LÃO MÓC
“Ngỡ rằng quân tử nhất ngôn
Ngờ đâu quân tử sờ l… hai tay!”
Trong loạt bài tìm hiểu về hoạt động của một số nhà văn, nhà thơ người Việt trên đất Mỹ, cách đây hơn mười năm, ký giả Vĩnh Phúc của đài B.B.C. đã phỏng vấn các nhà văn, nhà thơ Hà Thượng Nhân, Vi Khuê, Võ Phiến, Nguyên Sa…
Khi được phỏng vấn, Võ Phiến, một tên tuổi rất quen thuộc trong làng văn học ở miền Nam trước năm 1975, đã từng cộng tác lâu dài với các tạp chí văn học ở Sàigòn như là Bách Khoa, Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Văn Học v.v… và cũng là người đã được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961, đã trả lời câu hỏi: “Nhận xét thế nào về văn học của mình ở đây?” như sau:
“Điều lạ là ở đây có nhiều biến chuyển giống như ở trong nước. Một mặt, số người viết tăng lên kinh khủng, không kể giá trị hay không giá trị, đó là so về số lượng. Đồng thời sách báo ra thêm nhiều lắm, số sách báo hàng tháng tăng lên so với trước rất nhiều. Nhưng mặt khác, số lượng độc giả lại ít đi. Hồi trước ở trong nước, thời Việt Nam Cộng Hòa có 20 triệu người, số ấn hành thì chỉ trừ những cuốn đặc biệt được 5.000 cuốn, còn trung bình thì cũng đuợc 2.000, 1.500 cuốn là ít.. Mà hồi đó ở ngoài Bắc họ lại in nhiều hơn, in muời mấy, hai chục ngàn, ba chục ngàn cuốn. Bây giờ tôi thấy trong năm 1991, 1992, ở trong nước 69 triệu người mà họ chỉ in có 1.000 cuốn. Phần nhiều sách của nhà xuất bản Văn Học mà in có 1.000, có sách chỉ in 500 cuốn. Ở đây cũng vậy, trước đây sách in được 1.500, 2.000 cuốn, mà giờ sách in chỉ còn khoảng 1.000 cuốn, có sách chỉ in 700 cuốn.”
Được hỏi: “… tại sao có hiện tượng như vậy, nói riêng ở hải ngoại này? Khác với cách đây chừng bảy năm?” nhà văn Võ Phiến đã phát biểu như sau:
“Có mấy yếu tố kết hợp với nhau. Một mặt là kỹ thuật ấn loát đuợc cải tiến nhiều, không có sự lọc đãi trước khi ra sách, có những cuốn lẽ ra không nên ra lại cũng đuợc tung ra. Bây giờ hàng tháng ông nọ bà kia quá nhiều, làm cho độc giả hoang mang, không biết cuốn nào mà mua, họ lại càng ít mua. Một mặt nữa, lớp đi trước qua đây đã lớn tuổi rồi, không làm việc được nhiều nữa, càng ngày túi tiền càng ít, sức mua không còn bao nhiêu nữa.”
Để trả lời câu hỏi: “Như vậy viễn tượng của nền văn học hải ngoại sẽ đi về đâu? Dần dần lụn bại và hết luôn? ”, nhà văn Võ Phiến cho rằng:
“Bây giờ thế giới diễn biến nhiều cái bất ngờ, mình không dám tiên liệu điều gì. Nhưng cứ coi xung quanh thì mình cũng thấy bi quan. Cộng đồng người Hoa là cộng đồng có văn hóa cao và họ có thói quen đọc sách báo hơn người Việt. Mà qua bên đây, họ đọc sách báo là từ nước họ đưa qua chứ số sách báo tiếng Hoa ở đây không có bao nhiêu. Thế hệ thứ hai, thứ ba đọc sách báo bằng ngôn ngữ họ cũng ít lắm, không có hy vọng đủ để tiếp tục nuôi sống nền văn học hải ngoại dài lâu. Nhưng nói vậy thôi, chứ mình cũng không thể tiên liệu được, biết đâu chừng có những diễn biến bất ngờ với cộng đồng người Việt.”
Được hỏi về “ hiện tượng một số vị lấy làm ngao ngán vì thấy sinh hoạt văn nghệ ở đây có lúc nó ồn ào quá mức”, ý kiến của nhà văn Võ Phiến như sau:
“Người mình thì có lẽ về ngành nào cũng vậy. Chính trị, cũng nhiều đảng phái lắm, tranh đua xích mích nhau dữ lắm. Thì trong văn nghệ cũng vậy. Chắc là đó cũng là một khía cạnh trong dân tộc tính của mình.”
*
Nhà thơ Nguyên Sa, tác giả bài thơ nổi tiếng “Áo lụa Hà Đông” với hai câu thơ:
Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
mà có anh thổ tả đã sửa lại thành một câu thơ rất là bôi bác như sau:
Nắng Cali anh đi mà chợt mát Bởi vì tay em cầm chặt check welfare
Khi được hỏi về tình trang báo chí: “ … Như vậy là ông (Nguyên Sa) có hoạt động về báo chí. Xin ông cho một vài nhận xét”, đã cho biết là “báo chí ở hải ngoại có một hiện tượng rất là đặc biệt, đó là báo biếu.”
Khi được hỏi về sự phát triển của ngành báo biếu, tác giả “Áo lụa Hà Đông”, lúc còn sinh tiền, đã có ý kiến như sau:
“Vâng. Báo biếu hoạt động mạnh lắm, nó làm ngành báo bán hoàn toàn bị suy sụp. Trong báo biếu, căn bản là người đăng quảng cáo, chứ không phải người đọc, và người chủ phải cố gắng phục vụ người đăng quảng cáo. Miễn sao mình thu được nhiều quảng cáo. Có thể do bài vở, có thể do ngoại giao, con đuờng thu hoạch tài chính không đương nhiên do sự phản ánh của độc giả. Hay có thể do hạ giá. Thành ra phẩm chất suy yếu dần dần.”
Trả lời câu hỏi: “Có người than phiền phẩm chất của một số tờ báo, bài báo, ông thấy thế nào?”, ý kiến của nhà thơ Nguyên Sa, cũng là chủ nhiệm báo Dân Chúng phát hành ở Nam Cali như sau:
“Thưa ông Vĩnh Phúc, tôi thấy đó là trách nhiệm chung của người làm báo và người đọc báo. Khi người đọc báo không đóng vai trò của một thẩm phán quyết định báo nào nên đọc, báo nào không nên đọc, thì họ sẽ nhận được toàn báo xấu. Họ không mua báo, mà ra chợ nhặt báo, nên người ra báo không nghĩ họ có trách nhiệm với người đọc vì họ không bán lấy tiền. Cái vòng luẩn quẩn là ở chỗ đó. Còn nếu tờ báo ra đuợc độc giả mua, thì khi tờ báo nói bậy, tôi không bằng lòng, tôi quay lưng lại, tất nhiên tờ báo phải chết nên người viết phải lập tức điều chỉnh nghề ngiệp của mình để đáp ứng ý muốn của người chủ, tức là người đọc. Còn trong lúc này dù người đọc có than phiền như vậy, thì họ có quyền than phiền, có quyền không thích, nhưng không ảnh hưởng gì tới tờ báo hết.”
*
Trên đây là hai ý kiến, một của nhà văn Võ Phiến trả lời về tình hình sách vở; một của nhà thơ Nguyên Sa phát biểu về tình hình báo chí ở hải ngoại cách đây hơn 20 năm.
Sau đó, thời thế đã đổi thay, lòng người đã thay đổi. Vào năm 1995, nhà văn Võ Phiến, cũng như các nhà văn Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong… có truyện ngắn được dịch qua Anh ngữ, in trong quyển “The Other Side of Heaven” với các truyện ngắn của các nhà văn ở trong nước. Các nhà văn Nhật Tiến, Nguyễn Mộng Giác đã được nhà cầm quyền Cộng Sản cho phép in và phát hành ác sáng tác của mình ở trong nước. Các nhà văn Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong… đã được Trung tâm William Joiner thuê mướn để cùng với hai nhà văn Việt Cộng Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Huệ Chi viết lại căn cước của 3 triệu người Việt Quốc Gia tỵ nạn chính trị (cộng sản) thành những Việt kiều tỵ nạn kinh tế.
Đã có những kẻ khi xưa quyền cao, lộc trọng nhờ ơn mưa móc của quân đội miền Nam, nay công khai coi thường dư luận quần chúng, nặn tượng, viết bài mỉa mai người lính VNCH đã không còn đứng lên được nữa để tiếp tục cuộc chiến.
Nhưng, chỉ là thiểu số. Đa số vẫn một lòng son sắt với lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ đã được tô thắm bởi máu đào của những người lính đã gục ngã bởi những viên đạn thù, lá cờ đã lộng lẫy uy nghi phảng phất những anh linh của những anh hùng tuẩn quốc Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú… và biết bao anh hùng vô danh khác đã hy sinh trong suốt chiều dài cuộc chiến.
Nhà thơ Nguyên Sa, lúc còn sống, với cảm nghĩ chân thật và ước vọng cháy lòng là “độc giả của mình là người trong nước, người cùng một tiếng nói với mình và người không cùng tiếng nói với mình. Trong hiện tình hiện nay của nhà văn Việt Nam, thì số người ở trong nước đông hơn ở ngoài nước, người ta cũng thích có độc giả của mình ở trong nước lẫn ngoài nước chứ không ai lại thích văn mình viết ra chỉ cho một số người Việt Nam ở ngoại quốc thôi. Vì tiếng Việt Nam là tiếng chung cho cả người ở trong nuớc lẫn ngoài nước, sở dĩ hiện nay tác phẩm mình không phổ biến trong nước đuợc là vì chính phủ cộng sản Hà Nội không cho phổ biến.”
Và nhà thơ khẳng định:
“Tôi nghĩ chỉ trong một thời gian ngắn nữa thì chế độ Việt Nam sẽ sụp đổ, để tôi trở về Việt Nam. Và tôi sẽ trở về Việt Nam khi nào chế độ độc tài đã hết., tôi không thích trở về với tư cách người du khách về thăm quê hương. Khi chế độ chấm dứt, tôi sẽ trở về quê hương tôi để ở, và tôi nghĩ các tác phẩm của tôi sẽ có đông độc giả.”
Chắc chắn có rất nhiều người cầm bút trước năm 1975, sau năm 1975 có cùng ước vọng cháy lòng và đã khẳng định – như nhà thơ Nguyên Sa đã khẳng định trong bài trả lời phỏng vấn của ký giả Vĩnh Phúc của đài B.B.C.
Nền văn chương hải ngoại là nền văn chương của chế độ miền Nam nối dài. Từ những đốm lửa nhỏ nhoi, những ngọn lửa đã bùng lên thành cơn bão lửa. Cộng sản Việt Nam đã lo sợ, tìm mọi cách dập tắt tiếng nói của những người cầm bút phục vụ cho Lẽ Phải và Sự Thật.
Những người cầm bút tiếp tay với WJC để viết lại tờ căn cước của 3 triệu người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại là những tên Việt gian mới. Những kẻ trí thức mù lòa như những tên Việt gian mới này trước sau cũng sẽ bị sự phán xét của công luận.
Tiếc thay những nhà thơ, nhà văn lớn, những Thái Sơn, Bắc Đẩu trên văn đàn hải ngoại, những vị có uy thế văn nghệ đầy mình lại im hơi, lặng tiếng trước những việc làm thô bỉ của bọn trí thức mù lòa này. Im lặng trong trường hợp này cũng có nghĩa là đồng lõa với bọn Việt gian tay sai Việt Cộng!
*
Mới đây, trên diễn đàn điện tử có phổ biến bài viết về nhà khảo cổ Vương Hồng Sển của nhà văn Hoàng Hải Thủy.
“Đầu năm Mậu Thân, ở đâu mà lại chẳng có cảnh bị bắn giết, đốt phá? Chính Gia Định cũng bị cảnh nhà tan ra h cát bụi, bàn ghế, của tiền thập vật chaý ra khói, ra tro, chỉ vì người cầm quyền ngoan cố, bám theo chính sách Mỹ và Thiệu chúng nó vãi tiền ra h cho đồng bào ta cùng một giống cầm súng bắn lẫn nhau, mà có như vậy họ mới đục nước béo cò, không khác những tên đầy tớ gian tham khi chủ sai đi mua vịt quay gà quay, giả lựa chọn bốc con này, nắm con kia, liếm mỡ cho đã rồi đem về cho chủ một con gà, một con vịtchỉ còn bộ xương dưới lớp da khô đét. Mỡ và thịt ai kia đã rút rỉa hết rồi! Nghĩ cũng thẹn cho nhà văn trói gà không chặt, lúc thế bọn ấy đang mạnh cũng phải giả dại qua ải, và đợi cho đến ngày hôm nay chúng đã cút mất, mới dám nói ngay sự thật.” (Trích Hơn Nửa Đời Hư, Vương Hồng Sển, NXB Tổng hợp tpHCM, ấn hnàh năm 1992, trang 421-422).
Nhà văn Hoàng Hải Thủy lên tiếng về việc ông Vương Hồng Sển là “kẻ đã nhận những ân huệ mà Quốc gia VNCH đã cho ông ta hưởng nhưng ông ta đã viết những điều bội bạc đối với VNCH. Đã có bao nhiêu người lính VNCH ngã xuống để cho ông Sển ngày ngày đến Viện Bảo Tàng trong Vường Bách Thảo an nhàn, thoải mái làm công việc ông thích, để ông ung dung thả bột đi tìm mua đồ cổ, đã có bao nhiêu người vợ lính QLVNCH khóc để cho vợ chồng ông Vương Hồng Sển – bà Năm Sa Đéc sống yên ổn với nhau?”
Tôi đồng ý 500% với ý kiến của nhà văn HHT. Nhưng theo tôi, thái độ và việc làm của các ông Vương Hồng Sển, Á Nam Trần Tuấn Khải v.v… không đáng trách bằng những người cầm bút như Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong, Đặng Tiến và những kẻ cùng đi một đường với bọn này.
Mới đây tôi có thấy ông nhà thơ Du Tử Lê tức cựu Đại úy Tâm Lý chiến QLVNCH Lê Cự Phách về Việt Nam ra mắt tập thơ “Giỏ hoa thời mới lớn” Theo bài viết có cái tựa đề “Chuyện ít người biết về thi sĩ Du Tử Lê” do nhà báo Tùng Duy viết ngày 21-6-2014. Theo bài báo thì ông cựu Đại úy Lê Cự Phách phải lên tàu vượt biên theo lời yêu cầu của bà chị dâu của ông ta:
“Chú không đi cùng anh chị thì ai sẽ lo cho các cháu! Chú không được quay lại thành phố. Súng nổ khắp nơi kia kìa. Lỡ có mệnh hệ nào thị chị biết nói sao với mẹ đây?” Và “con tàu đã cõng ông cựu Đại úy Lê Cự Phách” tức nhà thơ vĩ đại Du Tử Lê “có thơ đăng ở báo Mỹ, được đem giảng dạy ở đại học Mỹ” qua Mỹ.
Và, 39 năm sau, nhà thơ vĩ đại của chế độ miền Nam (sic!) Du Tử Lê, tức Lê Cự Phách, cựu Đại uý Tâm Lý chiến QLVNCH đã trở về VN để in thơ giao lưu văn hoá với chính thể Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa!
Theo tôi, bọn văn nghệ sĩ “sờ l.. hai tay” như Du Tử Lê và đồng bọn đáng khinh bỉ hơn bọn văn nhân vô hạnh ở trong nước như Vương Hồng Sển, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Hiến Lê v.v… nhiều!
Vì ít ra bọn chúng nó cũng biết được thế nào là tự do, dân chủ và nhân quyền khi trở thành người tỵ nạn lưu vong; chứ chúng nó không phải bị bịt mắt như những người cầm bút ở trong nước. Chúng nó đáng khinh vì chúng nó tự bịt mắt để “sờ l… hai tay!”
LÃO MÓC
0 comments:
Post a Comment