ trán bóng vô liêm sỉ Nguyễn văn Thiệu chứ nhất định không phải là tội của tướng Dương văn Minh. Sau này có người đặt vấn đề với ông Thiệu về tội lỗi của ông trong chuyện làm mất miền Nam vào tay Cộng sản thì ông trâng tráo trả lời : “Tôi chỉ có trách nhiệm mà không có tội !”… Thế nào là có trách nhiệm mà không có tội ? Ðó là lối ăn nói của loại người vô liêm sỉ, thiếu tự trọng như Nguyễn văn Thiệu. Hãy nhìn cái hành vi tháo chạy nhục nhã, cam tâm bỏ lại chiến sĩ đồng bào trong vòng lửa đạn thì mới thấy ông Thiệu không có được một chút liêm sỉ và danh dự tối thiểu của người lãnh đạo. Ðám đàn em của ông như Nguyễn tiến Hưng, Nguyễn bá Cẩn, Nguyễn văn Ngân viết sách viết báo nhằm bao che cho tội lỗi của chủ cũ Nguyễn văn Thiệu nhưng ông làm sao tránh khỏi búa rìu dư luận trước hành động hèn nhát bỏ anh em chiến sĩ, đồng bào của ông được. Bản chất của ông Thiệu là tham nhũng xôi thịt nên không ai ngạc nhiên gì khi thấy những hành động hèn kém, nhục nhã của ông trong biến cố 30 tháng 4 năm 1975. Một con người khó có thể biến từ tiểu nhân thành quân tử trong một sớm một chiều. Khi cầm quyền thì chỉ biết làm tiền, tham nhũng thì làm sao có chuyện hy sinh cao cả cho đồng bào chiến sĩ khi nguy hiểm cận kề.

Một điều nữa cũng nên nói ra ở đây là trong những ngày hấp hối của miền Nam, có một chuyện lạ kỳ là Trung Cộng đã tìm cách liên lạc với chính phủ Dương văn Minh với ý định muốn viện trợ cho miền Nam chống lại sự tấn công của Cộng sản miền Bắc. Trong một cuộc nói chuyện thân mật với anh em sinh viên ở Pháp sau khi định cư ở Pháp, tướng Dương văn Minh có kể lại chuyện này và cho biết ông từ chối đề nghị giúp đỡ của Trung Cộng vì nghĩ rằng Trung Hoa là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt. Ông Minh cho rằng chuyện nhận viện trợ của Trung Cộng là một chuyện làm không có lợi cho đất nước Việt Nam. Cựu dân biểu VNCH Lý quý Chung (vốn là Bộ trưởng Thông tin trong chính phủ Dương văn Minh) trong cuốn sách “Hồi ký không tên” xuất bản ở Việt Nam mới đây cũng có nói đến chuyện này nhưng ông Chung không dám nêu đích danh Trung Cộng mà chỉ nói đến một cách bóng gió. (1) Lý do là mối quan hệ giữa Việt Cộng và Trung cộng đang hồi thắm thiết hữu nghị nên ông Trung không dám nêu đích danh Trung Cộng là kẻ đã tìm cách viện trợ cho chính phủ Dương văn Minh của Việt Nam Cộng Hòa nhằm cứu vãn sự sụp đổ của miền Nam trước sự tấn công của miền Bắc.

Tại sao Trung cộng đã viện trợ cho Việt cộng trong nhiều năm mà lại tìm cách cứu vãn miền Nam khỏi sự sụp đổ trong những ngày tháng cuối cùng ? Câu trả lời là mặc dù Trung cộng viện trợ cho Việt cộng vì là anh em trong khối xã hội chủ nghĩa nhưng Trung cộng rất ngại chuyện Việt cộng chiến thắng ở miền Nam vì Trung cộng nghĩ rằng một nước Việt Nam thống nhất và hùng cường sẽ là trở ngại cho âm mưu bành trướng bá quyền của Trung cộng. Ðó là nguyên nhân Trung cộng làm một chuyện rất nghịch lý và khó hiểu là tìm cách thương thảo để viện trợ cho chính phủ Dương văn Minh của miền Nam trong những giờ phút hấp hối. Trung cộng tìm cách viện trợ cho miền Nam không phải vì thiện ý mong muốn nhân dân miền Nam được sống trong tự do mà vì không muốn nhìn thấy một nước Việt Nam thống nhất hùng cường, và chuyện này có hại có âm mưu bành trướng lãnh thổ của Trung cộng.

Tháng 12 năm 1976, Cộng sản VN mở Ðại hội Ðảng lần thứ 4 tại Hà Nội. Tất cả những đảng Cộng sản anh em trên thế giới đều gửi phái đoàn tham dự, kể cả đảng cộng sản ở quốc gia tư bản như Ðảng Cộng sản Pháp. Thế mà Trung Cộng không gửi phái đoàn tham dự đại hội Ðảng lần thứ 4 này của Việt Cộng. Nói thế để thấy Trung Cộng rất cay cú trước chiến thắng ở miền Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 của Việt Cộng. Không hiểu sau này khi dâng đất, dâng biển tặng cho Trung Cộng thì Việt Cộng có biết được chuyện Trung Cộng đã tìm cách viện trợ cho miền Nam chống lại cuộc tấn công của Việt Cộng năm 1975 hay không ?

Sau ngày đổi đời 30 tháng 4 năm 1975, Cộng sản đã không cho “tắm máu” hàng loạt như một số phóng viên ngoại quốc dự đoán nhưng đã cho “phơi xương” từ từ những người miền Nam ngã ngựa trong những trại tù cải tạo. Chính vị sự chết chóc do Cộng sản gây ra cho người miền Nam sau 30 tháng 4 làm cho người ta oán trách quyết định đầu hàng của Dương văn Minh. Nói Dương văn Minh đầu hàng để tránh sự đổ máu cho nhân dân miền Nam là một nhận xét không hoàn toàn đúng. Sài gòn không bị san thành bình địa vì quyết định đầu hàng của Dương văn Minh nhưng máu của người miền Nam vẫn tiếp tục đổ sau ngày 30 tháng 4… Cựu Thủ tướng VC Võ văn Kiệt đã thẳng thắn ca ngợi quyêt định đầu hàng của Dương văn Minh trong một bài viết kỷ niệm ngày 30 tháng 4 mới đây. Dĩ nhiên quyêt định này đã tiết kiệm nhiều sinh mạng bộ đội miền Bắc. Cộng sản trả ơn cho Dương văn Minh bằng cách không đưa Dương văn Minh vào trại cải tạo và cho ra đi nước ngoài định cư sau này. Nếu sau ngày 30 tháng 4 mà không có sự trả thù tàn bạo của Cộng sản đối với những người miền Nam ngã ngựa thì dư luận phê phán chắc chắn sẽ bớt nghiêm khắc về quyêt định đầu hàng của Dương văn Minh.

Ðỗ Mậu trong cuốn hồi ký “Việt Nam máu lửa quê hương tôi” đã phê phán ông Minh vận động để lên chức Tổng thống trong những ngày cuối của miền Nam là một chuyện “ách giữa đàng, mang vào cổ ” . Ðó là một nhận xét chí lý. Ông Minh không phải là một nhà chính trị khôn ngoan, can đảm, quyền biến. Ông đã sai lầm khi tìm cách giành chức Tổng thống trong giờ phút đất nước dầu sôi lửa bỏng nên ông đã phải hứng chịu nhiều sự chê trách, phê phán trong quyết định đầu hàng nhục nhã trong ngày 30 tháng 4. Nếu có một người lãnh đạo can đảm, tự trọng thì miền Nam dù có thua trận vì bị Mỹ bỏ cũng không có cảnh đầu hàng ô nhục như ngày 30 tháng 4. Còn nhớ lúc bộ đội VC tiến vào dinh, Tổng thống Dương văn Minh ngỏ lời : “Chúng tôi đang chờ các ông tới để bàn giao”. Tên bộ đội dội ngay một gáo nước lạnh vào mặt Dương văn Minh, “Các anh không có gì để mà bàn giao. Các anh chỉ còn đầu hàng vô điều kiện mà thôi”. Không hiểu ông Minh có nhục nhã khi bị mắng như trên không? Chỉ vì quá quý trọng mạng sống mà ông bị làm nhục quá sức. Một người lãnh đạo có liêm sỉ và tự trọng không bao giờ chấp nhận để cho đối phương làm nhục như thế cả. Mạng sống quý thật nhưng đôi khi danh dự và liêm sỉ của một con người, nhất là người lãnh đạo quốc gia, lại càng quý hơn. Sống đục sao bằng thác vinh là như thế.


Dương Văn Minh được trả tự do tại Dinh Độc Lập

Có đọc lá thư trên mới thấy Dương văn Minh là con người hiền hòa, nhưng rõ ràng ông không có cái Dũng của một người làm tướng. Về điểm này ông giống Ðại tướng Võ nguyên Giáp của miền Bắc, cúi đầu nhận chức Cai đẻ mà không dám hó hé phản đối. Trong phạm vi gia đình, sai lầm của người chủ gia đình có thể dẫn tới chuyện gia đình ấy suy sụp, tan vỡ. Còn nếu làm tới chức vụ nguyên thủ quốc gia như tướng Dương văn Minh mà “tham sinh úy tử”, nhu nhược, thiếu khôn ngoan quyền biến thì chỉ đưa quốc gia đến chỗ suy tàn, thảm bại. Bài học Dương văn Minh dành cho những người làm chính trị là phải luôn tự lượng sức mình, nếu mình “tài hèn, trí đoản”, tham sống sợ chết mà cứ nhắm tới những chức vụ to tát lãnh đạo quốc gia thì chức vụ cao trọng này không mang lại vinh quang mà chỉ mang lại cho mình những sự nhục nhã ê chề và bị bia miệng ngàn đời chê trách.

Los Angels, một chiều hiu quạnh, đìu hiu đầu tháng 10 năm 2006

TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG

Một cái nhìn về Dương Văn Minh


Ngày 30-4-1975, một quân lực đứng vào hàng thiện chiến và dũng cảm nhất thế giới đã bị trói tay và phải buông súng trước quân thù. Vì sự hèn nhát của lãnh đạo và sự phản bội của đồng minh.

Ngày 30-4-1975, VC đã dùng võ lực, xé nát hiệp định Ba Lê, bản văn mà chúng nó đã long trọng ký kết trước mặt thế giới.
Ngày hôm đó, nước Mỹ đã ôm đầu bỏ chạy, trước sự vi phạm thô bạo một hiệp định quốc tế, bản văn mà chính Mỹ đã khởi xướng và long trọng ký kết trước mặt thế giới. Ngày hôm đó, Tây Phương đã cúi mặt trước sự vi phạm một hiệp định quốc tế, bản văn mà chính Tây Phương đã cổ võ, ca ngợi, trước mặt thế giới, nhân danh những lý tưởng nhân đạo tự do và hòa bình.

Ngày 30-4-1975, khi xác của người sĩ quan QLVNCH tự sát dưới chân đài chiến sĩ đường Lê Lợi chưa kịp lạnh thì Dương Văn Minh mũ mãng “bàn giao” miền Nam cho VC. Đúng là một trò hề, một trò hề lơ láo của một tên hề lơ láo. Bọn VC nón cối dép râu mang xe tăng húc sập cánh cửa Dinh Độc Lập, tiến vào chiếm hữu ngôi nhà biểu tượng cho chủ quyền Quốc Gia của miền Nam, chứ đâu có vào để nhận bàn giao. Đối với VC, buổi lễ “bàn giao” hôm đó chỉ là một hành vi quỳ lậy và khiếp nhược của một tên tướng Nguỵ. Đối với người Quốc Gia nói chung và Quân Lực VNCH nói riêng, thì ngoài phong cách hèn hạ và khiếp nhược của một quân nhân, Dương Văn Minh còn là một đứa đần độn và háo danh.

Ngày 28-4-75, khi cu. Trần Văn Hương từ chức Tổng Thống VNCH, thì định chế hành pháp không còn nữa. Định chế lập pháp, tức quốc hội, thì lại không có quyền bầu tổng thống, hoặc chỉ định tổng thống, hoặc cho phép ai trao chức vụ tổng thống cho ai. Bởi lẽ: quốc hội không phải là sở hữu chủ chủ quyền nhân dân. Với tư cách thụ ủy đó, quốc hội chỉ được làm những điều mà nhân dân đã mịnh thị giao phó, qua những điều khoản được ghi trong hiến pháp. Mà hiến pháp thì không có điều khoản nào cho phép quốc hội được trao chức vụ tổng thống cho ai.

Tổng thống đương nhiệm lúc đó, cu. Trần Văn Hương, cũng không có quyền trao lại chức vụ tổng thống cho ai. Thổng thống đương nhiệm lúc đó, cu. Trần Văn Hương, cũng không có quyền trao lại chức vụ tổng thống cho người khác. Vì vậy, trong những ngày tháng chót của Quốc Gia miền Nam, khi Dương Văn Minh nằng nặc đòi cu. Hương trao quyền tổng thống VNCH cho y, thì mọi người đã nhìn thấy rõ cái hèn, cáo háo danh và nhất là cái đần độn của y. Y nằng nặc đòi được làm tổng thống, để mũ mãng đi đầu hàng.

Cái hèn và háo danh đần độn ấy đã chẳng giúp cho CS Bắc Việt ngụy tạo được hào quang cho cái gọi là đại thắng mùa Xuân. Cũng chẳng giúp cho các nhà làm lịch sử sau này có dữ kiện để viết rằng: chính quyền hợp pháp của Quốc Gia Miền Nam đã đầu hàng.

Ngày 30-4-1975, Quốc Gia Miền Nam chỉ còn là đống hoang tàn. Trên đống hoang tàn ấy, Văn Tiến Dũng và đoàn quân của y đã nhặt được một cái túi phong lưu (capote, condom), món trang sức của đêm giao hoan giữa thằng điếm tư bản quốc tế với con đĩ vô sản quốc tế. Văn Tiến Dũng ngậm cái túi phong lưu ấy vào mồm, thổi cho căng lên, gọi đó là đại thắng mùa Xuân.

Trước khi cái túi phong lưu được thổi căng lên, nó được lau chùi cho hết nhờn nhớt. Người lau chùi, là Dương Văn Minh.


Tôi không quen, nhưng biết Dương Văn Minh , hồi chưa mất nước, tôi từng nói chuyện với y nhiều lần. Hồi đó, câu lạc bộ thể thao Saigon có 4 sân quần vợt danh dự. Hội viện câu lạc bộ muốn có sân để chơi, phải ghi tên trước. Riêng Dương Văn Minh, vì là cựu quốc trưởng, y được câu lạc bộ dành cho sân số 4 (sát hàng rào, gần hồ tắm), mỗi buổi sáng thứ hai, từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa.

Vì vậy, những sáng thứ hai, trừ ngày mưa gió, người ta thường thấy Dương Văn Minh trên sân số 4. Y chơi quần vợt với bạn bè, với người con gái, hoặc với người con rể tên là Đài. Có khi y không chơi, chỉ ngồi trò chuyện.

Tôi thường gặp y ở chỗ này, và nói chuyện với y ở chỗ này.
Tôi muốn tìm hiểu về ba khuôn mặt nổi của chính biến 1963. Hai khôn mặt nổi khác, ông Trần Văn Đôn và ông Tôn Thất Đính, tôi đã biết khá nhiều. Chúng tôi cùng là thượng nghị sĩ.

Dương Văn Minh có cái bề ngoài đôn hậu, ăn nói chậm rãi. Người ta đã dùng nhiều tĩnh từ để nói về y, như nham hiểm, kỳ thị Nam Bắc, háo danh, v.v… Riêng tôi, thấy tội nghiệp. Không ai có thể ngờ rằng một người từng làm quốc trưởng, và được kỳ vọng như là một lá bài chính trị cho tương lai, lại có trình độ văn hóa thấp đến như vậy. Những ý niệm về lãnh đạo, như quyền uy (autorité), quyền lực (puissance), và quyền bính (pouvoir), rất xa lạ với y. Tôi đã mất khá nhiều thì giờ, và đưa ra trường hợp Nã Phá Luân, Nguyễn Huệ, để giải thích cho y hiểu rõ những thành tố của lãnh đạo, cũng như sự khác biệt sâu xa giữa quyền uy, quyền lực và quyền bính. Nhưng nhìn mặt, tôi biết y không hiểu lắm. Về CSVN và chính sách mặt trận thống nhất (politique du front uni) của CS trên thế giới, y cũng rất lờ mờ.

Y có mời tôi đến dinh hoa lan để “họp mặt” chính trị. Tôi đến một lần, để giữ lễ, và để y có dịp – nếu tôi không lầm – cảm ơn tôi đã giúp đỡ một vài đàn em của y trong vấn đề luật pháp. Những lần sau, tôi cáo lỗi. Tôi không muốn làm người khác lạ ngồi nghe những Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận giảng chính trị. Họ là những quần thần của Dương Văn Minh. Họ là những bộ óc lớn của Dương Văn Minh. Và khi những bộ óc lớn gặp nhau…

Có lẽ ông Vũ Văn Mẫu cũng một cảm nghĩ như tôi. Ông cũng từng là khách bất đắc dĩ của dinh hoa lan.

Trình độ học vấn của Dương Văn Minh đã thấp, nhân cách của y còn thấp hơn. Liêm sỉ của một tướng lãnh, thì lại quá tệ. Ai cũng biết: trong vụ đảo chánh 1963, y đã ra lệnh ám sát Tổng Thống Diệm trên chiếc xe tăng từ nhà thờ Cha Tam về Tổng Tham Mưu rạng ngày mùng 2 tháng 11. Nhưng sau này y chối. Chẳng những chối, mà còn đổ lỗi cho người khác. Trong cuốn “Our Endless War”, tướng Trần Văn Đôn – linh hồn của cuộc đảo chánh – đã phải bực mình và viết như sau: “Big Minh không bao giờ nhận trách nhiệm về vụ cố sát anh em ông Diệm và đổ lỗi cho người khác. Mỗi khi vấn đề được đặt ra, ông ta lại tìm cách lôi kéo tôi vào. Trong thời gian bị lưu đầy ở Vọng Các, Big Minh đã thanh minh với một linh mục Công giáo rằng ông không có trách nhiệm gì về vụ giết ông Diệm, Big Minh còn khuyên linh mục, nếu muốn biết rõ câu chuyện, thì nên đến hỏi tôi (“Our Endless War”, trang 314).

Trong những lần nói chuyện, tôi có hỏi Dương Văn Minh về vụ giết ông Diệm. Theo tôi, đảo chánh nào mà không đổ máu, và giết ông Diệm thì đã sao, nếu mình có chính nghĩa, hoặc tin rằng mình có chính nghĩa? Cần gì phải chối. Nhưng y vẫn chối. Cái hèn của Dương Văn Minh là ở đó. Và y đã sống suốt cuộc đời còn lại với cái hèn ấy.

Ngày 30-4-1975, sau khi được cu. Trần Văn Hương trao quyền tổng thống, y đã ra lệnh cho QLVNCH buông súng, “vì chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc” và “để cứu sinh mạng đồng bào”. Chúng ta hãy tạm cho y được hưởng lợi ích của sự nghi vấn. Chúng ta hãy tạm chấp nhận rằng: y kêu gọi và ra lệnh cho anh em QLVNCH buông súng, vì chủ trương hòa hợp hoà giải và để cứu mạng đồng bào. Nhưng khi VC vi phạm hiệp định Ba lê, trả thù man rợ các anh em QLVNCH, thì y không có được một lời để bênh vực các anh em đó. Chỉ cần một lời thôi. Chỉ cần một hành động thôi. Một lời và một hành động của chính cái kẻ đã kêu gọi anh em buông súng, nhân danh hiệp định Ba Lê, và nhân danh hòa giải hòa hợp dân tộc. Nhưng Dương Văn Minh đã im lặng. Vì hèn.

Ba năm sau khi đầu hàng, năm 1978 Dương Văn Minh được VC cho sang Pháp. Sang tới Pháp và suốt 19 năm sống bên Pháp, y cũng không có được một lời về số phận đau xót của các anh em QLVNCH trong các trại cải tạo và cho thân phận cùng cực của nhân dân miền Nam dưới ách bạo quyền CS. Vì hèn.

Y cũng không có được một lời xót xa cho cả triệu đồng bào ruột thịt đã chết trên biển khi đi tìm tự do. Vì hèn.

Năm 1997, y tuyên bố sẽ về VN để góp phần xây dựng đất nước. Người ta hiểu rằng trước khi tuyên bố như vậy, y đã được VC cho phép về VN. Người ta cũng hiểu rằng y đã được VC cho phép về VN để xây dựng nước VN dưới sự lãnh đạo của VC.

Năm 1963, hèn hạ, phản bội và làm tay sai. Mười hai năm sau, năm 1975, làm tay sai, hèn hạ và phản bội. Hai mươi hai năm sau, năm 1997, lại phản bội, làm tay sai và hèn hạ.

Suốt đời phản bội. Suốt đời làm tay sai. Suốt đời hèn hạ. Suốt đời háo danh. Suốt đời đần độn. Đó là Dương Văn Minh.

Nguyễn Văn Chức

Hồ sơ về tướng Dương Văn Minh trên website http://honvietquochoc.com.vn của CSVN

L.T.S: Hồn Việt số 11 (tháng 5/2008) đã đăng một số ý kiến về Tướng Dương Văn Minh. Đó là một số ý kiến bước đầu quan trọng, giúp ta tìm hiểu sâu hơn một sự kiện lịch sử, một con người. Kỳ này, Hồn Việt xin công bố bản tóm tắt của một công trình nghiên cứu công phu, nhiều tư liệu mới với độ tin cậy cao của ông Phạm Văn Hùng. Hi vọng rằng, với công trình nghiên cứu này, sự kiện về Tướng Dương Văn Minh sẽ được sáng tỏ thêm. Nó chứng minh thêm tầm vóc của ngày 30/4 lịch sử dưới sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát, kiên trì… của Bộ Chỉ huy tối cao đứng đầu là Lê Duẩn và của những người trực tiếp tham gia ở chiến trường miền Nam, của Trung Ương Cục miền Nam. Nó cũng chứng tỏ sự phối hợp tuyệt đẹp giữa quân sự - chính trị - địch vận… trong cuộc chiến tranh giải phóng. Nó nói lên sự phong phú vô tận của cuộc sống, của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc của lòng yêu nước Việt Nam…

Chúng tôi mong nhận được thêm nhiều ý kiến.

THÂN THẾ VÀ GIA ĐÌNH

- Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho. Cha là ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm).

Ông Dương Văn Huề và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gái. Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ.

Gia đình ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.

- Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đình ông Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa tìm được đơn vị thì bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp. Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường võ bị, là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “Việt Nam Cộng Hoà”.

Ông Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương người. Sợ sát sinh, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn thì ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè (1) là thiếu tá chế độ cũ bị tình nghi hoạt động cho “Việt Cộng” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta và là em bạn dì ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù…

- Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30/4/1975, ông được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dày. Có lúc lãnh đạo Thành phố (đồng chí Võ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ý khéo là Đảng và chính quyền thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lý do: “Các anh các chị sống được thì tôi cũng sống được nếu chưa quen thì phải tập lại cho quen”.

Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lãnh sự Pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng ông Minh từ chối, nói rằng “đã có Chính phủ Việt Nam lo rồi”.

Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp.

QUÁ TRÌNH BINH ĐỊCH VẬN ĐỐI VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH

Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 (Sài Gòn - Gia Định), Trí vận…

1/ Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam

Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đề nghị và được cấp trên đồng ý điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty. Cuối tháng 12/1960, đồng chí Mười Ty lên đường.

Tháng 8/1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đình, trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Sài Gòn và em thứ tám là Dương Thu Vân.

Thấy tình hình thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình Diệm độc tài, gia đình trị, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm.

Ngày 01/11/1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng Việt Nam Cộng Hòa lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ý định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục.

Sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay thì hết tranh cãi về điều này, nhưng vẫn còn cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.

Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:

+ Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh vì sao làm thế? Ông trả lời, đại ý: Người Việt Nam có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó đời mình và mồ mả ông cha. Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của mình.

+ Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói… Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.

+ Tháng 1/1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.

+ Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt hòa đàm, chống mọi xu hướng trung lập.

- Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ý đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng 01/1964, chính quyền Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Hòa Việt Nam bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay Cộng sản”.

Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền Sài Gòn phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA, làm con bài dự trữ.

Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng vì bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.

Khi chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ý kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử thì ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lý gì, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba cháu không còn lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn…

Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Võ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được…”

Cuối năm 1970,… theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.

Tháng 3 và 4/1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì tìm cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.

Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Sài Gòn gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Sài Gòn “án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.

2/ Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”

Tháng 9/1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Sài Gòn - Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”… (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư ký tòa soạn báo Điện Tín, báo Đại dân tộc…).

Đầu năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban An ninh T4, chỉ đạo A10 tìm cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.

Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đòi Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống).

Ngày 01/3 và cuối tháng 3/1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…) vào căn cứ báo cáo với đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “…Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của Đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.

3/ Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh

Cụm điệp báo VĐ2 thuộc phòng tình báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28/4/1975, ông Cang đến gặp Đại tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở tình báo) hẻm đường Triệu Đà, Sài Gòn, để báo ý kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn tìm gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam để xin ý kiến xử trí tình hình Sài Gòn. Đồng chí Sáu Trí phân tích tình hình và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ý kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh – Nguyễn Văn Huyền – Vũ Văn Mẫu.

4/ Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị

Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7/1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo, lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”.

Năm 1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí Quốc Hương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đã chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba.

Trên thực tế thì lực lượng ta đã hình thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6/1969 với mục tiêu là: đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giải dân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02/1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đòi thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.

Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, ký giả, tướng lĩnh . Hằng tuần, nhóm họp bàn về tình hình thời sự chính trị (lúc tình hình sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn Minh có Văn phòng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước.

- Theo ông Lý Quý Chung (Hồi ký), tuần lễ đầu tháng 4/1975, tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đã họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ý định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh.

5/ Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn

Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hình hiệp định Paris, hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đòi dân chủ, cải thiện dân sinh… các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 ký giả Sài Gòn ngày 10/10/1974, ngày “ký giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đã có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20/4/1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh… đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hành hiệp định Paris, đòi hòa bình, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT…, là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.

MỸ, PHÁP VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH


* Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng hòa miền Nam có dân chủ, nhưng phải thất cử để trở thành lãnh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng Dương Văn Minh từ chối. Đại sứ Mỹ Bunker còn trắng trợn hỏi ông Minh cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía của phòng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa). Cuộc bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định rút lui, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ – Thiệu.

Sau khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đã bị nhân dân và báo chí Sài Gòn đấu tranh đòi Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. Trần Văn Hương trì hoãn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, mãi đến ngày 26/4/1975, lưỡng viện Sài Gòn đã bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với 147/151 phiếu.

* Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28/4/1975), Bộ Ngoại giao Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam) gợi ý Chính phủ Cách mạng lâm thời nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.

Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, sáng ngày 30/4/1975, tướng tình báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ý ông Minh nên kêu gọi Trung Quốc can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc”.

TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỚI 3 NGÀY LÀM TỔNG THỐNG

15 giờ chiều ngày 28/4/1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.

Tổng thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng.

Về Bộ quốc phòng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ Trưởng. (Theo ông Lý Quý Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc phòng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh).

17 giờ ngày 28/4/1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.

Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi ký), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề phòng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).

Đêm 28/4, Tướng Dương Văn Minh và gia đình dời đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).

Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi ký), đêm 28/4/1975, hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo thì có thể ra đi. Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.

Ngày 29/4/1975

Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ để giải quyết hòa bình ở Việt Nam.

Đến 16 giờ chiều ngày 29/4, đã thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đã tan rã (trừ bộ phận biệt phái).

Tổng thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29/4/1975, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đã ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.

Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Võ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đã thông báo với phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, vì đã thông báo cho bên trong biết “Sài Gòn không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29/4/1975).

Từ chiều và tối ngày 29/4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngõ”, đầu hàng. Như ông Lý Quý Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương Văn Minh: “còn chờ gì nữa mà không đầu hàng”.

Ngày 30/4/1975

- 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đã chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ tình hình quân sự. Sau đó, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê Duẩn).

Tổng thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này.

- 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ý có nhật lệnh cho quân đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh này. Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát thanh.

9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”.

Sau đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng.

Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở thì tùy”.

11 giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

KẾT LUẬN

1/ Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ lúc đầu còn mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có hòa bình, độc lập và hòa hợp dân tộc.

2/ Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29/4/1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..

3/- Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần chúng ở thành phố Sài Gòn – Gia Định đã tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn Minh; được sự đồng tình, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đã quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30/4/1975 là hành động thức thời, làm giảm ý chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Sài Gòn vào những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo thuận lợi cho quân giải phóng tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn còn nguyên vẹn và không đổ máu. Nhiều thành phố và thị xã khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rõ giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, công bằng mà nói, hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đã góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ và nhân dân, thành phố Sài Gòn và nhiều đô thị còn nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30/10/2004

____________

(1) Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế – xã hội – thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam.

(2) Phát biểu của ông Dương Văn Minh trong cuộc Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban quân quản TP. Hồ Chí Minh tuyên bố trả quyền công dân cho toàn bộ viên chức Chính phủ “Việt Nam Cộng Hoà”.

(3) Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội.

(4) Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng tướng Trần Văn Trà.

Dương Minh Đức con trai Dương Văn Minh nói gì về ngày 30/4 ?

Kỹ sư Dương Minh Đức (con trai ông Dương Văn Minh – nguyên Tổng thống chính quyền miền Nam, nhậm chức không đầy 72 giờ trước 30/4/1975) được du học ở Pháp từ năm 1962. Ông tốt nghiệp kỹ sư ngành điện lạnh và sau này làm việc hãng Konica. Về thăm quê nhà đúng dịp kỷ niệm 34 năm giải phóng miền Nam, ông bày tỏ một số suy nghĩ về ngày 30/4.


Ông Dương Minh Đức

- Từ sau khi ba tôi mất, nhiều lần trở lại Việt Nam, chứng kiến nhiều đổi thay của đất nước, tôi càng thấm thía khi nhớ lại những lời ba tôi thường nhắc nhở: “Mình có làm gì, đi đâu cũng phải nghĩ đến dân tộc là trên hết, phải trở về với dân tộc”. Kỹ sư Dương Minh Đức bày tỏ trong buổi trò chuyện với chúng tôi tại ngôi nhà riêng trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (ngôi nhà nằm trên khu đất rộng còn gọi là dinh Hoa Lan, được cấp cho gia đình Đại tướng Dương Văn Minh từ thời chính quyền cũ).

Tản mạn một chút về tuổi thơ, kỹ sư Đức nhắc lại vài kỷ niệm cùng người chị gái Dương Thị Xuân Mai, em trai Dương Minh Tâm và Dương Thanh Bình, Dương Thanh Xuân – hai cô em con chú ruột (con ông Dương Thanh Nhựt, lúc ấy đang được ông bà Dương Văn Minh cưu mang). Hồi trước khuôn viên dinh Hoa Lan có giàn hoa lan rất đẹp; giờ không còn hoa vì không còn ai chăm sóc. Trong nhà, trừ phòng khách, cách bài trí ở các gian phòng đã thay đổi theo thời gian khá nhiều.

Thế nhưng, đôi lúc ngồi lặng yên, kỹ sư Đức tưởng như không khí sinh hoạt thân mật của gia đình vẫn còn bàng bạc trong ngôi nhà, nơi bàn ăn lớn. Lũ trẻ năm xưa, giờ có người định cư ở Mỹ, người là kỹ sư tin học ở Pháp, người là giáo sư Toán ở Australia và người đang là luật sư làm việc tại Việt Nam. Ngẫm lại, hình như mỗi gia đình đều có câu chuyện riêng trong hoàn cảnh chung của đất nước.

Tuy vậy, kỹ sư Đức cười nhẹ – ông cho rằng câu chuyện gia đình mình với người cha ruột là vị tướng lãnh của Sài Gòn cũ vang danh sau đảo chính Ngô Đình Diệm và chú ruột là người của cách mạng, không phải là trường hợp hiếm hoi của một gia đình Việt Nam trong giai đoạn lịch sử vừa qua. Nhưng đó là “điểm đáng chú ý” để Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ nghi ngờ dinh Hoa Lan là nơi che giấu ông Dương Thanh Nhựt.


Gia đình Dương Văn Minh ở Đà Lạt

Ông ấy có từng về dinh Hoa Lan không? Khi chúng tôi đặt câu hỏi, kỹ sư Đức khẳng định chú ruột của ông không hoạt động ở đây (bởi hai cô con gái của ông Nhựt lúc ấy đang ở dinh Hoa Lan, dù đã thay tên, đổi họ nhưng vẫn sợ bị lộ khi nhận ra ông!). Mãi sau này, lúc còn là sinh viên ở Paris, kỹ sư Đức mới có cơ hội gặp gỡ ông Dương Thanh Nhựt trên đất Pháp.

Được hỏi ý kiến nhận xét sự kiện lịch sử ngày 30/4/1975, kỹ sư Dương Minh Đức cho rằng với tư cách là một người con, ông có thể hiểu phần nào tâm tư, quan điểm của người cha, khi ông Dương Văn Minh đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ.

- Tôi rất yêu quý ba tôi và vì là con trai lớn trong gia đình, được ông trò chuyện, trao đổi nhiều vấn đề nên tôi có thể cảm nhận được quan điểm sống, quan điểm chính trị của ông. Thứ nhất, ông là vị tướng sống trong sạch, không chấp nhận chuyện tham nhũng; thứ hai, trong nguyên tắc tìm giải pháp hòa bình cho đất nước Việt Nam, theo ông phải do chính người Việt Nam tự giải quyết. Tôi hiểu quan điểm của ba tôi luôn đặt dân tộc và sinh mệnh nhân dân trên hết.

Chính vì vậy, ông không ngại đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống trong buổi hoàng hôn của một chế độ; trong tình thế các quân khu thi nhau thất thủ, các tướng lãnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa tháo chạy và quân đội giải phóng đang chuẩn bị các mũi tiến công vào phòng tuyến Sài Gòn…

Ba tôi là người luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc và ông đã bác bỏ ý kiến của một số người yêu cầu “tử thủ” Sài Gòn. Tôi tin rằng đây là quan điểm xuyên suốt trong cuộc đời chính trị của ông “ yêu nước trước hết là phải cứu dân”. Trước đây, khi Mỹ đòi ném bom trên đê sông Hồng, chính ba tôi đã phản đối hành động này của Mỹ, họ làm như vậy chính là nhằm hủy diệt Hà Nội, sát hại nhân dân Việt Nam…!

***

Kỹ sư Dương Minh Đức cho biết ông có ý định trở về sống hẳn ở Việt Nam. Quê nhà đã thực sự làm ông thoải mái khi luôn được nghe tiếng mẹ đẻ, hiểu rõ tâm tư và được trò chuyện, san sẻ nhiều điều với bạn bè.
Hiện tại, ông tham gia hoạt động làm từ thiện cùng NSƯT Kim Cương trong việc hỗ trợ máy vi tính cho chương trình đào tạo nghề cho người mù ở Xuân Thới Thượng – Hóc Môn.

Ông bày tỏ: Hồi nhỏ, sống ở dinh Hoa Lan, chúng tôi chịu ảnh hưởng má ở tính hay làm từ thiện. Má tôi chủ trương công việc làm từ thiện thật căn cơ, cụ thể. Nếu muốn giúp đỡ ai thì phải làm sao đỡ đầu cho đến khi họ tự lực được. Má tôi giúp trẻ mồ côi bằng cách mua lò bánh mì và tạo điều cho trẻ học nghề. Các em khi biết làm bánh mì, sẽ tự xoay xở sống bằng chính tay nghề của mình.

Lâu nay tôi muốn góp phần trang bị kiến thức, đào tạo kỹ năng, dạy nghề thiết thực về vi tính, về kỹ thuật làm phim ảnh cho người khuyết tật để họ có thể phát huy óc sáng tạo, làm ra sản phẩm và sống được bằng nghề nghiệp chuyên môn của họ. Tôi đã có dự án đào tạo và tìm đầu ra cho sản phẩm. Trong tương lai, nếu được phép, tôi nghĩ địa điểm dinh Hoa Lan sẽ là nơi góp phần hỗ trợ hữu hiệu nhất cho hoạt động từ thiện này.

01-06-2009
KIM ỬNG
http://honvietquochoc.com.vn/Tu-lieu/Tu-lieu-lich-su/Tro-chuyen-voi-con-trai-Duong-Van-Minh.aspx

------------------------------------------------

Duc H. Vu :

Qua những dữ kiện tài liệu, tin tức, bình luận nhận xét từ nhiều nguồn khác nhau về hàng tướng Dương văn Minh, trong cương vị của một người lãnh đạo, một người tướng, một người lính quân nhân của QLVNCH, hẳn còn nhớ đến câu "Tổ quốc - Danh dự - Trách nhiệm" là gì nhất là trong thời binh biến ly loạn và biết qua những gương sống của người xưa (tổ tiên, tiền nhân) của mình mà DVM nói ra câu phủi tay :

(trích)
Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở thì tùy”.
(ngưng trích)

suy diễn ra :

Tổ quốc : VNCHbây giờ không còn nữa
Danh dự : Chưa một lần trong đời có được thì hỏi nhắc đến làm gì cho thêm phiền
Trách nhiệm : Xong, phủi tay đứng dậy, bỏ đi thế là hết

Con người như DVM như thế đó, xin đừng ai đem hàng - hèn tướng DVM ra so sánh với ngũ hổ tướng VNCH, và cũng đừng đem gương của người xưa anh hùng tuẫn tiết ra mà ví von so sánh hoặc đòi hỏi nơi con người hàng - hèn tướng DVM

để có câu kết luận về hàng tướng DVM này, tôi xin mượn câu nói nhận xét của luật sư Nguyễn văn Chức nói về hàng - hèn tướng Dương văn Minh như sau :

"Suốt đời phản bội. Suốt đời làm tay sai. Suốt đời hèn hạ. Suốt đời háo danh. Suốt đời đần độn. Đó là Dương Văn Minh."

Một ngày cuối Tháng Tư Đen 2011
Duc H. Vu