Trên thế giới, ai cũng công nhận sở dĩ Hoa Kỳ là quốc
gia phát triển về kinh tế, tiến bộ về khoa học, thành đạt về giáo dục,
bình đẳng về nhân quyền và ảnh hưởng về chính trị quốc tế vào bậc nhất
hoàn cầu, chính là nhờ họ có một nền tảng luật pháp hết sức vững chãi,
nghĩa là một Hiến pháp giá trị, một Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử
nhân loại mà hầu như chẳng có bất cứ một lỗi văn bản hay đúng hơn một
lỗi nguyên tắc lớn nào!
Được hình thành năm 1787 tại
Philadelphia, với mong muốn trở nên một căn bản trường tồn qua nhiều
thời đại, Hiến pháp Hoa Kỳ đã theo một nguyên tắc quan trọng là dựa trên
bản tính tự do của con người và tính chất dân chủ của xã hội mà khẳng
định những điều sẽ không bao giờ thay đổi, chẳng hạn mỗi con người đều
có quyền được sống, quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc, mỗi cá nhân đều có quyền tư hữu thiêng liêng và bất khả xâm phạm,
mọi công dân đều có quyền bầu lên cũng như bãi nhiệm chính phủ của mình…
Hơn 2 thế kỷ qua, bản văn ngoại hạng này chẳng cần thay đổi. Chỉ có
những điều phụ tùy được bổ sung gọi là Tu chính án.
Đang khi đó thì tại Việt Nam, chỉ trong
không đầy 70 năm, dù dưới cùng một chế độ chính trị, Hiến pháp (tạm gọi
vậy) đã thay đổi xoành xoạch, 4 lần rồi và đang chuẩn bị lần thứ 5, chưa
kể những lần sửa đổi nhỏ. Quả là một con số kỷ lục không tìm thấy đâu
trên thế giới! Về việc này, cựu bộ trưởng tư pháp CS Nguyễn Đình Lộc đã
biện minh như sau: “Chúng tôi (Việt Nam) phát triển theo một điều
kiện mà tình hình đất nước luôn có những giai đoạn thay đổi. Tương ứng
từng giai đoạn như thế phải có một Hiến pháp. Phải thấy được đặc thù của
chúng tôi là từng giai đoạn mang một tính chất khác cho nên phải có bản
Hiến pháp. Cho nên có thể thấy Việt Nam rất tôn trọng Hiến pháp. Mỗi
giai đoạn phát triển dù thế nào cũng có một bản Hiến pháp tương ứng”. (RFA 19-11-2012)
Đó chỉ là kiểu ngụy biện lếu láo! Bởi lẽ
do bản chất độc tài đảng trị, người Cộng sản không quan niệm Hiến pháp
(như mọi quốc gia dân chủ trên thế giới công nhận) chính là bộ luật cao
nhất do toàn dân dựa trên nhân tính tự do và xã hội tính dân chủ để soạn
ra mà xác định các quyền con người và quyền công dân, chế độ chính trị
tự do và chế độ kinh tế phát triển, quyền hạn và bổn phận của chính phủ
như công bộc được toàn dân giao cho nhiệm vụ điều hành quản lý đất nước.
Nói cách khác, đi từ lý thuyết Khế ước của triết gia Hy lạp Aristote
(tk IV trước CN, tác giả cuốn “Cộng hòa”), được triển khai bởi nhiều
triết gia Âu châu thế kỷ 17 và 18 như Thomas Hobbes, John Locke và
Jean-Jacques Rousseau (tác giả cuốn “Về khế ước xã hội”) nhằm xóa bỏ tư
duy cai trị kiểu quân chủ chuyên chế (Vua là thiên tử, con trời), nhân
loại văn minh -kể từ sau Cách mạng Hoa Kỳ rồi Cách mạng Pháp- đã quan
niệm Hiến pháp là khế ước, giao kèo giữa nhà nước với người dân, là văn
kiện giao phó quyền lực chính trị từ người dân cho Nhà nước để thay họ
điều hành quốc gia và đảm bảo an toàn, tự do, bình đẳng và phát triển
cho họ. Nói theo kiểu tiêu cực thì Hiến pháp là một khế ước của nhân dân
lập ra để kiểm soát quyền lực nhà nước, để ràng buộc chính phủ chứ
không phải để nhà nước ban quyền cho người dân theo kiểu thí ân huệ.
Nhưng ở các quốc gia độc tài, nhất là độc
tài Cộng sản, Hiến pháp được sử dụng như cương lĩnh của nhà nước hay
thoát thai từ cương lĩnh của đảng cầm quyền. Điều này chính Nguyễn Sinh
Hùng, chủ tịch Quốc hội CS đã nhấn mạnh tháng 8 năm 2011: “Ủy ban dự
thảo và Ban biên tập cùng các Tổ biên tập cần nắm vững và đưa vào bản
Hiến pháp mới nội dung Cương lĩnh quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Nghị
quyết vừa được Đại hội XI của đảng CS thông qua”. Thành ra cái được
gọi là Hiến pháp của nhà nước Cộng sản không phải là HP thật mà chỉ là
pháp lệnh, quân lệnh từ trên đảng truyền xuống cho dân thi hành bất luận
đúng sai, giống thời chuyên chế quân chủ. Nó và các bộ luật dưới nó
được giai cấp cầm quyền (tức đảng thống trị) sử dụng như công cụ khống
chế, vũ khí trấn áp bất cứ ai chống lại chủ trương đường lối cũng như
hành vi ứng xử phản dân hại nước, củng cố quyền lực và vơ vét quyền lợi
của bọn họ, của đảng họ.
Lẽ ra Hiến pháp phải giúp cho người dân
được quyền tự do chính trị, nghĩa là xây dựng được một thể chế dân chủ
với cơ cấu tam quyền phân lập; được quyền tự do kinh tế, nghĩa là xây
dựng được một nền kinh tế thị trường có cạnh tranh lành mạnh; được bảo
đảm an sinh, nghĩa là có quyền tư hữu về tài sản cũng như các phương
tiện sản xuất, mà chủ yếu là đất đai; được bảo đảm an ninh, nghĩa là có
những bộ luật bảo vệ công lý, bênh vực nhân quyền, có những lực lượng
giúp đỡ công dân, giữ gìn xã hội, bảo vệ tổ quốc. Thế nhưng, sau bản
Hiến pháp năm 1946 tàm tạm vì có công nhận các nhân quyền và dân quyền
(song lại trao quyền lực quá lớn cho một cá nhân -Chủ tịch Nước- đồng
thời tước đoạt quyền lực của cơ quan đại diện nhân dân -Nghị viện- để
giao cho một nhóm nhỏ mang tên Ban Thường vụ Nghị viện. Đây là nguồn gốc
của cơ chế “Chủ tịch Nước–Ban Thường trực Quốc hội” vốn sẽ bị thay bằng
cơ chế “Bộ chính trị–Ban chấp hành Trung ương Đảng” đầy lộng quyền),
thì các bản “Hiến pháp” năm 1959, 1980, 1992 và nhất là Dự thảo sửa đổi
hiện nay đều hoàn toàn và ngày càng đi ngược lại ý nghĩa, mục tiêu của
một bản Hiến pháp đích thực, vẫn chỉ là các bản văn hết sức phản động,
chẳng có dấu hiệu của một nhà nước pháp quyền vì dân.
· Bởi lẽ nền tảng của
nhà nước pháp quyền là những luật cơ bản vốn phải được áp dụng cho tất
cả mọi người, kể cả chính phủ. Các luật này được tạo ra bởi người dân
nhằm kiểm soát những hoạt động mà chính phủ được phép thực hiện, không
để cho bộ máy nhà nước được làm tất cả những gì mình muốn. Một trong
những cách để hiện thực điều này chính là hệ thống tam quyền phân lập.
Quyền lực của nhà nước, của chính phủ phải được phân ra. Và mỗi nhánh
phải được vận hành bởi những thành phần khác nhau để có thể kiểm tra,
giám sát, kiềm chế, đối trọng lẫn nhau, tạo ra sự cân bằng giữa các
quyền lực. Điều này sẽ giúp bảo đảm rằng đất nước không bị điều hành bởi
chỉ một người hay một nhóm người, dân tộc thoát khỏi chế độ độc tài,
chuyên chế, toàn trị và xã hội cũng ngăn chặn được sự thông đồng, lạm
dụng quyền lực. Thế nhưng, Dự thảo 2013 cho thấy tổ chức bộ máy Nhà nước
vẫn không phân biệt rạch ròi các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp
cũng như các cơ quan hiến định khác; các nhánh quyền lực vẫn bị chi phối
bởi đảng CS và Bộ chính trị; hệ thống tư pháp vẫn không bảo đảm được
quyền xét xử độc lập, chỉ dựa vào Hiến pháp và luật. Đặc biệt, thay vì
thiết lập Tòa án Hiến pháp với chức năng phán quyết, Dự thảo chỉ đề xuất
Hội đồng Hiến pháp với chức năng tư vấn, kiến nghị!
· Thứ
đến, như Kiến nghị 7 điểm về sửa đổi Hiến pháp ngày 19-01-2013 nói rõ,
mục đích của việc thành lập Nhà nước là để bảo vệ các quyền tự nhiên của
con người. Dự thảo tuy đã điều chỉnh thứ tự để đề cao các quyền này so
với Hiến pháp 1992 (từ chương 5 đưa lên chương 2), nhưng vẫn có vô số
điểm chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế về nhân quyền, như các quy định
hạn chế về quyền lợi (Điều 15, 16, 20), quy định tùy tiện về nghĩa vụ
(Điều 41, 42, 49). Việc nhấn mạnh “quyền con người, quyền công dân
có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” (thật vu vơ mơ hồ) rồi việc tiếp tục đưa vào cụm từ ma giáo “theo quy định của pháp luật” sẽ mở đường cho việc nhân danh HP để vi phạm nhân quyền, đàn áp tự do như mấy chục năm qua.
· Tư
hữu là quyền tự nhiên của mỗi con người. Điều 16 bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền đặt nó ngang hàng với tự do, an ninh và chống áp bức. Điều
17 bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền cũng khẳng định “mỗi cá nhân riêng
biệt hay trong cộng đồng đều có quyền tư hữu”. Tuyệt đại đa số những
bản HP trên thế giới đều ghi nhận tư hữu -đặc biệt tư hữu đất đai- là
quyền tuyệt đối của mỗi công dân, vì nó là điều kiện để bảo vệ tự do và
nhân phẩm. Thế nhưng, dự thảo sửa đổi HP 1992 vẫn khăng khăng khẳng định
ở Điều 57 (sửa đổi, bổ sung Điều 17, Điều 18) : «Đất đai… là tài sản
công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu». Rồi còn hợp
hiến hóa «quyền nhà nước thu hồi đất» ở Điều 58 (sửa đổi, bổ sung Điều
18) trong đó lại mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh
tế xã hội. Đây là một sự thụt lùi so với Hiến pháp 1992 và có thể gây
bùng nổ bất ổn trong một xã hội vốn đã chứng kiến hàng triệu vụ khiếu
nại, khiếu kiện về đất đai trong những năm qua.
· Hiến pháp đặt lợi ích của toàn dân và
tổ quốc lên trên lợi ích của bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào. Do đó
mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang (quân đội, công an, dân phòng…)
chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, giữ gìn sự an ninh của
xã hội, che chở cuộc sống của dân lành. Bởi thế lực lượng vũ trang phải
trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành (mà lại
trung thành tuyệt đối) với đảng CSVN, như quy định tại Điều 70 của Dự
thảo. Quy định này hết sức mới mẻ, không hề có trong các bản “HP” cũ, kể
cả “HP 1980” là lúc đảng ở đỉnh cao uy tín và quyền lực. Đó cũng là một
quy định quái đản, chưa hề thấy trong bất cứ một hiến pháp nào, bộc lộ
bản chất cực quyền của đảng CSVN và nỗi lo âu cực đại của cái tổ chức
chính trị chưa bao giờ vì dân vì nước này.
Tóm lại, có thể nói những bản văn gọi là
“Hiến pháp” 1959, 1980, 1992 và nhất là “Dự thảo sửa đổi HP 2013” chẳng
đáng gọi là Hiến pháp chút nào. Đó chỉ là ý muốn độc đoán, cương lĩnh
độc tài của đảng CS (theo kiểu Luật là tao! Tao là luật!) lâu lâu lại
sửa đổi chút ít để gia tăng quyền lực cho đảng, chứ chưa bao giờ biểu
hiện và thể hiện khát vọng tự do dân chủ của nhân dân, mệnh lệnh của chủ
nhân đất nước giao cho đầy tớ công bộc. Chính vì thế, các bản văn luật
pháp cao nhất này, thay vì xây dựng được một xã hội an lạc phú cường,
một đất nước phát triển tiến bộ, một cộng đồng hòa hợp đoàn kết, một
quốc gia uy tín đáng nể (như Hoa Kỳ và Âu châu chẳng hạn…) thì chỉ tạo
ra một Việt Nam tụt hậu đói nghèo, dân tình điêu đứng khốn khổ và vận
nước ngày càng suy vong, nguy kịch, nhất là trong bối cảnh kẻ thù truyền
kiếp Đại Hán đang hăm he.
Ban Biên Tập Tự do ngôn luận
0 comments:
Post a Comment