Mấy
hôm nay, Bà Năm mất cả ăn, cả ngủ vì chỉ còn 1 ngày nữa thôi, sáng mai
là Bà lên máy bay sang Mỹ đoàn tụ gia đình, sống với đứa con gái lớn đã
sang sinh sống ở Mỹ dễ chừng hơn 2 chục năm rồi.
Lâu lâu nó vẫn gửi thư cho Bà và gửi tiền nữa. Với số tiền 5, 6 trăm
đô la mỗi lần nó gửi về, đem đổi ra tiền Việt Nam hơn chục triệu lận. Bà
ngồi mà ăn, cúng vô chỗ này, chỗ nọ để lo cho kẻ nghèo khổ, giúp đỡ bà
con, chòm xóm, kẻ nhiều người ít, cũng không cách nào cho hết. Bà già
rồi, sống với đứa con gái út, hàng ngày chỉ có việc ăn 2,3 bửa rồi đi
đây, đi đó, thăm bà con, bè bạn. Về nhà thì mở Ti Vi , coi băng video
cải lương, phim hài, phim chưởng… đủ thứ trên đời. Cuộc sống của Bà nghĩ
thật sung sướng. Bao nhiêu người già cả ở quanh cái chợ Bà Chiểu, Quận
Bình Thạnh nơi đất Sài Gòn này, ước mơ có được một phần cuộc sống của Bà
mà đâu có được. Họ phải đầu tắt, mặt tối, chạy xuôi chạy ngược, buôn
bán tảo tần nơi lề đường, hè phố, bị công an rượt đuổi chạy có cờ, để
kiếm miếng ăn cho no cái bụng thôi mà cũng không nổi.
Bà Năm có đứa con gái vượt biển rồi đi Mỹ mà cuộc đời sướng như thế đó. Người ta bảo “Bà
Năm ăn ở phúc đức lắm mới được đứa con gái như thế. Chớ biết bao nhiêu
người, sinh con đẻ cái, gái trai cả bầy mà có làm nên cơm cháo gì đâu ? “.
Cuộc đời của Bà quả là sướng như tiên ở Sài Gòn rồi còn chi nữa. Bảo
đứa con gái út viết thư cho chị nó, Bà cứ bảo nó viết cái tên Sài
Gòn, vừa quen, vừa gọn, vừa dễ nghe, chớ đâu lại có cái tên dài lòng
thòng…Thành Phố Hồ Chí Minh, nghe mệt thấy mồ.
Mỗi khi nhận được thư của đứa con gái từ Mỹ gửi về Sài Gòn cho Bà, có lúc kèm theo vài tấm ảnh… theo thói quen từ hồi có… “ loại thư Việt Kiều gửi về quê “,
Bà lại dúi vào tay người đưa thư mấy ngàn bạc cho người ta vui vẻ,
lương tiền nhà nước làm chi đủ sống . Chu cha ! Đất Mỹ đẹp quá trời !
Con Nguyệt, con gái Bà, nói nó ở thành phố San Diego, tiểu bang Ca-li,
một thành phố đẹp lắm. Coi những tấm ảnh, Bà thấy thành phố San Diego
quả là đẹp thật. Nhà cửa, đồ đạc, xe cộ của con gái Bà sao mà đẹp chi
lạ! Hai đứa con trai của nó trong ảnh còn đẹp hơn cả mấy đứa trẻ trong
những bức tranh Tầu ôm quả đào tiên nữa lận. Con Nguyệt nó bảo làm thủ
tục bảo lãnh cho Bà sang Mỹ ở với nó. Nó bảo Bà già rồi, sang Mỹ khỏi có
phải làm ăn chi hết, rồi ít lâu sau thành dân Mỹ, lại có tiền chính phủ
nuôi, chỉ ở nhà chơi với cháu thôi. Bà muốn coi cải lương hả ? – Băng
Video phim Việt Nam, phim Tầu, phim chưởng Hồng Kông nhiều vô số kể.
Chẳng thiếu thứ gì. Nó mua, nó thuê về nhà cả thùng lận. Bà tha hồ mà
coi. Bà muốn đi Chùa hả ? – Nó lái xe Mỹ, xe Nhật êm ru bà rù, chở Bà đi
đây, đi đó, chỉ nháy mắt là tới nơi, chớ đâu có phải đi bộ mỏi cả giò,
đổ mồ hôi hột hay đi xích lô chạy loạng quà loạng quạng, cứ như muốn ủi
vào xe lam, xe đạp, xe Honda, ô tô con, ô tô mẹ , chạy tưới hạt sen, lộn
xộn xà ngầu… kinh khủng, muốn chết quá!
Mấy năm trước, khi Ông Cụ còn sống mà ai nói tới chuyện kéo Ông đi Mỹ sống với con gái là Ông chửi toáng cả lên: “Không
có đi đâu cả ! Ở quê nhà với bà con, chòm xóm bạn bè, mồ mả Tổ Tiên
không sướng hơn hay sao ? Tiền bạc nó gửi về, ngồi mà ăn đến chết cũng
không hết. Già cả rồi, sang đó làm nên cái giống chi mà làm ? “
Thế nhưng từ ngày Ông Cụ mất đi, Bà Cụ thấy buồn buồn làm sao ấy.
Thiếu người bầu bạn. Đôi khi có cằn nhằn gấu ó với nhau về cái chuyện ”
Đi hay ở ” thật đấy, nhưng lúc này Bà Năm mới cảm thấy cô đơn, cô đơn
thưc sự. Người già có cái tình yêu thương cũng như nỗi cô đơn của người
gia. Thế là càng ngày Bà càng cảm thấy cần phải đi Mỹ để sống với đứa
con gái mà Bà từng mang nặng, đẻ đau, rồi còn gian nan về những phen
chạy giặc, chiến tranh nữa chớ. Bà phải đi Mỹ để sống với hai đứa cháu
ngoại trong ảnh thật dễ thương. Lắm lúc Bà ngồi một mình mà nước mắt
rưng rưng, Bà thương đứa con gái hiếu thảo và hai đứa cháu ngoại quá
chừng chừng…
Sáng nay, Bà gọi con Lan, đứa con gái út, dậy thật sớm để kịp ra phi
trường Tân Sơn Nhất. Máy bay cất cánh lúc 7 giờ sáng nhưng xe đón từ lúc
5 giờ. Bà Năm có 2 đứa con gái, con Nguyệt là lớn, vượt biển đi Mỹ đã
hơn 2 chục năm. Con Lan là thứ nhì mà cũng là út, lúc ấy còn bé tí ti.
Bây giờ con Lan đã lớn tướng rồi, đã vào Đại Học và theo mấy khoá Tiếng
Anh. Chị nó bảo ” Sang Mỹ, con Lan sẽ vào Đại Học, tha hồ mà học.” Con
Lan đang ở cái tuổi mới lớn, nó còn thích đi Mỹ hơn cả bà Năm nữa, tuy
rằng đi Mỹ thì nó phải xa vô số bạn bè, thân thiết, đã từng gắn bó với
nhau trong những tháng ngày khốn khổ, gian nan, kinh hoàng nữa chớ. Nó
nghĩ lại mới ngày nào đó, vậy mà Chị nó đi Mỹ cũng đã hơn 2 chục năm,
mau dễ sợ ! Nó tính trong đầu : sang Mỹ chịu khó mất vài 4 năm thì cũng
lấy xong cái B.S. hay B.A. chi đó như Chị nó nói. Học thêm vài năm cũng
lấy được cái bằng Master cho nó hách, rồi đi làm. Thế là sẽ có vô số
tiền. Nó sẽ đáp máy bay từ Mỹ về Sài Gòn. Lúc đó là đi thẳng cái một,
khỏi có… quá cảnh xứ này, nước nọ lôi thôi. Bạn bè của nó kéo cả băng,
cả đoàn đi đón. Vui ơi là vui ! Nó sẽ cho tiền những đứa bạn nào nghèo
khó, chồng con vất vả đầu hôm sớm mai. Nó sẽ lôi hết bạn bè cũ cùng học
lớp 12 với nó ở Sài Gòn, thuê vài cái xe đi chơi khắp mọi chỗ kêu bằng
danh lam thắng cảnh, quay video, chụp ảnh, đi ăn nhà hàng chết bỏ…
cho bỏ ghét những ngày “con nít” chẳng dám đi đâu hay làm cái gì…
Có tiếng xe “ping ! ping !” ở ngoài cổng. Người ta tới đón mẹ con Bà
Năm ra phi trường. Bà con, bạn bè lối xóm bu lại, nước mắt ngắn dài, kẻ ở
người đi… Ôí! Cảnh biệt ly sao mà buồn thế ! Mẹ con Bà Năm với mấy cái
va-li bự chảng, hai cái xách tay nho nhỏ đã lên xe. Một số bà con thân
thiết cũng leo lên xe để tiễn mẹ con bà Năm tới tận phi trường. Một số
bà con ở lại, vẫy tay từ biệt khi cái xe 12 chỗ ngồi đã từ từ lăn bánh.
Bà Năm cố nhìn lại cái xóm cũ đã gắn bó, sống chết với Bà từ bao
nhiêu năm nay. Những dẫy nhà hai bên đường phố chạy thụt lui lại phiá
sau cùng những bóng cây, cột đèn, thân thương quá đỗi. Vài chiếc xích-lô
đưa khách sớm, dăm cái xe đạp, vài chiếc Honda rồ máy chạy ào ào… Tự
nhiên Bà Năm thấy nhớ, thấy thương Sài Gòn quá đi mất thôi. Vậy mà Bà nỡ
bỏ nó để đi xa, chẳng biết bao giờ mới trở lại nơi này.
Bác tài xế bấm còi “ping ! ping!” khi tới chỗ ngã tư đông người lộn
xộn làm con Lan giật mình khi còn đang ngủ gà, ngủ gật vì sáng nay nó
phải dậy sớm. Xe qua cổng phi trường, vòng qua vòng lại rồi đậu phía
trước một ngôi nhà đông nghẹt những người.
Hai mẹ con Bà Năm đã lọt vào trong căn phòng “cách ly” để lại bên
ngoài số bà con, bạn bè thân thiết với bao nhiêu nỗi niềm thương nhớ đến
độ xót xa. Thoát được cái cảnh lo sợ bị rạch túi, mất giấy tờ, tiền bạc
như thiên hạ vẫn đồn đại, Bà Năm thấy an tâm đỡ khổ. Bà Năm đã già, lẩm
cẩm, may mà có con Lan đi theo chớ không dám chết quá. Bà có biết trời
trăng, mây nước gì đâu. Hết nạp giấy tờ, kêu tên, rồi nạp tiền đủ thứ
linh tinh. Đến chỗ mấy ông, mấy bà công an áo vàng, cầu vai đỏ chóe, bà
hơi run khi thấy họ lục xét, bới tung đồ đạc của mấy người đi trước. Con
Lan hích hích cùi chỏ rồi thò tay bấm Bà: “Má để con !” Con nhỏ này nó
học ở đâu mà bữa nay nó lanh như quạ, dấm dúi tiền bạc cho đám công an
bằng những cái phong bì ” có nhân ” ở bên trong. Kẹt quá, nó dúi đại cả
mớ tiền Hồ vào tay bọn công an tỉnh bơ, chẳng còn coi ai ra gì cả . Công
việc đi qua nhanh như gió. Cuối cùng một lão công an, mặt lạnh như
tiền, hất hàm hỏi: “Bà và Cô có đem theo đô la không ?”. Con Lan trả
lời: “Thưa, không.”. “Thế còn giữ tiền Việt Nam không ?” Con Lan lại
hích hích cái cùi chỏ vào ba sườn Mẹ nó. Bà Năm lôi trong người ra cái
phong bì to bự đựng mớ tiền Hồ còn lại, đưa cho lão công an, miệng líu
ríu: ”Còn lại mấy trăm ngàn, xin biếu đồng chí uống cà phê .” Lão công
an phì cười khi nhét cái phong bì vào ngăn kéo bàn gần đó nhanh như
người ta làm xiệc . Lão ta cười chắc là vì lão ta có đồng chí đồng chóe
gì với Bà Năm bao giờ đâu.
Hành khách lên xe, ra chỗ máy bay đậu. Ngồi trong máy bay rồi, con
Lan buộc dây lưng an toàn cho Mẹ. Sau một hồi gầm gừ, lắc lư, chiếc máy
bay Hàng Không Việt Nam từ từ cất cánh. Bà Năm nhăn mặt vì khó chịu, nôn
nao trong người. Ngồi cạnh cửa kính máy bay, Bà Năm thấy phố xá, đồng
ruộng quanh vùng Sài Gòn lu mơ, xa dần, rồi mất hẳn. Chung quanh chỉ còn
là mây trắng xoá, mịt mờ…
Nỗi buồn xa xứ ở đâu tự nhiên kéo đến. Hai hàng nước mắt chạy quanh.
Con Lan giương tròn đôi mắt nhìn Mẹ nhưng chắc là nó không làm sao hiểu
nổi. Máy bay dừng lại ở Thái Lan để chuyển sang máy bay quốc tế, nghe
nói bự lắm. Con Lan lúc này lanh lẹ, dễ thương vô cùng. Nó thương Mẹ nó.
Nó lo cho Bà đủ chuyện trong chuyến đi nưả vòng trái đất đầu tiên và
chắc cũng là cuối cùng của đời Bà. Mới ăn có một bữa trên máy bay với
một bữa ở khách sạn để chờ chuyển máy bay mà Bà Năm đã thấy nhớ món cá
lóc nấu canh chua, cá nục kho khô, nhất là điã giá sống… Con Lan cứ ăn
tỉnh bơ, ào ào hết sạch. Con gái 17 bẻ gẫy sừng bò còn được, huống hồ
năm nay nó đã lớn tướng, dư sức lấy chồng được rồi. Bà lẩm cẩm lo nghĩ
vẩn vơ: “Nếu cứ ăn uống hoài kiểu này chắc chết quá !” Mà không, con gái
Bà nó bảo ở bên Mỹ đồ ăn không thiếu cái chi cả. Chợ Mỹ, Chợ Tầu, chợ
Việt Nam có đủ hết. Tha hồ mà làm… bún bò giò heo, bún cá, phở, mì, bánh
canh, bánh xèo, chả giò, bánh cuốn… Tự nhiên Bà Năm lại thấy lên tinh
thần.
Người ta hướng dẫn Mẹ con Bà Năm lên cái máy bay to chi lạ. Nghe nói
nó chở cả mấy trăm con người và vô số đồ đạc, va-li, thùng, xách, linh
tinh. Dễ sợ thật ! Bà thấy hành khách đông vô số kể, ngồi trông từa tựa
như cái rạp cải lương ở gần Chợ Bà Chiểu thân quen của Bà. Mấy cái màn
ảnh chiếu phim cả ngày cả đêm, họa hoằn mới cho chúng nó giải lao, nghỉ
xả hơi một lúc. Cứ độ 2 tiếng đồng hồ, mấy cô tiếp viên lại đẩy cái xe
đi quanh, dọn ăn, dọn uống cho khách. Bà nghe nói ở Mỹ cả chục triệu
người béo phị, đi không nổi. Chắc tại họ ăn uống lu bù tối ngày sáng đêm
như thế này chăng. Bà ăn đâu có nổi, Chỉ có con Lan là cứ tỉnh bơ như
sáo sậu, hết coi phim lại ăn, lại uống. Bà bảo con Lan: “Con ăn nhiều
thế, mai mốt béo phị ra thì ai nó thèm lấy !” Con Lan phì cười: “Má đừng
có lo ! Con biết hết trơn rồi .”
Máy bay bay miết, bay hoài, dễ chừng cả ngày lẫn đêm chi đó. Bà Năm
thấy cái lối sống ở trên máy bay và chắc cả ở Mỹ nữa nó không đơn giản
như ở quê nhà, nơi gần chợ Bà Chiểu. Cái chi cũng máy với móc, lộn xà
lộn xộn, không biết đâu mà rờ cả.
Máy bay hạ cánh xuống phi trường Mỹ. Con Lan bảo là Phi Trường quốc
tế Los Angeles. Bà Năm mệt mỏi nhừ tử cả người, đứng lên muốn hết nổi.
Con
gái Bà, con Nguyệt sẽ lái xe từ San Diego lên đón Mẹ con Bà ngay tại
nơi này. Người đâu mà đông thế ? Người ta ăn mặc thật là kỳ cục. Cả đời,
bây giờ Bà mới thấy người ta ăn mặc chẳng giống dân Sài Gòn của bà tí
nào. Đàn ông, con trai thì lắm người mặc áo để phanh cả bộ ngực lông lá
tùm lum. Có người ăn mặc đồ lớn như dân Sài Gòn đi ăn cưới.có người chỉ
mặc có mỗi chiếc áo “may-ô ba lỗ”, có người cởi trần trùng trục đi lại
tự nhiên, thoải mái. Đàn bà con gái cũng mặc quần, mặc váy như mấy cô,
mấy bà hạng sang ở sài Gòn, nhưng có nhiều người lại mặc váy , quần cụt,
ngắn cũn cỡn trông chẳng giống ai. Ở chỗ đông người thế này mà đàn bà
con gái chi lạ, cứ như ở trần, ở trên thì vú vê to nung núc, rùng rà
rùng rình, để ra cả đống cho người ta coi, ở dưới cứ như là … để ra
ngoài hết trơn, cái quần, cái váy ngắn tí teo, lại còn xẻ rạch lên một
khúc nữa. Trông dễ sợ quá ! Bà Năm không biết con gái mình, con Nguyệt
nó có ăn mặc như thế này không ? Nếu nó lại bắt Bà phải ăn mặc như thế
nữa thì không biết rồi ra làm sao ? Liệu Bà sống nổi hay không ? Tự
nhiên Bà chặc lưỡi, kệ nó tới đâu thì tới, đã đến đất Mỹ thì cũng như đã
leo lên lưng cọp rồi, tụt xuống đâu còn được nữa. Thôi thì cũng liều
nhắm mắt đưa chân, thử xem đất Mỹ xoay vần tới đâu .
Sau khi làm thủ tục giấy tờ này nọ, Mẹ con Bà đẩy xe hành lý ra phía
ngoài. Còn đang ngơ ngác thì con gái Bà, con Nguyệt, đã la lên: “Má ! Má
Con đây nè !”. Con gái Bà lúc này nó cao, nó to con, nó đẹp như “đầm”
ấy, Bà nhận ra không nổi. Nó chỉ người đàn ông đứng bên cạnh: “Đây là
chồng con . Đây là hai đứa cháu ngoại của Má ! Và đây là bạn bè của
con…” Con Lan đứng sau lưng Bà, bây giờ mới đến phiên người ta ôm lấy nó
cứng ngắc, hỏi thăm rối rít tít mù, làm cho nó đỏ bừng cả mặt, cả tai…
Mấy cái xe Mỹ, xe Nhật bóng láng đưa Mẹ con Bà Năm về nhà con gái. Bà
thấy cái chi cũng lạ. Nhà to và đẹp quá, nhưng không bầy đồ đạc tùm lum
tà la như nhà của Bà ở gần Chợ Bà Chiểu. Con rể và con gái Bà chắc hẳn
giầu lắm. Hai đứa cháu ngoại thì cứ nhìn Bà mà nói với nhau bằng thứ
tiếng gì Bà không hiểu. Chắc là tiếng Mỹ ! Vợ chồng con Nguyệt nói với
Bà thì bằng tiếng Việt, còn khi chúng nó nói chuyện với nhau lại bằng
tiếng Mỹ chi đó, làm Bà chẳng hiểu chi hết trơn.
Gặp mấy ngày nghỉ cuối tuần, bà con bạn bè người Việt ở gần, nghe tin
Bà Năm sang Mỹ, cũng kéo tới thăm. Bà cũng thấy vui vui một chút. Cơm
nước bầy ra đầy cả bàn, nhưng Bà ăn sao nó dở ẹt, không bằng món cá bống
kho tiêu, cá lóc nấu canh chua của Bà ở Sài Gòn. Chúng nó lấy xe chở Mẹ
con Bà đi chơi tùm lum đủ chỗ, đẹp mắt và to lớn, vĩ đại vô cùng. Sạch
sẽ nữa chớ, không có tạp nhạp, lộn xộn, dơ dáy như cái xóm cũ của Bà.
Mấy ngày đầu đoàn tụ qua đi. Vợ chồng con Nguyệt đi làm, hai đứa cháu
ngoại được đưa đến trường học con nít. Chỉ còn Bà với con Lan ở nhà,
cái nhà rộng thinh rộng thang, phòng dưới nhà, phòng trên lầu, đủ kiểu .
Chẳng bù với cái nhà của Bà gần Chợ Bà Chiểu, chỉ có một cái phòng để
ngủ, một phòng cho khách ngồi chơi, còn lại là nhà bếp với bộ bàn ghế ăn
cơm và linh tinh đủ thứ. Ấy vậy mà mới ở Mỹ chưa được một tháng, Bà Năm
đã lại thấy nhớ nhung luyến tiếc nếp sống của Bà, một bà già hiền lành,
chất phác, ở gần chợ Bà Chiểu. Đến cái ngày con Lan được Chị nó dẫn đi
học ở cái trường nào đó xa lắm, phải đi bằng xe hơi, chớ không có đi bộ
hay đi xe đạp được đâu. Thế là chỉ còn có một mình Bà ở lại với ngôi nhà
to lớn rộng thênh thang mà thôi. Lúc này, Bà thấy quả thiệt là buồn,
cái buồn miên man khó tả. Con Lan đã chỉ cho bà cách bật Ti Vi bằng cái
bấm cầm tay. Bật máy lên thì Bà chỉ thấy toàn là đánh lộn, la hét um
xùm. Bật sang kênh khác thì lại bắn súng đùng đùng, máu me tùm lum. Bà
ráng thử bật sang kênh khác nữa. Trời đất quỷ thần ! Một lão đàn ông,
một mụ đàn bà ôm nhau cứng ngắc, hôn hít cứ y như là cắn nhau vậy thôi.
Rồi cả hai nhào lên giường vật lộn. Con mụ đàn bà chịu thua, nằm nhắm
mắt, giật đùng đùng, kêu lí nhí, rên hừ hừ rồi bỗng nó vùng vẫy nhào lên
trên, đè hung hãn, như người ta phi ngựa nước đại, trông mà phát khiếp,
chi mà kỳ lạ ! Chán quá, Bà tắt máy chẳng buồn lắp phim, coi cải lương
với lại chưởng Tầu. Hết đi ra lại đi vô, Bà đâm ra cứ muốn ngủ gà, ngủ
vịt. Mà nằm xuống thì đâu có ngủ được…
Bà từng nghe nói thành phố San Diego là nơi ấm áp mà sao muà lạnh mới
sang Bà đã thấy lạnh chi mà lạnh dữ. Ở Sài Gòn, Bà có thấy lạnh bao giờ
đâu. Buổi sáng sớm và ban đêm, ở Mỹ, Bà cứ phải mặc cả mớ quần áo,
trông to bự trác như hình vẽ Ông già Nô-en vậy. Có bữa con Lan mở Ti Vi,
Bà thấy cảnh động đất, mưa lụt, bão bùng, xe cộ tông nhau, người chết,
nhà cửa tan tành…Ở Mỹ cái gì đối với Bà cũng vĩ đại, to lớn, dễ sợ, kinh
hoàng, dựng tóc gáy, nổi da gà. Nó không yên tĩnh, hiền lành như cái
vùng đất chợ Bà Chiểu của Bà.
Tối đến vợ chồng con Nguyệt mới đi làm về. Cả nhà chỉ gặp nhau vào
lúc ăn cơm. Ăn xong, ai về phòng người nấy, hay vợ chồng con Nguyệt lại
lấy xe đi đâu đến khuya. Bà Năm muốn chơi với hai đứa cháu ngoại. Khốn
nỗi hai đứa nhỏ lại chỉ biết nói tiếng Mỹ mà thôi, Bà đâu có hiểu. Còn
có con Lan thì nó lo học và làm bài túi bụi. Rảnh một tí, nó mở cái Ti
Vi để coi ca nhạc mà kẻ đàn, người hát cứ như đánh vật với nhau, la hét
um xùm. Hình như nó bảo nhạc Rốc, nhạc riếc chi đó, nghe đến chóng cả
mặt, đau cả đầu. Không thế thì nó lại ôm cái điện thoại nói chuyện với
bạn với bè. Nói liên hồi, không biết mệt. Chuyện chi mà nhiều thế ?
Bà Năm đau nặng phải vô nằm bệnh viện, lắm lúc mê man rồi lại tỉnh.
Vợ chồng con Nguyệt chỉ biết thương Bà, nhưng vẫn không hiểu được. Bà
chỉ có con Lan về sau nó hiểu, nó hỏi: “Có phải ở đây Má buồn, Má không
chuyện trò được với ai, nhất là với hai đứa cháu ngoại, Má nhớ Quê
Hương, bạn bè của Má, Má nhớ mồ mả Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, Má nhớ Chợ
Bà Chiểu… nên Má đau, Má bịnh phải không ?” Bà Năm nắm lấy tay nó rồi
gật đầu. Con Lan bỗng nhiên mím môi lại, nước mắt chẩy hai hàng: “Sao Má
không ở lại Việt Nam với chòm xóm, bạn bè, với Chợ Bà Chiểu của Má ? Má
không chịu đi Mỹ thì đâu con có đi ! Con nhất định ở với Má cho đến khi
nào Má không còn nữa, Má đi với Ba cơ mà !” Rồi nó ôm mặt khóc rưng rức
sót thương cho Mẹ, người đã suốt đời khổ cực vì chồng vì con, hình như
chẳng có lúc nào để nghĩ đến chính mình. Bỗng bà Năm tỉnh táo, vẫy tay
cho vợ chồng con Nguyệt cùng tới gần. Bà nắm lấy tay 2 đứa con gái, nói
trong hơi thở nghẹn ngào: “Má chấp nhận rời bỏ tất cả để ra đi vì Má
thấy thương con Nguyệt, nó muốn Má được an nhàn, sung sướng lúc tuổi
già, nhất là Má thương con Lan, Má hy sinh vì mong cho nó được ăn học
nên người và có một cuộc sống tốt đẹp như Chị nó ở đất nước văn minh,
giầu có, vĩ đại như thế này. Má già rồi nên không quen, nhưng Má chấp
nhận. Má chỉ tiếc một điều là không được chết và nghỉ yên bên cạnh Ba
con.”
Nguyệt lúc này mới cảm thấy một nỗi xót xa thật to lớn . Nguyệt đã
chịu một phần trách nhiệm trong cái chết của Bà Năm. Vợ chồng Nguyệt đã
không làm được một việc mà nhiều gia đình Việt Nam khác đã làm được. Đó
là vợ chồng Nguyệt không để ý hay không làm được cái việc: dậy cho 2 đứa
con những khi ở nhà với Cha Mẹ, tập nói tiếng Việt. Nếu hai đứa con của
Nguyệt nói được tiếng Việt như nhiều đứa trẻ gốc Việt khác thì Bà Năm
đã có nhiều giờ phút khuây khỏa, vui chơi, chuyện trò với hai đứa cháu
ngoại mà Bà thương hết mình. Đằng này, Bà không làm sao gần gũi được với
chúng nó. Khi Bà và hai đứa cháu ngoại gần nhau, thay vì chuyện trò như
nhiều gia đình gốc Việt Nam khác, thì lại chỉ biết nhìn nhau như những
người xa lạ ở đâu đâu ấy. Nguyệt cũng úp mặt vào hai bàn tay để dấu đi
những giọt nước mắt xót thương người Mẹ già đã từ giã tất cả để đến nơi
đây sống với mình. Nguyệt thương Mẹ nhưng đã không hiểu được Mẹ. Bây giờ
thì mọi sự đã trễ mất rồi, không cách nào làm lại được nữa dù chỉ một
lần. Nếu 2 đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt để Bà cháu hủ hỉ với
nhau thì Bà Năm không nói được nữa, Bà đã vĩnh viễn ra đi để được sống
với chồng Bà bên kia thế giới, có lẽ gần gũi hơn với Quê Hương Đất Tổ, ở
đó có nhiều bạn bè thân thiết và có cái chợ Bà Chiểu thân thương gắn bó
với Bà từ những ngày khốn khổ xa xưa.
Phan Đức Minh
0 comments:
Post a Comment