Thursday, July 31, 2014

Võ Thị Hảo – Việt linh khí đã thoát ra từ nơi địa ngục

Từ độ linh hồn đã bị nhốt nơi địa ngục, cõi nhân gian dường như chỉ còn lại những đấng văn nhân đang cúi mặt, ngậm miệng ăn tiền, rồi tụng lên những lời ca lạc loài, giữa tiếng thét kêu oán hờn của hàng triệu sinh linh.

Thì thật may mắn thay, trong cái bi thương đó, có một vệt linh khí, đã vượt ra khỏi xiềng xích ngục tù, tụ lại, rồi tỏa ra luồng sinh khí mới, cho văn học đất Việt. Họ đã rạch ra một lối đi, cách viết mới cho dòng văn học hiện thực phê phán đương đại. Hiện tượng ấy, tuy không làm thay đổi cả diện mạo nền văn học định hướng, bao cấp èo uột, nhưng nó lại được cất lên, làm sống lại những trái tim khát vọng công lý và sự thật, đã bị nhấn chìm từ bấy năm qua. Qủa thật, họ là những tên tuổi, nữ sĩ, văn nhân đích thực nhất của văn học đất Việt hiện nay.

Võ Thị Hảo, là một trong số những nhà văn tài năng và can trường đó.

* Sự thực xã hội tàn khốc trong bức tranh siêu thực:

Gần đây, đài báo và một số nhà phê bình cho rằng, Võ Thị Hảo là một nhà văn phản kháng. Không thể phủ nhận ý kiến trên, nhưng tôi lại hoàn toàn không thích, gọi chị bằng cái tên ấy. Với tôi, trước sau chị vẫn chỉ là một nhà văn hiện thực nhân đạo. Có khác chăng, chị đủ dũng trí để nhảy ra khỏi cái Dạ Tiệc Qủi, mà bấy lâu nay, chúng ta vẫn cam chịu làm món mồi ngon trên chiếc bàn ấy mà thôi. Và tôi cũng không muốn đặt lên đôi vai gầy của chị cái “động từ phản kháng“ to vật vưỡng với sức nặng ngàn cân như vậy. Bởi những cái chị viết đều là sự thật, một sự thật mà bấy lâu nay, ai cũng biết, cũng hay, nhưng đều mắc chứng giả vờ không biết. Nên khi đọc, nhất là khi gặp gỡ, tiếp xúc, đã cho tôi cảm giác, sự mềm mại, mong manh của chị, sao mà nó khác với sự quyết liệt, đi đến tận cùng trong văn chương đến thế.

Nhà văn Võ Thị Hảo sinh năm 1956 tại Nghệ An, là cựu sinh viên trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Đã trải qua nhiều nghề, nhiều công việc khác nhau, nhưng cuối cùng viết văn mới chính là nghiệp, là đam mê đích thực của chị. Đam mê là thế, nhưng chị lại bước chân vào làng văn khá muộn bằng truyện ngắn đầu tay mang tên Người Gánh Nước Thuê vào năm 1989.

Trước khi đến với nghiệp văn, Võ Thị Hảo đã có vài năm lăn lộn với nghề báo, đặc biệt, theo năm tháng, càng có nhiều tác phẩm văn chương, chị càng gắn kết chặt chẽ và dấn thân hoàn toàn vào nghề báo, dù có lúc bị dọa giết chỉ vì dám điều tra và công bố sự thật bỉ ổi của những kẻ mạnh. Những năm tháng làm báo cho chị điều kiện tiếp xúc với sự thật, với những dân oan làm cho chị thấu hiểu một cách sâu sắc về sự nhiễu nhương, vô đạo của xã hội và những oan trái đắng cay cũng như thân phận con người. Vốn sống đó của chị ngày càng phong phú và thêm nặng trĩu hành trang, mà chỉ riêng văn hoặc riêng báo không thôi thì không đủ sức chuyển tải, do vậy chị buộc phải tận dụng sức mạnh của văn chương song song với sức mạnh của báo chí, phim ảnh và cả hội họa để chia sẻ những đau đáu, khát khao của kiếp người tới bạn đọc. Người viết là vậy, nếu ta có trái tim sống được đời mình và đời tha nhân, khi không chia sẻ, không cất lên lời ca của lương tri, trái tim ta cơ hồ vỡ nát.

Với tài năng bẩm sinh, thêm một trái tim đa cảm, chỉ sau một thời gian ngắn, chị đã cho ra lò hàng loạt truyện ngắn, tiểu thuyết và kịch bản phim, sân khấu. Tập truyện nào của chị cũng hay, đều gây được tiếng vang, không chỉ trong nước. Mỗi câu chuyện, một đoạn văn của chị như nhát dao đâm thẳng vào những ung nhọt của xã hội đương thời. Do vậy, nhiều tác phẩm cả văn chương lẫn báo chí của Võ Thị Hảo đã nhiều lần bị từ chối, bị ngăn cấm xuất bản ở trong nước, chẳng hạn tập truyện ngắn Ngồi Hong Váy Ướt, tiểu thuyết Dạ Tiệc Qủy và vô số bài viết khác.

Đọc Võ Thị Hảo khá nhiều và đã từ lâu, nhưng Dạ Tiệc Qủy, do Tủ Sách Tiếng Quê Hương ở Mỹ xuất bản đầu năm 2013, gây cho tôi cảm xúc mạnh nhất.

Thật vậy, đọc xong, gấp cuốn sách lại, tôi rùng mình. Lúc này, chỉ còn đọng lại một cảm giác: Dạ Tiệc Qủy đã diễn tả, khắc họa những điển hình nổi bật nhất về một xã hội quái thai có thật nhưng vượt khỏi mọi hình dung của con người và chỉ có thể khắc họa nó với không khí, với môi sinh đặc trưng trong cơn lên đồng với thủ pháp tái hiện ác mộng. Đó cũng là thi pháp đặc trưng của Võ Thị Hảo trong tiểu thuyết Dạ tiệc quỷ.

Với Dạ Tiệc Qủy, sự khắc họa cá tính, nội tâm nhân vật đã được cài đặt sâu trong lời thoại hay những đoạn văn miêu tả thông qua một hệ thống lúc trực diện tàn khốc, lúc ẩn dụ siêu hình, bút pháp biến ảo khôn lường.

Có điều lạ và thú vị, tuy Dạ Tiệc Qủy, được chia thành chương hồi, bố cục gắn kết nhau rõ ràng, nhưng khi đọc không nhất thiết phải đọc từ trang đầu tiên, mà ta có thể đọc chương cuối lộn lên, hoặc từ chương giữa đọc ra. Nhưng sự hiểu, sự cảm nhận của người đọc đối với tác phẩm vẫn hoàn toàn không thay đổi, nếu khi đọc, ta có một chút tư duy liên tưởng. Như vậy, rõ ràng ngoài bố cục chung, mỗi chương hồi đều có bố cục riêng và có thể đứng độc lập. Chính vì thế, hiệu quả mà Dạ Tiệc Quỷ mang đến cho người đọc mạnh hơn hẳn những tiểu thuyết thông thường. Đây là sự sáng tạo rất độc đáo của tác giả.

Trong tiểu thuyết, nhà văn thường chắp nối những tình tiết hoặc có thật hoặc hư cấu để để xây dựng bối cảnh, nhân vật sao cho đạt đến mức chân thật nhất. Nhưng đọc Dạ Tiệc Qủy, ta lại thấy Võ Thị Hảo đã đi ngược lại lẽ thông thường ấy. Chị đã đưa những sự việc có thật nhất ngoài xã hội vào bức tranh siêu thực của mình. Tại sao lại như vậy? Phải chăng, trong bối cảnh sống hiện nay, chỉ đằng sau cái thực hư, ma quỉ chập chờn ấy, tác giả mới có thể tung hết bút lực của mình và đẩy bi kịch, hoặc phơi trần sự thật tới cung bận cao nhất? Và hơn thế nữa, tác giả muốn mang đến cho người đọc, một cảm giác, cách đọc hoàn toàn khác (rất riêng, rất Võ Thị Hảo). Đây thủ pháp mới lạ, một con dao hai lưỡi. Nếu người viết không có tài sử dụng ngôn từ, không có trí tưởng tượng và kết nối liên tưởng phong phú, thì cuốn sách trở thành giả tạo, nhạt phèo. Tuy nhiên, cách viết này, nó chỉ mới trong văn chương Việt, vì trước Võ Thị Hảo, cũng đã có một số nhà văn ngoại quốc sử dụng cách viết tương tự.

Thật vậy, không chỉ riêng tôi, mà nhiều nhà thơ, nhà văn, lý luận phê bình và bè bạn tôi, đã bị Dạ Tiệc Qủy hoàn toàn chinh phục. Vì vậy, có thể nói, Võ Thị Hảo là một trong số rất ít các nhà văn VN hiện nay,(kể cả trong và ngoài nước) đã viết và sáng tạo rất thành công ở thủ pháp này.

Tuy vậy, Dạ Tiệc Qủy lại hơi kén người đọc. Bởi lời văn súc tích, trừu tượng, nhiều tầng ngữ nghĩa, buộc người đọc phải suy nghĩ, phải có cảm nhận riêng của mình. Nếu người đọc hời hợt, lười suy nghĩ, chắc chắn sẽ bỏ dở trang sách. Do vậy, đọc Dạ Tiệc Qủy, tôi cảm thấy mình cũng như đang ngồi viết vậy. Công việc nặng nhọc này, có lẽ, không kém người ngồi viết ra nó là bao. Và đọc xong, tưởng mình vừa là món gỏi nhắm ở trên bàn tiệc, thấy run rẩy, vã hết cả mồ hôi hột.

* Người đàn bà có đôi mắt kim cương và cả một dải đất hình chữ S bị cưỡng hiếp:

Dạ Tiệc Qủy là bức tranh thu nhỏ của đời sống, xã hội con người trải dài trên nửa thế kỷ. Nó bắt đầu bằng những cuộc đấu tố giết người, cướp của, cướp đất, một cách dã man, tàn bạo, được ngụy trang dưới mỹ từ cải cách ruộng đất. Rồi hai mươi năm chiến tranh, huynh đệ tương tàn, đẫm máu và nước mắt, dẫn đến những cuộc vượt biển, chạy trốn kinh hoàng, rùng rợn nhất, kể từ ngày lập quốc đến nay. Trên hết, là những gam màu xám ngắt đè lên toàn bộ bức tranh của những bóng ma cà rồng, dưới cái chủ thuyết quái đản. Nó đang đưa xã hội, con người vào vòng xoáy bạo tàn được tạo ra bởi những lực lượng được đặt tên là “ đang thực thi tội ác chống lại loài người”.

Trước Dạ Tiệc Qủy, đã có nhiều nhà văn viết về Cải cách ruộng đất – những tội ác do nhà cầm quyền Việt Nam gây ra ở những năm năm mươi của thế kỷ trước. Nhưng viết một cách trần trụi, quyết liệt như Võ Thị Hảo, thì quả thật không nhiều. Có nhà nghiên cứu cho rằng, văn của Dạ Tiệc Qủy khô và khốc liệt. Tôi lại nghĩ khác một chút, văn của Dạ Tiệc Qủy, không hề khô, ngược lại, rất bay, mang đậm chất thơ, nhưng hiệu quả chuyển tải quả thực đầy sức nặng. Tuy ngôn từ nhiều đoạn rất dân dã giản dị, nhưng do tài năng sử dụng (từ ngữ) của người viết, câu văn trở nên sinh động, sắc nhọn, có sức lan tỏa thấu ngay tim người đọc. Vì vậy, nó gây hiệu ứng tức thì và đẩy sự việc lên nấc cao nhất, khốc liệt nhất, khi miêu tả, cũng như lên án hành động, nhân vật.

Tôi không rõ, trào lưu văn xuôi chấm xuống dòng, gọi là thơ mới, thơ trừu tượng, đọc không để hiểu, như dạng bài viết mấy bà đánh dậm, hay tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ…gì gì đó của Nguyễn Quang Thiều, ra đời từ khi nào?. Nhưng xin bảo đảm, tôi có thể trích ra từ Dạ Tiệc Qủy, ra hàng chục đoạn văn hay, đẹp, sáng, hình tượng hơn thơ của ông phó chủ tịch hội nhà văn VN này nhiều lần.

Có lẽ, nhờ sinh trưởng từ miền quê, nên Võ Thị Hảo hiểu về nông thôn hơn ai hết. Vì thế, từ cách đặt tên nhân vật, như tên Dậm gắn liền với cái nghề đánh dậm nghèo đói lam lũ, cho đến hình ảnh giết người man rợ hơn cả thời trung cổ, bằng những cuốc mẻ, vồ đập đất… tác giả đưa vào trang văn rất chi tiết và thuyết phục. Sự chân thực đó, đã làm bức tranh trở nên sống động, dù thời gian trên nửa thế kỷ đã trôi qua.

Vâng! Cũng chính nhát cuốc mẻ, cái vồ ấy, đã đập rung Văn Miếu, bổ nát linh hồn Việt ngàn năm. Nó cắt đứt, phá tan tành mối quan hệ gia đình, làng xóm và tình người. Và bức tranh oan nghiệt, đẫm máu nước mắt đó, đến nay, vẫn chưa một lần được gột rửa. Bởi không ai ngoài các thế hệ nhà cầm quyền VN phải gánh món nợ ấy, phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc gột rửa nó. Họ phải trả lại công bằng cho những người oan khuất và cho người dân VN qua một chuỗi hành động tối thiểu, để sòng phẳng lại, vớt vát lại linh hồn công lý đã bị họ làm cho rữa nát của nước Việt. Nhưng điều đó, nhà cầm quyền VN đã nhất quyết không làm và vì thế họ chẳng bao giờ vãn hồi được danh dự.

Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn trích truyền cảm, mang mang hồn thơ dưới đây, mà tôi không thể lược, cắt ngắn hơn được nữa, vì bố cục chặt chẽ. Chúng ta đọc, để thấy rõ sự tàn bạo, lưu manh, phản trắc của giai cấp mới(ma cà rồng). Và trong đó, dường như, ta cũng nghe được tiếng vọng lên oán hờn, của những linh hồn vô tội: 

“… Vì là đã là linh hồn thì đâu cần quần áo. Linh hồn chỉ trần truồng mà bay.

Ông Cử đã sang thế giới bên kia.

Tiễn đưa ông, là một chiếc cọc. Ba sợi thừng chuyên trói chó để cắt tiết và buộc lợn vào thang mà thiến của nhà ông Dậm. Một loạt đạn trong nòng súng kíp tự chế.

Rộn ràng hơn, thêm ba nhát cuốc mẻ và mười bảy nhát vồ đập đất.

Để cho vỡ nát đôi mắt thảng thốt.

Cho vỡ nát cả cái uất hận đang đọng lại dưới tròng mắt mở chong chong.

Bộ óc mẫn tiệp từng dạy học, từng làm thơ, từng cho thuốc cải tử hoàn sinh cả ngàn mạng người trong xứ, đã bị loạt đạn tự chế của con ông cu Cáy nhồi vào nòng súng làm nổ tung.

Ông cu Cáy trước đây đã được ông Cử cứu mạng trận đau bụng bão. Đau đến mức cắn đất cắn sỏi, bò lê bò càng trên mặt đất. Chỉ còn nước bó chiếu đem chôn. Thế mà ông Cử cứu được, qua một ngày lại dậy, uống một bát nước chè xanh pha mật mía, ăn một rá khoai rồi đi cày.

Chuyện đó đã qua lâu rồi. Nay thì viên đạn của con ông cu Cáy đã làm tinh óc ông Cử trắng hồng phọt ra ruộng mạ. Óc ông Cử làm bữa tiệc cho lũ giun đất và sâu bọ.

Linh hồn ông Cử lên trời.

Để lại bàn thờ tổ tông chói loà bảy đời cụ kỵ khoa bảng…”(DTQ-chương1)

Dưới ngòi bút Võ Thị Hảo, cái chết của ông Cử và vợ con ông càng tàn nhẫn bao nhiêu, thì hành động man rợ, thâm độc tàn ác, đểu cáng của những Dậm, của những bần cố nông …lại càng vọt lên bấy nhiêu. Ở đây, chúng ta, không chỉ thấy được những kẻ vô học, dốt nát, sau một đêm trở thành những ông trời con: “…Chỉ sau một đêm ngủ dậy, ông thấy mình oai vệ như trời, muốn đổ cho ai cái tội gì thì y như rằng người ta bị tội ấy. Trời cũng chỉ đến thế thôi, cho ai sống thì được sống, bắt ai chết thì phải chết…” (DTQ-chương 1). Mà ta còn thấy được, sự thật ai đã dúi cái cuốc mẻ, cái vồ đập đất vào tay, để chúng trở nên hung hãn như vậy: “…Trong thiên hạ, bần cố nông là thần là thánh, vinh quang chỉ kém cán bộ Đội cải cách có một bậc…” (DTQ-chương1).

Vâng! Ông đội còn ngồi trên cả thần thánh. Ông lại là người của đảng, đồng chí của đảng. Vậy thì, thủ phạm không ngoài ai khác, chính Đảng đã dúi chiếc búa, cái vồ đó vào tay kẻ giết người. Và cũng chính Đảng đã đưa những tên đểu cáng vô học, như Dậm, như chánh văn phòng tỉnh ủy, như giám đốc sở văn hóa, hay một viên đại tá… tới những chức quyền cao ngất ngưởng, vươn vòi bạc tuộc nhơ nhuốc hút khô tấm thân gầy đất mẹ. Chính sự lưu manh hóa, đểu cáng hóa ấy, đưa đến một xã hội, pháp luật, đạo đức, tình người bị đảo lộn tùng phèo: “Cả dải đất này người ta cưỡng hiếp nhau. Một chữ S to đùng bị cưỡng hiếp…” (DTQ-chương11).

Tuy Võ Thị Hảo không dụng công xây dựng nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Nhưng khi đọc, ta lại thấy, dường như tác giả đã nhập đồng vào vào Miên, một nhân vật phôi thai từ cưỡng hiếp. Miên – cô gái đẹp có đôi mắt kim cương, cả đời phải trốn chạy, luôn luôn bị chính Dậm, người cha, một tên bần cố đại lưu manh, từ nghề đánh dậm, đã lộn ngược lên chức bí thư tỉnh ủy và Đồng Đảng, tìm cách cưỡng hiếp. Không chỉ cưỡng hiếp Miên, bạn Miên, mà chúng còn nuốt tất cả những gì, có thể nuốt được, kể cả những linh hồn đã hóa thạch mấy ngàn năm…

Những tình tiết cuộc đời của nhân vật Miên cũng chính là sự nhân cách hóa hình ảnh của đất nước Việt Nam ngàn năm thương đau, ngàn năm phải trốn chạy sự lăm le, bạo lực, sự cưỡng hiếp của người trong nước với nhau và sự cưỡng hiếp của những kẻ ngoại bang

Mang theo mối oan khiên ấy, và trải qua một cuộc trốn chạy, vượt biển kinh hoàng, Miên trở thành người của giới thượng lưu. Hành động trở về trả thù của Miên, có người cho là đơn lẻ và tiêu cực. Nhưng với tôi, đó là hành động can trường, một sự phản kháng mãnh liệt, tích cực theo qui luật vay trả rõ ràng. Vâng! Món nợ đó dứt khoát phải đòi, buộc những tên đồ tể và tên đầu sỏ Đồng Đảng, phải trả.

Xây dựng nhân vật Miên và nhân vật phản kháng giấu mặt kế tiếp, sau cái chết của Miên, theo tôi, đây chính là sự can đảm, không nhân nhượng, không khuất phục của nhà văn. Và hơn thế nữa, nó còn gợi mở ra một điều, dù oan hồn có bị đày về với Qủy, thì nhà văn vẫn miệt mài đi gây mầm sống, đòi lại linh hồn đúng nghĩa của hai chữ CON NGƯỜI.

Nếu chúng ta đã đọc, Ly Thân của Trần Mạnh Hảo, Chuyện Ba Người Khác của Tô Hoài, hay Thời Của Thánh Thần của Hoàng Minh Tường gần đây, thì chắc chắn thấy thiếu sức mạnh, sự quật khởi, sự nổi loạn của nhân vật Miên, thiếu cái sự phản kháng quyết liệt, máu lửa ấy. Dù những tác phẩm trên rất hay, nhưng mới chỉ dừng ở mức độ lột trần sự thật nên khi đọc, tôi cảm thấy tôi tội tội, hèn hèn thế nào ấy. Nhưng đến khi đọc Dạ Tiệc Qủy, cái cảm giác ấy trong tôi không còn nữa. Vậy thì, dứt khoát phải cảm ơn Miên, cảm ơn nhà văn Võ Thị Hảo, hai người phụ nữ đẹp và can đảm, cùng chung ngày tháng năm sinh.

* Những oan hồn cổ thành – lời cầu siêu công lý cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn

Những oan hồn chết chóc, những đổ nát ở cổ thành, nó chỉ là hình ảnh tượng trưng cho cuộc chiến vô nghĩa dài đằng đẵng hai mươi mốt năm. Những người lính, người sinh viên trẻ ở hai chiến tuyến, đến chết rồi, sao vẫn ngơ ngác bàng hoàng, không thể hiểu, mình đã chết cho ai, vì ai? Nếu như sự trở về của người lính sau chiến tranh, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, chìm sâu trong những cơn say, để quên đi mùi tử khí của những đồi Xáo Thịt, thì ngày về của người lính trong Dạ Tiệc Qủy là đói khát, điên dại, ám ảnh bởi những cơn ăn thịt người, thịt đồng loại. Trại điên, trại tâm thần, chính là tương lai, là nơi xiềng xích, thân xác cũng như linh hồn người lính, như Lình, hay những người sinh viên trẻ.

Để thấy được sự thật của cuộc chiến, Võ Thị Hảo đi vào nơi đằng sau sự sống, để lắng nghe tiếng nói của những hồn ma chết trận. Và để thấy rõ, thân phận con người, cũng như thân phận những người lính.

Với ngôn từ, lời thoại mang đậm tính điện ảnh, sân khấu này, làm cho lời văn nổi và sống động hơn. Tuy không một lời oán trách, nhưng hình ảnh những oan hồn vất vưởng, đi dưới ánh trăng buốt lạnh với đỉnh trời vàng rười rượi, cũng đủ làm cho trái tim người đọc nghẹn uất quặn đau. Và nó là một bằng chứng luận tội xác đáng nhất, cho những kẻ đã mua bán, thần thánh hóa cuộc chiến này. Đoạn văn dưới đây, thoạt tưởng là những câu thoại đơn thuần, nhưng đọc xong, ngẫm lại, ta mới cảm được, sự lý giải bản chất cuộc chiến của tác giả gửi ở trong đó:

“Ông bà cha mẹ ta có mắc nợ gì nhau không nhỉ?”

“Chắc là không. Một kẻ đầu chữ S. một kẻ cuối chữ S. Xa cả ngàn cây số.....!”

“Trước khi mặc cái bộ áo này, cầm cái lưỡi lê này anh làm gì?”

“Học. Năm thứ hai Văn khoa. Còn anh?”

“Sinh viên năm tư khoa Triết học. Chơi vĩ cầm.”

“Cắt tiết gà hồi nào chưa?”

“Chưa!”

“Vậy chúng ta biết giết người từ bao giờ?”

“Chúng ta được dạy để giết người từ ngày khoác lên vai bộ quần áo lính và ai đó đã đặt vào tay chúng ta lưỡi lê.”

“Đương nhiên. Lưỡi lê thì không phải là cây bút hay vĩ cầm. Chúng ta cùng trở thành ma!”. “Và chúng ta chết cho ai nhỉ?”

Bốn ngón tay từ hai cái thây cùng chỉ lên trời và biến thành bốn dấu hỏi dập dờn ngơ ngáo in lên nền mây mờ trăng rồi thõng thượt đổ xuống.

“Đi nào! Đi thôi!”

“Đi! Cuộc đời này không phải của ta. Cả cái biển tanh ngòm này cũng sẽ tuột mất khỏi tay ta rồi. Đi thôi! Đi thôi nào!”.

“Thiên đường hay ngục?”

“Cả thiên đường và địa ngục ta cũng đã bị cướp đoạt. Nào, rút mũi lê ra khỏi ngực nhau hộ cái nào. Không lê bước được. Bây giờ ta thuộc về nhau...”.

“Cây lê và báng súng làm gậy chống. Chân tôi đã bị bom bên anh tiện đứt rồi. Thay cho chân gẫy, ta cùng đi, được không?”

“Lưỡi lê không bao giờ làm được gậy chống. Cái chân bị bom tiện cụt của anh sẽ được mọc ra ở thế giới của người ma.”

“Không! Người chết trận không còn gì để được tái sinh. Đầu thai cũng không!”

Trăng đã lên. Đứng hoang mang giữa đỉnh trời vàng rười rượi. Não nuột úa vàng như hơi thở dài thổi xuống những hồn ma…” (DTQ-chương 2- Trăng lạnh).

Xem toàn bộ chương Trăng lạnh, chúng ta cảm nhận được trái tim của người đọc đầy xót xa thương khốc trong một không khí, một tâm cảm, một nhịp điệu cầu siêu và trả lại công lý cho những người lính tử trận- bất kể từ bên nào, trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn được châm ngòi từ quyền lợi của nhóm người thống trị áp đặt lên những người bị trị, bị lùa ra trận. Chết tàn khốc tới mức chằng còn kiếp khác vì người chết trận đâu có cơ hội để tái sinh!

* Những đứa con được nuôi bằng “sữa nhạt lờ lợ tráo trở và mùi hôi nô lệ”

Ngày tệ hơn tận thế:

Có thể nói, trong văn học hay sân khấu, điện ảnh, nhà văn, người nghệ sỹ dù có dùng bất kể thể loại, hình tượng gì, để biểu đạt, biểu cảm, thì cái đích đến vẫn phải là con người, thân phận và cuộc sống của họ. Ở Dạ Tiệc Qủy, chúng ta bắt gặp cái hệ quả quái thai của cải cách ruộng đất, của chiến tranh, bằng những Đứa Con Vàng Nghệ, Đứa Con Xanh: “Thì những đứa trẻ quái thai sinh ra dưới gầm trời này bao giờ chẳng biết làm thơ và ca hát. Vừa sinh ra chúng đã già ngàn tuổi và trên vú trái mọc đầy vẩy mốc của những bức tường rêu phong Văn Miếu, chủ nghĩa Mác Lê và tà đạo (DTQ) Và chúng được nuôi bằng nước mắt của những người mẹ khóc con tử trận, lớn lên bằng:

“Sữa nhạt nước ốc
Có vị lờ lợ tráo trở
Có mùi hôi nô lệ
Có vị tanh ngọt lưu manh
vị nhục ngàn năm”

(DTQ chương 19).

Khi cái ác, cái độc quyền lên ngôi thống trị, thì nhân phẩm con người, dứt khoát sẽ bị rớt xuống nơi địa ngục. Cái chủ thuyết tà đạo và hoang tưởng đó, đã đẻ ra một cái quái thai của thời đại. Nó là bóng ma chập chờn, vươn tay ra như những chiếc thòng lọng, thít chặt cổ người dân lương thiện. 

Thật vậy, trong cái mớ trắng đen, hỗn độn, chập chờn ấy, người dân lương thiện buộc phải trốn khỏi kiếp người“Đôi khi, phải làm quỷ để thoát khỏi kiếp người!“(DTQ). Và đâu có chỉ riêng nhà văn phải hoài nghi thực hư, nhân cách thần thánh, ma, qủy hay con người, trong một xã hội, trật tự đã đảo lộn tùng phèo này: “Trên Niết bàn bây giờ Phật đang băn khoăn nghĩ xem giống Người thực sự là cái gì. Vì loài ma cà rồng đã chiếm chỗ trên dương thế. Chúng ngang nhiên tự phong mình là thánh, là thiên thần và gọi những người lương thiện là Quỷ” (DTQ).

Tròn sáu mươi năm gây mầm và gần bốn mươi năm tàn cuộc chiến, những cái quái thai, ung nhọt ấy, ngày càng lớn lên. Nó không chỉ dừng lại ở mức độ đục khoét, lưu manh tráo trở nữa, mà đã di căn trên thân gầy đất mẹ, đi đến tột cùng của cái ác: Bán đất bán rừng, bán nước bán cả linh hồn. Để lại bao sinh linh nằm lại nơi rừng xanh, biển cả và bao nhiêu triệu người phải bỏ Tổ Quốc ra đi. Trên đất mẹ, chỉ còn lại tiếng vọng trong đêm, của những tư tưởng, linh hồn bị xích xiềng và tiếng oán khốc ngút trời của vô số kiểu dân oan. 

Làm nên thành công Dạ Tiệc Qủy, ngoài tài năng dựng truyện, và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ chồng chất nhiều tầng lớp, hình tượng đa nghĩa, đa chiều của Võ Thị Hảo, còn có rất nhiều những câu thoại, những đoạn văn triết lý, làm người đọc phải đau, phải nghĩ: “Quỷ khác loài người. Quỷ cũng không nỡ ăn các linh hồn. Dạ tiệc của quỷ là bữa tiệc của mắt.” hay “Dậy thôi, cái gọi là bốn ngàn năm!”…Hơn thế nữa, cùng với việc kêu tên, điểm mặt, vạch trần mọi thủ đoạn tội ác, của tầng lớp thống trị, tác giả còn dám cả gan bóc trần sự nhu nhược, u muội của con người bị trị, trước quyền lực và độc đoán. Và nó, như là mũi dao, đã tách bóc được cái u mê ra khỏi sự sợ hãi của con người. Để từ đó, Võ Thị Hảo can đảm chỉ ra lối thoát duy nhất, và đó cũng là lời kết (phần một) cho cuốn sách này: “…Muốn tái sinh giống người, trước hết hãy diệt lũ ma cà rồng. Nếu không, hễ cứ có người nào mới ra đời, lại bị làm mồi ngay cho lũ chúng…” (DTQ - chương 20).

Vâng! Cảm ơn nhà văn Võ Thị Hảo, đã công phu sáng tạo nên tác phẩm Dạ Tiệc Qủy. Chúng ta đọc nó để giải phẫu tâm hồn, và đọc để thấy một địa ngục có thật đã mở ra, còn đang phình nở há hoác miệng và nếu con người VN và nhân loại không hành động kịp thời để ngăn chặn, tất cả rồi cũng lần lượt trở thành nạn nhân của ma cà rồng: bị hút máu hoặc sẽ đi hút máu kẻ khác.

Điều đó còn tệ hơn cả ngày tận thế!

Đức Quốc ngày 31-7 -2014

0 comments:

Powered By Blogger