Từ độ linh hồn đã bị nhốt nơi địa ngục, cõi nhân gian dường
như chỉ còn lại những đấng văn nhân đang cúi mặt, ngậm miệng ăn
tiền, rồi tụng lên những lời ca lạc loài, giữa tiếng thét kêu
oán hờn của hàng triệu sinh linh.
Thì thật may mắn thay, trong cái bi thương đó, có một vệt linh
khí, đã vượt ra khỏi xiềng xích ngục tù, tụ lại, rồi tỏa ra
luồng sinh khí mới, cho văn học đất Việt. Họ đã rạch ra một
lối đi, cách viết mới cho dòng văn học hiện thực phê phán đương
đại. Hiện tượng ấy, tuy không làm thay đổi cả diện mạo nền
văn học định hướng, bao cấp èo uột, nhưng nó lại được cất lên,
làm sống lại những trái tim khát vọng công lý và sự thật,
đã bị nhấn chìm từ bấy năm qua. Qủa thật, họ là những tên
tuổi, nữ sĩ, văn nhân đích thực nhất của văn học đất Việt
hiện nay.
Võ Thị Hảo, là một trong số những nhà văn tài năng và can trường đó.
* Sự thực xã hội tàn khốc trong bức tranh siêu thực:
Gần đây, đài báo và một số nhà phê bình cho rằng, Võ Thị Hảo
là một nhà văn phản kháng. Không thể phủ nhận ý kiến trên,
nhưng tôi lại hoàn toàn không thích, gọi chị bằng cái tên ấy.
Với tôi, trước sau chị vẫn chỉ là một nhà văn hiện thực nhân
đạo. Có khác chăng, chị đủ dũng trí để nhảy ra khỏi cái Dạ
Tiệc Qủi, mà bấy lâu nay, chúng ta vẫn cam chịu làm món mồi
ngon trên chiếc bàn ấy mà thôi. Và tôi cũng không muốn đặt lên
đôi vai gầy của chị cái “động từ phản kháng“ to vật vưỡng với
sức nặng ngàn cân như vậy. Bởi những cái chị viết đều là sự
thật, một sự thật mà bấy lâu nay, ai cũng biết, cũng hay,
nhưng đều mắc chứng giả vờ không biết. Nên khi đọc, nhất là khi
gặp gỡ, tiếp xúc, đã cho tôi cảm giác, sự mềm mại, mong manh
của chị, sao mà nó khác với sự quyết liệt, đi đến tận cùng
trong văn chương đến thế.
Nhà văn Võ Thị Hảo sinh năm 1956 tại Nghệ An, là cựu sinh viên
trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Đã trải qua nhiều nghề,
nhiều công việc khác nhau, nhưng cuối cùng viết văn mới chính
là nghiệp, là đam mê đích thực của chị. Đam mê là thế, nhưng
chị lại bước chân vào làng văn khá muộn bằng truyện ngắn đầu
tay mang tên Người Gánh Nước Thuê vào năm 1989.
Trước khi đến với nghiệp văn, Võ Thị Hảo đã có vài năm lăn lộn
với nghề báo, đặc biệt, theo năm tháng, càng có nhiều tác phẩm văn
chương, chị càng gắn kết chặt chẽ và dấn thân hoàn toàn vào nghề báo, dù
có lúc bị dọa giết chỉ vì dám điều tra và công bố sự thật bỉ ổi của
những kẻ mạnh. Những năm tháng làm báo cho chị điều kiện tiếp xúc với
sự thật, với những dân oan làm cho chị thấu hiểu một cách sâu sắc
về sự nhiễu nhương, vô đạo của xã hội và những oan trái đắng
cay cũng như thân phận con người. Vốn sống đó của chị ngày càng
phong phú và thêm nặng trĩu hành trang, mà chỉ riêng văn hoặc riêng
báo không thôi thì không đủ sức chuyển tải, do vậy chị buộc phải
tận dụng sức mạnh của văn chương song song với sức mạnh của báo chí,
phim ảnh và cả hội họa để chia sẻ những đau đáu, khát khao của kiếp
người tới bạn đọc. Người viết là vậy, nếu ta có trái tim sống được đời
mình và đời tha nhân, khi không chia sẻ, không cất lên lời ca của lương
tri, trái tim ta cơ hồ vỡ nát.
Với tài năng bẩm sinh, thêm một trái tim đa cảm, chỉ sau một
thời gian ngắn, chị đã cho ra lò hàng loạt truyện ngắn, tiểu
thuyết và kịch bản phim, sân khấu. Tập truyện nào của chị
cũng hay, đều gây được tiếng vang, không chỉ trong nước. Mỗi câu
chuyện, một đoạn văn của chị như nhát dao đâm thẳng vào những
ung nhọt của xã hội đương thời. Do vậy, nhiều tác phẩm cả văn
chương lẫn báo chí của Võ Thị Hảo đã nhiều lần bị từ chối, bị
ngăn cấm xuất bản ở trong nước, chẳng hạn tập truyện ngắn Ngồi
Hong Váy Ướt, tiểu thuyết Dạ Tiệc Qủy và vô số bài viết khác.
Đọc Võ Thị Hảo khá nhiều và đã từ lâu, nhưng Dạ Tiệc Qủy, do
Tủ Sách Tiếng Quê Hương ở Mỹ xuất bản đầu năm 2013, gây cho tôi
cảm xúc mạnh nhất.
Thật vậy, đọc xong, gấp cuốn sách lại, tôi rùng mình. Lúc
này, chỉ còn đọng lại một cảm giác: Dạ Tiệc Qủy đã diễn tả,
khắc họa những điển hình nổi bật nhất về một xã hội quái thai có
thật nhưng vượt khỏi mọi hình dung của con người và chỉ có thể khắc họa
nó với không khí, với môi sinh đặc trưng trong cơn lên đồng với thủ pháp
tái hiện ác mộng. Đó cũng là thi pháp đặc trưng của Võ Thị Hảo trong
tiểu thuyết Dạ tiệc quỷ.
Với Dạ Tiệc Qủy, sự khắc họa cá tính, nội tâm nhân vật đã được
cài đặt sâu trong lời thoại hay những đoạn văn miêu tả thông qua
một hệ thống lúc trực diện tàn khốc, lúc ẩn dụ siêu hình, bút pháp
biến ảo khôn lường.
Có điều lạ và thú vị, tuy Dạ Tiệc Qủy, được chia thành chương
hồi, bố cục gắn kết nhau rõ ràng, nhưng khi đọc không nhất
thiết phải đọc từ trang đầu tiên, mà ta có thể đọc chương cuối
lộn lên, hoặc từ chương giữa đọc ra. Nhưng sự hiểu, sự cảm nhận
của người đọc đối với tác phẩm vẫn hoàn toàn không thay đổi,
nếu khi đọc, ta có một chút tư duy liên tưởng. Như vậy, rõ ràng
ngoài bố cục chung, mỗi chương hồi đều có bố cục riêng và có
thể đứng độc lập. Chính vì thế, hiệu quả mà Dạ Tiệc Quỷ mang
đến cho người đọc mạnh hơn hẳn những tiểu thuyết thông thường.
Đây là sự sáng tạo rất độc đáo của tác giả.
Trong tiểu thuyết, nhà văn thường chắp nối những tình tiết hoặc
có thật hoặc hư cấu để để xây dựng bối cảnh, nhân vật sao cho
đạt đến mức chân thật nhất. Nhưng đọc Dạ Tiệc Qủy, ta lại
thấy Võ Thị Hảo đã đi ngược lại lẽ thông thường ấy. Chị đã
đưa những sự việc có thật nhất ngoài xã hội vào bức tranh
siêu thực của mình. Tại sao lại như vậy? Phải chăng, trong bối
cảnh sống hiện nay, chỉ đằng sau cái thực hư, ma quỉ chập chờn
ấy, tác giả mới có thể tung hết bút lực của mình và đẩy bi
kịch, hoặc phơi trần sự thật tới cung bận cao nhất? Và hơn thế
nữa, tác giả muốn mang đến cho người đọc, một cảm giác, cách
đọc hoàn toàn khác (rất riêng, rất Võ Thị Hảo). Đây thủ pháp
mới lạ, một con dao hai lưỡi. Nếu người viết không có tài sử
dụng ngôn từ, không có trí tưởng tượng và kết nối liên tưởng
phong phú, thì cuốn sách trở thành giả tạo, nhạt phèo. Tuy
nhiên, cách viết này, nó chỉ mới trong văn chương Việt, vì
trước Võ Thị Hảo, cũng đã có một số nhà văn ngoại quốc sử
dụng cách viết tương tự.
Thật vậy, không chỉ riêng tôi, mà nhiều nhà thơ, nhà văn, lý
luận phê bình và bè bạn tôi, đã bị Dạ Tiệc Qủy hoàn toàn
chinh phục. Vì vậy, có thể nói, Võ Thị Hảo là một trong số
rất ít các nhà văn VN hiện nay,(kể cả trong và ngoài nước) đã
viết và sáng tạo rất thành công ở thủ pháp này.
Tuy vậy, Dạ Tiệc Qủy lại hơi kén người đọc. Bởi lời văn súc
tích, trừu tượng, nhiều tầng ngữ nghĩa, buộc người đọc phải
suy nghĩ, phải có cảm nhận riêng của mình. Nếu người đọc hời
hợt, lười suy nghĩ, chắc chắn sẽ bỏ dở trang sách. Do vậy,
đọc Dạ Tiệc Qủy, tôi cảm thấy mình cũng như đang ngồi viết
vậy. Công việc nặng nhọc này, có lẽ, không kém người ngồi
viết ra nó là bao. Và đọc xong, tưởng mình vừa là món gỏi
nhắm ở trên bàn tiệc, thấy run rẩy, vã hết cả mồ hôi hột.
* Người đàn bà có đôi mắt kim cương và cả một dải đất hình chữ S bị cưỡng hiếp:
Dạ Tiệc Qủy là bức tranh thu nhỏ của đời sống, xã hội con
người trải dài trên nửa thế kỷ. Nó bắt đầu bằng những cuộc
đấu tố giết người, cướp của, cướp đất, một cách dã man, tàn
bạo, được ngụy trang dưới mỹ từ cải cách ruộng đất. Rồi hai
mươi năm chiến tranh, huynh đệ tương tàn, đẫm máu và nước mắt,
dẫn đến những cuộc vượt biển, chạy trốn kinh hoàng, rùng rợn
nhất, kể từ ngày lập quốc đến nay. Trên hết, là những gam màu
xám ngắt đè lên toàn bộ bức tranh của những bóng ma cà rồng,
dưới cái chủ thuyết quái đản. Nó đang đưa xã hội, con người
vào vòng xoáy bạo tàn được tạo ra bởi những lực lượng được đặt tên là “
đang thực thi tội ác chống lại loài người”.
Trước Dạ Tiệc Qủy, đã có nhiều nhà văn viết về Cải cách
ruộng đất – những tội ác do nhà cầm quyền Việt Nam gây ra ở những năm
năm mươi của thế kỷ trước. Nhưng viết một cách trần trụi, quyết
liệt như Võ Thị Hảo, thì quả thật không nhiều. Có nhà nghiên
cứu cho rằng, văn của Dạ Tiệc Qủy khô và khốc liệt. Tôi lại
nghĩ khác một chút, văn của Dạ Tiệc Qủy, không hề khô, ngược
lại, rất bay, mang đậm chất thơ, nhưng hiệu quả chuyển tải quả
thực đầy sức nặng. Tuy ngôn từ nhiều đoạn rất dân dã giản dị,
nhưng do tài năng sử dụng (từ ngữ) của người viết, câu văn trở
nên sinh động, sắc nhọn, có sức lan tỏa thấu ngay tim người đọc.
Vì vậy, nó gây hiệu ứng tức thì và đẩy sự việc lên nấc cao
nhất, khốc liệt nhất, khi miêu tả, cũng như lên án hành động,
nhân vật.
Tôi không rõ, trào lưu văn xuôi chấm xuống dòng, gọi là thơ mới,
thơ trừu tượng, đọc không để hiểu, như dạng bài viết mấy bà
đánh dậm, hay tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ…gì gì đó của Nguyễn Quang
Thiều, ra đời từ khi nào?. Nhưng xin bảo đảm, tôi có thể trích
ra từ Dạ Tiệc Qủy, ra hàng chục đoạn văn hay, đẹp, sáng, hình
tượng hơn thơ của ông phó chủ tịch hội nhà văn VN này nhiều
lần.
Có lẽ, nhờ sinh trưởng từ miền quê, nên Võ Thị Hảo hiểu về
nông thôn hơn ai hết. Vì thế, từ cách đặt tên nhân vật, như tên
Dậm gắn liền với cái nghề đánh dậm nghèo đói lam lũ, cho đến
hình ảnh giết người man rợ hơn cả thời trung cổ, bằng những
cuốc mẻ, vồ đập đất… tác giả đưa vào trang văn rất chi tiết và
thuyết phục. Sự chân thực đó, đã làm bức tranh trở nên sống
động, dù thời gian trên nửa thế kỷ đã trôi qua.
Vâng! Cũng chính nhát cuốc mẻ, cái vồ ấy, đã đập rung Văn
Miếu, bổ nát linh hồn Việt ngàn năm. Nó cắt đứt, phá tan tành
mối quan hệ gia đình, làng xóm và tình người. Và bức tranh oan
nghiệt, đẫm máu nước mắt đó, đến nay, vẫn chưa một lần được
gột rửa. Bởi không ai ngoài các thế hệ nhà cầm quyền VN phải gánh món
nợ ấy, phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc gột rửa nó. Họ phải
trả lại công bằng cho những người oan khuất và cho người dân VN qua một
chuỗi hành động tối thiểu, để sòng phẳng lại, vớt vát lại linh hồn công
lý đã bị họ làm cho rữa nát của nước Việt. Nhưng điều đó, nhà cầm quyền
VN đã nhất quyết không làm và vì thế họ chẳng bao giờ vãn hồi được danh
dự.
Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn trích truyền cảm, mang mang hồn
thơ dưới đây, mà tôi không thể lược, cắt ngắn hơn được nữa, vì
bố cục chặt chẽ. Chúng ta đọc, để thấy rõ sự tàn bạo, lưu
manh, phản trắc của giai cấp mới(ma cà rồng). Và trong đó,
dường như, ta cũng nghe được tiếng vọng lên oán hờn, của những
linh hồn vô tội:
“… Vì là đã là linh hồn thì đâu cần quần áo. Linh hồn chỉ trần truồng mà bay.
Ông Cử đã sang thế giới bên kia.
Tiễn đưa ông, là một chiếc cọc. Ba sợi thừng chuyên trói chó để cắt
tiết và buộc lợn vào thang mà thiến của nhà ông Dậm. Một loạt đạn trong
nòng súng kíp tự chế.
Rộn ràng hơn, thêm ba nhát cuốc mẻ và mười bảy nhát vồ đập đất.
Để cho vỡ nát đôi mắt thảng thốt.
Cho vỡ nát cả cái uất hận đang đọng lại dưới tròng mắt mở chong chong.
Bộ óc mẫn tiệp từng dạy học, từng làm thơ, từng cho thuốc cải tử hoàn
sinh cả ngàn mạng người trong xứ, đã bị loạt đạn tự chế của con ông cu
Cáy nhồi vào nòng súng làm nổ tung.
Ông cu Cáy trước đây đã được ông Cử cứu mạng trận đau bụng bão. Đau
đến mức cắn đất cắn sỏi, bò lê bò càng trên mặt đất. Chỉ còn nước bó
chiếu đem chôn. Thế mà ông Cử cứu được, qua một ngày lại dậy,
uống một bát nước chè xanh pha mật mía, ăn một rá khoai rồi
đi cày.
Chuyện đó đã qua lâu rồi. Nay thì viên đạn của con ông cu Cáy đã
làm tinh óc ông Cử trắng hồng phọt ra ruộng mạ. Óc ông Cử làm bữa tiệc
cho lũ giun đất và sâu bọ.
Linh hồn ông Cử lên trời.
Để lại bàn thờ tổ tông chói loà bảy đời cụ kỵ khoa bảng…”(DTQ-chương1)
Dưới ngòi bút Võ Thị Hảo, cái chết của ông Cử và vợ con ông
càng tàn nhẫn bao nhiêu, thì hành động man rợ, thâm độc tàn
ác, đểu cáng của những Dậm, của những bần cố nông …lại càng
vọt lên bấy nhiêu. Ở đây, chúng ta, không chỉ thấy được những
kẻ vô học, dốt nát, sau một đêm trở thành những ông trời con:
“…Chỉ sau một đêm ngủ dậy, ông thấy mình oai vệ như trời, muốn
đổ cho ai cái tội gì thì y như rằng người ta bị tội ấy. Trời
cũng chỉ đến thế thôi, cho ai sống thì được sống, bắt ai chết
thì phải chết…” (DTQ-chương 1). Mà ta còn thấy được, sự thật ai
đã dúi cái cuốc mẻ, cái vồ đập đất vào tay, để chúng trở
nên hung hãn như vậy: “…Trong thiên hạ, bần cố nông là thần là thánh, vinh quang chỉ kém cán bộ Đội cải cách có một bậc…” (DTQ-chương1).
Vâng! Ông đội còn ngồi trên cả thần thánh. Ông lại là người
của đảng, đồng chí của đảng. Vậy thì, thủ phạm không ngoài ai
khác, chính Đảng đã dúi chiếc búa, cái vồ đó vào tay kẻ
giết người. Và cũng chính Đảng đã đưa những tên đểu cáng vô
học, như Dậm, như chánh văn phòng tỉnh ủy, như giám đốc sở văn
hóa, hay một viên đại tá… tới những chức quyền cao ngất
ngưởng, vươn vòi bạc tuộc nhơ nhuốc hút khô tấm thân gầy đất
mẹ. Chính sự lưu manh hóa, đểu cáng hóa ấy, đưa đến một xã
hội, pháp luật, đạo đức, tình người bị đảo lộn tùng phèo: “Cả dải đất này người ta cưỡng hiếp nhau. Một chữ S to đùng bị cưỡng hiếp…” (DTQ-chương11).
Tuy Võ Thị Hảo không dụng công xây dựng nhân vật chính, nhân vật
trung tâm. Nhưng khi đọc, ta lại thấy, dường như tác giả đã nhập
đồng vào vào Miên, một nhân vật phôi thai từ cưỡng hiếp. Miên –
cô gái đẹp có đôi mắt kim cương, cả đời phải trốn chạy, luôn luôn
bị chính Dậm, người cha, một tên bần cố đại lưu manh, từ nghề
đánh dậm, đã lộn ngược lên chức bí thư tỉnh ủy và Đồng Đảng,
tìm cách cưỡng hiếp. Không chỉ cưỡng hiếp Miên, bạn Miên, mà
chúng còn nuốt tất cả những gì, có thể nuốt được, kể cả
những linh hồn đã hóa thạch mấy ngàn năm…
Những tình tiết cuộc đời của nhân vật Miên cũng chính là sự nhân cách
hóa hình ảnh của đất nước Việt Nam ngàn năm thương đau, ngàn năm phải
trốn chạy sự lăm le, bạo lực, sự cưỡng hiếp của người trong nước với
nhau và sự cưỡng hiếp của những kẻ ngoại bang
Mang theo mối oan khiên ấy, và trải qua một cuộc trốn chạy,
vượt biển kinh hoàng, Miên trở thành người của giới thượng lưu.
Hành động trở về trả thù của Miên, có người cho là đơn lẻ
và tiêu cực. Nhưng với tôi, đó là hành động can trường, một sự
phản kháng mãnh liệt, tích cực theo qui luật vay trả rõ ràng.
Vâng! Món nợ đó dứt khoát phải đòi, buộc những tên đồ tể và
tên đầu sỏ Đồng Đảng, phải trả.
Xây dựng nhân vật Miên và nhân vật phản kháng giấu mặt kế
tiếp, sau cái chết của Miên, theo tôi, đây chính là sự can đảm,
không nhân nhượng, không khuất phục của nhà văn. Và hơn thế nữa,
nó còn gợi mở ra một điều, dù oan hồn có bị đày về với
Qủy, thì nhà văn vẫn miệt mài đi gây mầm sống, đòi lại linh
hồn đúng nghĩa của hai chữ CON NGƯỜI.
Nếu chúng ta đã đọc, Ly Thân của Trần Mạnh Hảo, Chuyện Ba
Người Khác của Tô Hoài, hay Thời Của Thánh Thần của Hoàng Minh
Tường gần đây, thì chắc chắn thấy thiếu sức mạnh, sự quật khởi,
sự nổi loạn của nhân vật Miên, thiếu cái sự phản kháng quyết
liệt, máu lửa ấy. Dù những tác phẩm trên rất hay, nhưng mới
chỉ dừng ở mức độ lột trần sự thật nên khi đọc, tôi cảm thấy
tôi tội tội, hèn hèn thế nào ấy. Nhưng đến khi đọc Dạ Tiệc
Qủy, cái cảm giác ấy trong tôi không còn nữa. Vậy thì, dứt
khoát phải cảm ơn Miên, cảm ơn nhà văn Võ Thị Hảo, hai người
phụ nữ đẹp và can đảm, cùng chung ngày tháng năm sinh.
* Những oan hồn cổ thành – lời cầu siêu công lý cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn
Những oan hồn chết chóc, những đổ nát ở cổ thành, nó chỉ là
hình ảnh tượng trưng cho cuộc chiến vô nghĩa dài đằng đẵng hai
mươi mốt năm. Những người lính, người sinh viên trẻ ở hai chiến
tuyến, đến chết rồi, sao vẫn ngơ ngác bàng hoàng, không thể
hiểu, mình đã chết cho ai, vì ai? Nếu như sự trở về của người
lính sau chiến tranh, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh,
chìm sâu trong những cơn say, để quên đi mùi tử khí của những
đồi Xáo Thịt, thì ngày về của người lính trong Dạ Tiệc Qủy
là đói khát, điên dại, ám ảnh bởi những cơn ăn thịt người,
thịt đồng loại. Trại điên, trại tâm thần, chính là tương lai,
là nơi xiềng xích, thân xác cũng như linh hồn người lính, như
Lình, hay những người sinh viên trẻ.
Để thấy được sự thật của cuộc chiến, Võ Thị Hảo đi vào nơi
đằng sau sự sống, để lắng nghe tiếng nói của những hồn ma
chết trận. Và để thấy rõ, thân phận con người, cũng như thân
phận những người lính.
Với ngôn từ, lời thoại mang đậm tính điện ảnh, sân khấu này,
làm cho lời văn nổi và sống động hơn. Tuy không một lời oán
trách, nhưng hình ảnh những oan hồn vất vưởng, đi dưới ánh
trăng buốt lạnh với đỉnh trời vàng rười rượi, cũng đủ làm cho
trái tim người đọc nghẹn uất quặn đau. Và nó là một bằng
chứng luận tội xác đáng nhất, cho những kẻ đã mua bán, thần
thánh hóa cuộc chiến này. Đoạn văn dưới đây, thoạt tưởng là
những câu thoại đơn thuần, nhưng đọc xong, ngẫm lại, ta mới cảm
được, sự lý giải bản chất cuộc chiến của tác giả gửi ở
trong đó:
“Ông bà cha mẹ ta có mắc nợ gì nhau không nhỉ?”
“Chắc là không. Một kẻ đầu chữ S. một kẻ cuối chữ S. Xa cả ngàn cây số.....!”
“Trước khi mặc cái bộ áo này, cầm cái lưỡi lê này anh làm gì?”
“Học. Năm thứ hai Văn khoa. Còn anh?”
“Sinh viên năm tư khoa Triết học. Chơi vĩ cầm.”
“Cắt tiết gà hồi nào chưa?”
“Chưa!”
“Vậy chúng ta biết giết người từ bao giờ?”
“Chúng ta được dạy để giết người từ ngày khoác lên vai bộ quần áo lính và ai đó đã đặt vào tay chúng ta lưỡi lê.”
“Đương nhiên. Lưỡi lê thì không phải là cây bút hay vĩ cầm. Chúng ta cùng trở thành ma!”. “Và chúng ta chết cho ai nhỉ?”
Bốn ngón tay từ hai cái thây cùng chỉ lên trời và biến thành bốn dấu hỏi
dập dờn ngơ ngáo in lên nền mây mờ trăng rồi thõng thượt đổ xuống.
“Đi nào! Đi thôi!”
“Đi! Cuộc đời này không phải của ta. Cả cái biển tanh ngòm này cũng sẽ tuột mất khỏi tay ta rồi. Đi thôi! Đi thôi nào!”.
“Thiên đường hay ngục?”
“Cả thiên đường và địa ngục ta cũng đã bị cướp đoạt. Nào, rút mũi lê
ra khỏi ngực nhau hộ cái nào. Không lê bước được. Bây giờ ta thuộc về
nhau...”.
“Cây lê và báng súng làm gậy chống. Chân tôi đã bị bom bên anh tiện đứt rồi. Thay cho chân gẫy, ta cùng đi, được không?”
“Lưỡi lê không bao giờ làm được gậy chống. Cái chân bị bom tiện cụt của anh sẽ được mọc ra ở thế giới của người ma.”
“Không! Người chết trận không còn gì để được tái sinh. Đầu thai cũng không!”
Trăng đã lên. Đứng hoang mang giữa đỉnh trời vàng rười rượi. Não nuột úa vàng như hơi thở dài thổi xuống những hồn ma…” (DTQ-chương 2- Trăng lạnh).
Xem toàn bộ chương Trăng lạnh, chúng ta cảm nhận được trái tim của người
đọc đầy xót xa thương khốc trong một không khí, một tâm cảm, một nhịp
điệu cầu siêu và trả lại công lý cho những người lính tử trận- bất kể từ
bên nào, trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn được châm ngòi từ quyền
lợi của nhóm người thống trị áp đặt lên những người bị trị, bị lùa ra
trận. Chết tàn khốc tới mức chằng còn kiếp khác vì người chết trận đâu
có cơ hội để tái sinh!
* Những đứa con được nuôi bằng “sữa nhạt lờ lợ tráo trở và mùi hôi nô lệ”
Ngày tệ hơn tận thế:
Có thể nói, trong văn học hay sân khấu, điện ảnh, nhà văn,
người nghệ sỹ dù có dùng bất kể thể loại, hình tượng gì,
để biểu đạt, biểu cảm, thì cái đích đến vẫn phải là con
người, thân phận và cuộc sống của họ. Ở Dạ Tiệc Qủy, chúng
ta bắt gặp cái hệ quả quái thai của cải cách ruộng đất, của
chiến tranh, bằng những Đứa Con Vàng Nghệ, Đứa Con Xanh: “Thì
những đứa trẻ quái thai sinh ra dưới gầm trời này bao giờ chẳng biết làm
thơ và ca hát. Vừa sinh ra chúng đã già ngàn tuổi và trên vú trái mọc
đầy vẩy mốc của những bức tường rêu phong Văn Miếu, chủ nghĩa Mác Lê và
tà đạo (DTQ) Và chúng được nuôi bằng nước mắt của những người
mẹ khóc con tử trận, lớn lên bằng:
“Sữa nhạt nước ốc
Có vị lờ lợ tráo trở
Có mùi hôi nô lệ
Có vị tanh ngọt lưu manh
vị nhục ngàn năm”
(DTQ chương 19).
Khi cái ác, cái độc quyền lên ngôi thống trị, thì nhân phẩm con
người, dứt khoát sẽ bị rớt xuống nơi địa ngục. Cái chủ
thuyết tà đạo và hoang tưởng đó, đã đẻ ra một cái quái thai
của thời đại. Nó là bóng ma chập chờn, vươn tay ra như những
chiếc thòng lọng, thít chặt cổ người dân lương thiện.
Thật vậy, trong cái mớ trắng đen, hỗn độn, chập chờn ấy, người
dân lương thiện buộc phải trốn khỏi kiếp người“Đôi khi, phải làm
quỷ để thoát khỏi kiếp người!“(DTQ). Và đâu có chỉ riêng nhà văn
phải hoài nghi thực hư, nhân cách thần thánh, ma, qủy hay con
người, trong một xã hội, trật tự đã đảo lộn tùng phèo này:
“Trên Niết bàn bây giờ Phật đang băn khoăn nghĩ xem giống Người thực sự
là cái gì. Vì loài ma cà rồng đã chiếm chỗ trên dương thế. Chúng ngang
nhiên tự phong mình là thánh, là thiên thần và gọi những người lương
thiện là Quỷ” (DTQ).
Tròn sáu mươi năm gây mầm và gần bốn mươi năm tàn cuộc chiến,
những cái quái thai, ung nhọt ấy, ngày càng lớn lên. Nó không
chỉ dừng lại ở mức độ đục khoét, lưu manh tráo trở nữa, mà
đã di căn trên thân gầy đất mẹ, đi đến tột cùng của cái ác:
Bán đất bán rừng, bán nước bán cả linh hồn. Để lại bao sinh
linh nằm lại nơi rừng xanh, biển cả và bao nhiêu triệu người
phải bỏ Tổ Quốc ra đi. Trên đất mẹ, chỉ còn lại tiếng vọng
trong đêm, của những tư tưởng, linh hồn bị xích xiềng và tiếng
oán khốc ngút trời của vô số kiểu dân oan.
Làm nên thành công Dạ Tiệc Qủy, ngoài tài năng dựng truyện, và
nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ chồng chất nhiều tầng lớp,
hình tượng đa nghĩa, đa chiều của Võ Thị Hảo, còn có rất
nhiều những câu thoại, những đoạn văn triết lý, làm người đọc
phải đau, phải nghĩ: “Quỷ khác loài người. Quỷ cũng không nỡ ăn các
linh hồn. Dạ tiệc của quỷ là bữa tiệc của mắt.” hay “Dậy thôi, cái
gọi là bốn ngàn năm!”…Hơn thế nữa, cùng với việc kêu tên, điểm
mặt, vạch trần mọi thủ đoạn tội ác, của tầng lớp thống
trị, tác giả còn dám cả gan bóc trần sự nhu nhược, u muội
của con người bị trị, trước quyền lực và độc đoán. Và nó,
như là mũi dao, đã tách bóc được cái u mê ra khỏi sự sợ hãi
của con người. Để từ đó, Võ Thị Hảo can đảm chỉ ra lối thoát
duy nhất, và đó cũng là lời kết (phần một) cho cuốn sách
này: “…Muốn tái sinh giống người, trước hết hãy diệt lũ ma cà rồng. Nếu
không, hễ cứ có người nào mới ra đời, lại bị làm mồi ngay cho lũ
chúng…” (DTQ - chương 20).
Vâng! Cảm ơn nhà văn Võ Thị Hảo, đã công phu sáng tạo nên tác
phẩm Dạ Tiệc Qủy. Chúng ta đọc nó để giải phẫu tâm hồn, và
đọc để thấy một địa ngục có thật đã mở ra, còn đang phình nở há
hoác miệng và nếu con người VN và nhân loại không hành động kịp thời để
ngăn chặn, tất cả rồi cũng lần lượt trở thành nạn nhân của ma cà rồng:
bị hút máu hoặc sẽ đi hút máu kẻ khác.
Điều đó còn tệ hơn cả ngày tận thế!
Đức Quốc ngày 31-7 -2014
0 comments:
Post a Comment