Trên
đời này đã không có cái gì đáng để gọi là tất yếu cả, giống như lịch sử
được hoàn thành, chẳng qua cũng chỉ nhờ vào sự bất ngờ mà tạo nên những
sự kiện. Bởi vậy nếu năm 1945 không có sự xuất hiện của Hồ Chí Minh và
Ðảng Cộng Sản, thì chắc chắn Dân Tộc Việt đã thoát được cảnh núi xương
sông máu và sự chậm tiến suốt hơn 80 năm qua, khi phải sống dưới ách
thống trị của chủ thuyết Mác-Lênin, được đảng ngụy trang qua cái gọi là
“tư tưởng HCM”. Kể làm sao cho hết được những thảm kịch VN trong thiên
đàng xã nghĩa sau khi Hồ và đảng đã cưởng đoạt được chính quyền.
Tóm lại, VN ngày nay trong vòng tay nhân ái của đảng, đã trở thành
một xã hội trộm cướp phi luân, từ trong cung đình ra tới hè phố mà thủ
phạm không ai khác hơn là cán bộ, công an và bộ đội giải ngũ.
Ðó chẳng phải là sự nghịch lý hay sao, vì cả nước ngày nay đâu có khác
gì một nhà tù mà cai ngục là mạng lưới công an đen nghịt vây bũa. Do đó
để sống còn, cả nước đã học theo guơng đảng nói láo và lừa bịp lẫn nhau
kể cả người thân trong gia đình, đảng đoàn và ngoài xã hội. Trong hệ quả
tất yếu của sinh mệnh, mọi tầng lớp đồng bào nghèo nhất là giới thanh
niên chỉ còn biết buông xuôi tương lai, bê tha cuộc sống để tự giết mình
quên đời. Tất cả mọi sự đổ vở của căn nhà văn hiến VN bao đời, cũng đều
do chế độ và chủ nghĩa CS phá sập hay bôi lọ xuyên tạc những quan niệm,
truyền thống nếp sống luân lý của dân tộc, để thay vào đó bằng mớ luận
thuyết sặc mùi đấu tranh giai cấp Nga-Tàu, nhằm gây chia rẽ mọi người để
đảng thao túng cai trị.
Ðó chính là những đóng góp và cái được gọi là tinh thần vô sản ưu
việt của đảng CSVN trong dòng lịch sử dân tộc, mà Trần Bạch Ðằng trước
khi chết đã to miệng bảo rằng thực thể VN đang thành tựu trong sự phồn
vinh (!?).
Nhận xét trên thật đúng nhưng chỉ dành cho đảng mà thôi vì trong lúc
dân nghèo mạt rệp thì chưa lúc nào đảng giàu bằng lúc này, qua nguồn
tiền của tư bản đổ vào ào ào như nước chảy, giúp các giai cấp lãnh đạo
chính quyền chỉ một sớm một chiều, từ bần cố nông trở nên địa chủ, phú
nông và hàng thượng lưu trưởng giả nhất trong xã hội đương thời. VN từ
ngày lập quốc tới nay vẫn dựa vào “nông, công và thương nghiệp” để mà
sinh tồn mặc dù địa vị của người sĩ phu trí thức được đứng đầu và nông
gia chiếm tới 85% dân số cả nước. Chính nhờ vào nền kinh tế tự túc có
tính cách gia đình này, mà VN ngay thời kỳ chiến tranh hay bị Pháp đô
hộ, vẫn nằm ngoài danh sách 20 quốc gia nghèo đói trên hoàn vũ, trong
lúc đó dưới sự hỗn mang của chế độ “công, tư sản lẫn lộn”, nước ta bị
các cơ quan quốc tế tài trợ như IMF, WB.. xếp vào số 10 nước thiếu ăn,
tệ mạt nhất thế giới.
Giữa lúc cả nước vẫn coi cái ăn là điều quan trong của kiếp người,
thì đảng lại đốt giai đoạn một trăm năm lạc hậu, xóa bỏ cái nền kinh tế
tự túc của dân tộc bao đời, để thay thế vào những bước nhảy vọt giống
như Mao Trạch Ðông từng làm thuở nào, qua cái gọi “công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” nhưng thực chất là thừa cơ làm thêm một vụ “cải cách ruộng
đất” như đã làm trên đất Bắc, để thu gọn vào tay tất cả đất đai vườn
ruộng của đồng bào miền Nam VN, một giấc mơ vĩ đại mà đảng đã đeo đẳng
suốt 38 năm qua nhưng chưa đạt được vì vấp phải sự chống đối mãnh liệt
của tầng lớp nông dân Nam VN, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Nhìn lại lịch sử thế giới đặc biệt là tại Trung Hoa, ta thấy hầu hết
các cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống lại chính quyền, đều do nông dân khởi
xướng và tham dự, vì họ chính là nạn nhân bị cường hào ác bá toa rập với
bọn quan lại áp chế gây nên cảnh đói khổ lầm than. Ðó là cuộc khởi
nghĩa đầu tiên của Trần Thắng, Ngô Quảng rồi sau đó có Hạng Võ, Lưu
Bang.. vào năm 209 trước Tây Lịch, chống lại Tần Nhị Thế và đã làm sụp
đổ cơ nghiệp bá quyền của Tần Thỉ Hoàng đã xây dựng trên xương máu của
Hán tộc. Nói chung tất cả các triều đại Hán, Tuy, Ðường, Tống, Nguyên
Mông, Minh, Thanh đều có các cuộc khởi nghĩa của nông dân để đòi quyền
sống, trong số này lừng lẫy nhất là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào với
hơn 600.000 ngàn người tham dự vào năm 878 sau TL, chống lại nhà Ðường.
Lịch sử lại tái diễn vào cuối đời Bắc Tống có Tống Giang khởi nghĩa tại
Lương Son Bạc, đời Nguyên Mông có Từ Thọ Huy, Trương Sĩ Thành, Chu
Nguyên Chương .. cầm đầu những người nông dân nghèo khổ, đánh đuổi được
giặc Mông ra khỏi Trường Thành vào năm 1368, khôi phục lại đất nước.
Ở nước ta cũng vậy, vào cuối các đời nhà Lý, Trần, Lê và đầu nhà
Nguyễn, nông dân bị bọn quan lại địa phương cấu kết với đám địa chủ,
cường hào bốc lột áp chế nên đã nổi dậy khắp nơi chống lại chính quyền.
Năm 1945 quân phiệt Nhật cấu kết với thực dân Pháp chiếm gần như toàn bộ
đất đai và lúa thóc của nông dân miền Bắc và các tỉnh Bắc Trung Phần,
đã gây nên trận đói kinh khiếp nhất trong dòng sử Việt, làm hơn triệu
người chết đói, tạo cơ hội để Hồ và đảng CS cướp được chính quyền.
Tất cả những dẫn chứng trên, đều là những bài học đích thực của lịch
sử chẳng lẽ đảng không biết hay cố tình tự lừa dối mình, để nhắm mắt lao
vào một trận cuồng phong bảo táp, do nông dân các tỉnh Nam và Trung
Phần tạo nên từ đầu tháng 6-2007 tới nay vẫn còn tiếp diễn, khi quyền
sống và sinh mệnh của họ bị đảng cưởng bức, bốc lột và cướp giựt một
cách tận tuyệt mà nghiêm trọng nhất là sự kiện nông dân trúng mùa lại
phải chết đói vì gạo lúa cấm xuất cảng đành để cho hư mục hay phải bán
cho đảng với giá mạt rệp.
Ðầu tháng 6 năm 1989, cả thế giới bàng hoàng khựng điếng và phẩn nộ
trước cuộc thảm sát tại Thiên An Môn, do Trung Cộng gây ra. Phải chăng
nhờ có những hình ảnh thực tế của bạo lực được phơi bày ra trước mắt
nhân loại, đã mở đường cho sự sụp đổ toàn diện sau đó của khối CS Ðông
Âu, Ðông Ðức, Liên Bang Sô Viết và nhiều nước khác khắp thế giới, ngoại
trừ Trung Cộng, Việt Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba. Nhưng tình hình thế giới
ngày nay đã thay đổi, nên dù bị đảng CS dấu kín những thông tin từ bên
ngoài, người dân trong nước vẫn có đủ trăm phương ngàn kế để theo dõi
ứng phó.
Ðiều này cho thấy sau hàng rào kẽm gai và mạng lưới công an với súng
đạn mã tấu dao găm, dân tộc VN suốt 38 năm qua đã trãi qua một cuộc sống
nô lệ mới, dưới sự cai trị độc ác siêu phong kiến của những khuôn mặt
già trẻ độc tài trong chính trị bộ. Thế giới bên ngoài ngày nay đã gần
như từng phút một biết được một cách chính xác cuộc sống lầm than của
đồng bào cả nước, đến nổi họ đã bất kể mạng sống liều chết đứng dậy tố
cáo tội ác của đảng cầm quyền, đòi lại những gì đã bị Việt Cộng tước
đoạt suốt 38 năm qua, trong đó có quyền được làm một kiếp người bình
thường với những gì của mình được tạo dựng bằng mồ hôi nước mắt. Tất cả
sự thay đổi chỉ còn là thời gian rất ngắn, có điều chắc chắn là VN ngày
nào còn bị đảng CS cai trị, ngày đó nạn ngoại xâm và họa thôn tính của
Trung Cộng sẽ không còn bao xa.
1 -TỪ LUẬT NGƯỜI CẦY CÓ RUỘNG TẠI VNCH TỚI VIỆC CẢI CÁCH RUỘNG ÐẤT TRÊN ÐẤT BẮC DO HỒ CHÍ MINH KHỞI XƯỚNG
Ngày 7 tháng 7 năm 1954 Quốc Trưởng Bảo Ðại cử ông Ngô Ðình Diệm làm
Thủ Tướng Quốc Gia VN. Ngày 20-7-1954 đất nước bị chia đôi theo hiệp
định Genève nhưng Thủ Tướng Diệm vẫn tiếp tục chức vụ trên phần đất
thuộc VNCH từ bên này vĩ tuyến 17 vào tới mũi Cà Mâu. Sau khi định cư
cho hơn một triệu dân Miền Bắc di cư và giãi quyết được tình hình chính
trị nội bộ, vào tháng 1-1955 Thủ Tướng Diệm đã ký hai Dụ số 2 và 7 nhằm
thiết lập một Quy Chế liên hệ tới các Tá Canh đang thuê mướn ruộng để
canh tác, chấm dứt các hợp đồng thuê mướn ruộng bằng miệng giữa chủ đất
và nông dân với giá thuê rất cao, được trả bằng nông sản đã thu hoạch.
Nhờ đó giá thuê đất chỉ còn có phân nữa và điều kiện thuê mướn cũng được
ấn định rõ ràng, hoàn toàn có lợi cho nông dân nghèo.
Ngày 26-10-1955 Thủ Tướng Diệm trở thành Tổng Thống đầu tiên của nền
đệ nhất Cộng Hòa Miền Nam qua một cuộc phổ thông đầu phiếu. Ngày
22-10-1957 Tổng Thống Diệm ban hành Dụ số 57 nhằm cải cách điền địa khắp
lãnh thổ Miền Nam VN, trong đó qui định mỗi điền chủ tối đa chỉ có 100
mẫu tây (Ha) ruộng, gồm 30 mẫu trực canh và 70 mẫu cho thuê. Riêng số
đất bị truất hữu, chính phủ đã bồi thường thỏa đáng cho các địa chủ với
10% tiền mặt, 90% còn lại trả trong 12 năm với tiền lời hằng năm là 3%,
qua dạng trái phiếu, có giá trị như tiền mặt để trả thuế, mua cổ phiếu
trong các xí nghiệp của chính phủ. Tất cả ruộng đất bị truất hữu, chính
phủ đều bán lại cho các tá điền, mỗi người 5 mẫu tây, theo giá đã mua
của địa chủ và được trả góp trong 12 năm. Qua luật cải cách này, chính
phủ đã mua lại được hơn 430.319 mẫu tây đất, để bán lại cho giới tá
điền, giúp họ cũng được làm chủ ngay trên mãnh đất mình đang canh tác.
Tiếp tục sự nghiệp dang dở của cố Tổng Thống Diệm, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa Miền Nam VN đã ban hành Ðạo Luật số 003/70 ngày 26-3-1970
cũng nhằm việc cải cách ruộng đất gọi là “Luật Người Cầy Có Ruộng”. Sự
khác biệt của đạo luật mới là luật được áp dụng chung cho các chủ đất
không trực canh, không áp dụng cho các loại ruộng hương hỏa và những
nông dân có số ruộng dưới 15 mẫu. Cũng theo luật mới này, chính phủ sẽ
thu mua hết số đất trên 15 mẫu ấn định, để cấp phát cho các tá điền
nghèo được ấn định 3 mẫu tây (Nam Phần) và 1 mẫu tây cho Miền Trung và
Cao Nguyên. Riêng những chủ đất bị truất hữu , chính phủ sẽ bồi thường
20% tiền mặt, số còn lại trả bằng trái phiếu trong 8 năm với lãi suất
thường niên là 10%.
Hỡi ôi đời là vậy, trong khi chính phủ VNCH đã làm hết trách nhiệm để
giúp cho các tá điền nghèo cực thoát được cảnh bốc lột của chủ đất, thì
một số lại chạy theo VC chống lại chính quyền, khiến cho Miền Nam phải
sụp đổ vào ngày 30-4-1975, đất đai vườn ruộng của nông dân được chính
phủ VNCH phân phát ngày trước đã bị đảng hợp tác hóa, rốt cục người
nghèo tay trắng vẫn hoàn trắng tay, phải nai lưng cầy thuê cuốc mướn cho
tầng lớp địa chủ mới không ai khác hơn là các giai cấp lãnh đạo của VC.
Nhưng quan trọng hơn hết là qua hai lần cải cách điền địa tại VNCH, đều
dựa vào sự bình đảng và tình người, cho nên đã không có cảnh đấu tố,
giết người như đã xãy ra ở miền Bắc. Ðó là sự khác biệt giữa con người
văn minh nhân bản được gọi là Người Việt Quốc Gia và Người Phát Xít
không tim óc nhân tính quen sống với độc tài đảng trị mà nhân loại gọi
là Cộng Sản.
+ Cuộc Cải Cách Ruộng Ðất của Hồ Chí Minh :
Ngày 5-6-1948 Cao Ủy Liên Bang Ðông Dương là Emile Bollaert qua Thỏa
Ước Hạ Long đã thừa nhận Quốc Gia VN dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng
Bảo Ðại là một nước Ðộc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 8-3-1949 Quốc
Trưởng Bảo Ðại lại ký với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol Thỏa Ước Elysée
tại Paris, theo đó Pháp công nhận VN là một Quốc Gia thống nhất gồm 3
miền, Bắc, Trung và Nam Phần. Chính vì vậy nên Trung Cộng và Liên Xô
trước sau vào tháng 1-1950 đã vội vã công nhận chính phủ VN Dân Chủ Cộng
Hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Kể từ đó, VN đã có hai chính phủ đối lập,
một của người Việt Quốc Gia và một của Ðệ Tam Cộng Sản Quốc Tế. Năm
1950, Hồ sang Liên Xô cầu viện đồng thời nhận chỉ thị của Staline đem về
nước thi hành, trong đó có việc công khai hóa hoạt động của đảng Cộng
Sản và đẩy mạnh công tác cải cách ruộng đất theo đường hướng của Sô
Viết. Công tác này được Hồ cho thi hành qua năm đợt, bắt đầu năm 1949
tới 1956 mới tạm kết thúc vì nhu cầu tuyên truyền “sinh Bắc tử Nam” qua
cuộc chiến xâm lăng VNCH.
Nói chung cảnh đấu tố của VC chỉ xãy ra dữ dội tại lãnh thổ của VN
dân Chủ Cộng Hòa gồm Bắc Phần và các tỉnh Thanh, Nghệ , Tỉnh, Quảng Bình
và một phần Quảng Trị nằm bên kia vĩ tuyến 17. Ở miền Nam VN trước ngày
chia đôi đất nưóc năm 1954, các tình Nam. Ngãi, Bình, Phú bị Việt Minh
chiếm đóng được gọi là Liên Khu 5 cũng diễn ra cảnh đấu tố nhưng không
sắt máu chết người như ở miền Bắc , nhất là giai đoạn từ 1955-1956 khi
Hồ thi hành theo lệnh của Staline và Mao Trạch Ðông.
Khởi đầu cuộc cải cách ruộng đất, Hồ đã ký sắc lệnh số 78 ngày
14-7-1949 thành lập Hội Ðồng Giảm Tô bắt các đia chủ phải giảm tiền thuê
đất cho tá điền từ 25-30% và thông tư số 33 ngày 21-8-1949 về nguyên
tắc phân chia số ruộng đất cho nông dân nghèo, vừa được tịch thu của các
điền chủ người Pháp và người Việt bị đảng gán tội là Việt Gian. Năm
1950 Hồ ký hai sắc lệnh số 89 ngày 22-5 xóa bỏ tất cả hợp đồng thuê mướn
ruộng giữa điền chủ tá điền trước và sau năm 1945 và sắc lệnh số 90 ký
cùng ngày , quốc hữu hóa tất cả những ruộng đất đã bỏ hoang trên 5 năm,
nói là để cấp phát cho người nghèo tạm thời sử dụng trong 10 năm và miễn
đóng thuế trong 3 năm đầu. Một đại hội đảng CS đã được triệu tập vào
cuối tháng 11-1953 tại chiến khu Việt Bắc để bàn về việc “cải cách ruộng
đất” và quyết định này lại được Quốc Hội VC vừa mới được thành lập vào
năm 1946 hợp thức hóa trước khi đem thi hành. Lần cải cách này, Hồ không
theo Liên Xô mà lại theo đường lối của Trung Cộng và Bắc Hàn không bỏ
hẳn quyền sở hữu đất đai của nông dân dù thực tế chỉ là lý thuyết vì
đảng đã quản lý tất cả. Cũng trong đợt cải cách này đảng công khai tịch
thu đất đai của các địa chủ đã bỏ về Tề bị kết tội là Việt Gian, của
người Pháp và những ngoại kiều khác. Nhiều tòa án nhân dân đặc biệt được
thành lập để xét xử bất cứ ai chống lại đảng về việc cải cách ruộng
đất.
Sau khi đất nước bị chia đôi vào năm 1954, tình hình ruộng đất ở miền
Bắc thuộc Cộng Sản cai trị đã có sự thay đổi rất lớn vì đã có hơn 1
triệu người di cư vào Nam bỏ lại toàn bộ điền sản, nên vào ngày
14-6-1955 HCM lại ký một sắc lệnh về cải cách ruộng đất mới, ra lệnh
tịch thu toàn bộ đất đai tài sản của bất cứ ai bị gán cho cái tội phản
động, Việt gian, địa chủ, cường hào ác bá. trong đó có cả các cơ sở tôn
giáo, những người từng tham gia cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân
Pháp.. Sự trưng thu trên chẳng những không được bồi thường mà Hồ còn ra
lệnh cho các tòa án nhân dân đặc biệt định tội những nạn nhân bị đảng
qui kết tội mà không cần phải xét xử điều tra gì cả vì mọi vấn đề liên
quan tới sự phân chia tài sản, ruộng đất và thành phần xã hội đã được
các chóp bu trong chính tri bộ quyết định sẳn theo sự chỉ đạo của Liên
Xô và Trung Cộng.
Ðể tiến hành cuộc cải cách ruộng đất, Hồ ban hành lệnh “rèn cán chỉnh
quân” và “rèn cán chỉnh cơ” vào năm 1949. Trong lúc cả nước đều phải
học tập về chủ nghĩa Mác-Lênin nhưng Hồ vẫn chưa thấy đủ nên năm 1950
lại bắt “chỉnh huấn” vừa để thanh lọc hàng ngũ đảng, củng cố tư tưởng vô
sản để hổ trợ công tác sắp tới. Tháng 3-1953 đảng ban hành một sắc lệnh
qui định lại những thành phần xã hội gồm: Ðịa Chủ là những người có từ 3
mẫu ta ruộng đất trở lên, Phú Nông có 3 mẫu ruộng và 1 con trâu, Trung
Nông có 1 tới 3 mẫu ruộng và 1 con trâu, Bần Nông có ít ruộng đất và Bần
Cố Nông là những tá điền không đất ruộng.
Ðể lôi cuốn quần chúng nông thôn, đảng khích động sự căm thù giai
cấp, đưa cán bộ về tận nông thôn để sống với dân cùng ăn, cùng ở, cùng
làm để nạp bè kết đảng. Có như vậy cán bộ đảng mới nắm rõ tình hình của
địa phương, tìm đúng những tên đầu trộm đuôi cướp hung hãn để khuyến
khích chúng đứng ra tố khổ các nạn nhân theo danh sách đảng đã lập sẵn,
qua cái gọi là tòa án nhân dân đặc biệt. Công tác được tiến hành ngay
khi đất nước vừa chia đôi vào ngày 20-7-1954 do một Uỷ Ban Cải Cách
Ruộng Ðất lãnh đạo tại trung ương có Trường Chinh (TBT) và ba phụ tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng.
Tại địa phương, đảng cho thành lập mỗi tỉnh 10 đoàn với nhân số
mỗi đoàn có 100 cán bộ, đoàn trưởng có chức vụ ngang hàng với bí thư
tỉnh uỷ, chỉ làm việc thẳng với trung ương. Mỗi đoàn lại chia thành
nhiều đội cải cách với nhân số từ 6-7 người mà đội trưởng lại là thành
phần bần cố nông sinh sống tại địa phương. Tất cả những thành phần trên
được Hồ ra lệnh cho bộ đội chính qui vừa từ mặt trận Ðiện Biên Phủ trở
về bảo vệ. Do đó chúng đã phóng tay, khiến cho chẳng những người sống
phải khiếp sợ mà cả đất trời cây cỏ và súc vật cũng phải điêu đứng vì
“thà giết oan 10 người còn hơn bỏ sót một tên phản động”.
Hiện vẫn còn nhiều người được chứng kiến cảnh đấu tố năm nào trên đất
Bắc, khi kể lại cảnh tượng trên, vẫn không ngăn nổi sự khiếp đãm rùng
mình về sự tra tấn các nạn nhân như bỏ cho chết đói, mắng chữi hành hạ
trước khi đào hố chôn sống hay đánh đập cho tới chết..
+ Hậu Quả Cuộc Cải Cách Ruộng Ðất ở Miền Bắc :
Theo các tài liệu còn lưu trử , thì cuộc cải cách ruộng đất trong năm 1955-1956, đã bức hại từ 120.000 – 200.000 người, trong số này có khoảng 40.000 – 60.000 cán bộ đảng viên.
Ngoài số người bị tử hình trên, còn có rất nhiều người khác bị liên hệ,
phải chịu cảnh tù đày trong các trại cải tạo. Sự tàn bạo có một không
hai trên trong dòng sử Việt, khiến cho cả nước oán hận căm thù nên họ
bất chấp súng đạn, nổi lên phản đối, dữ dội nhất là tại huyện Quỳnh Lưu
(Nghệ An), khiến Hồ ngày 13-11-1956 phải điều động sư
đoàn 325 tới đàn áp cuộc nổi dậy của nông dân trong tay chỉ có gậy gộc,
cuốc xẻng.. kéo dài hơn 10 ngày, cuối cùng có thêm 1000 người vô tội bị bắn chết, nhiều người khác bị bỏ tù
Mặt khác để trấn an và trên hết là tiếp tục sử dụng máu xương của
thanh thiếu niên nam nữ vào cuộc chiến xâm lăng Miền Nam đang bắt đầu,
Hồ nhân danh đảng qua thư ngày 1-7-1956 và 18-8-1956 nhận lỗi sai lầm,
đồng thời cách chức tổng bí thư của Trường Chinh cùng các chức vụ của
Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương và Hồ Viết Thắng… Nhưng đó cũng chỉ là
hành động mị dân, vì chẳng bao lâu Hồ lại phục chức cho Trường Chinh,
Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương và Hồ Viết Thắng.
Hậu quả cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc do Hồ khởi xướng theo lệnh
của Liên Xô và Trung Cộng, chẳng những đã không cải thiện được cuộc
sống nghèo nàn của người dân nơi thôn dã mà còn gây nên sự tê liệt về
nông nghiệp vì những người còn sống sót sau cuộc cải cách vẫn cứ lo sợ
một sự trả thù. Ngoài ra qua lần cải cách trên, Hồ coi như đã đạt được
mục tiêu chính trị mong muốn là xóa bỏ hẵn cấu trúc xã thôn cũ, để thay
vào đó là hàng lãnh đao của đảng. Làm cuộc cải cách ruộng đất để đẩy
nông dân vào thêm con đường khốn cùng để họ chỉ còn biết nghĩ tới miếng
ăn và sự căng thẳng tinh thần vì màn lưới khủng bố của công an khu vực
luôn rình rập.
Cuối cùng người dân miền Bắc bất cứ là ai cũng đều giống như cánh
chim bị đạn, mất hết hồn vía sau trận đấu tố kinh hồn, nên đã ngoan
ngoản chui vào những hợp tác xã nông nghiệp do đảng thành lập và sau rốt
ruộng đất, trâu bò, nông cụ.. đều thuộc tài sản tập thể quản lý, bất kể
là ruộng của mình hay vừa mới được chia trong cuộc cải cách.
Tóm lại Hồ Chí Minh tổ chức cuộc cải cách ruộng đất, vừa đạt được mục
tiêu chính trị là bần cùng hóa mọi thành phần trong xã hội, vừa thanh
lọc được hàng ngũ đảng sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, vừa cướp trọn điền
sản đất đai của nông dân miền Bắc để tất cả trở thành vô sản chuyên
chính, có vậy mới lùa họ một cuộc chiến mới, qua tem phiếu sổ hộ khẩu do
đảng phân phối quản lý. Hởi ôi còn gì ngao ngán hơn khi đọc những lời
thơ sắt máu của Tố Hữu:
“Giết, giết nữa bàn tay không phút nghĩ
Cho ruộng đồng lúa tốt , thuế mau xong
Cho đảng bều lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Staline bất diệt “.
2- CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ÐẤT CỦA CS Ở MIỀN NAM VN SAU THÁNG 5-1975, QUA CHIÊU BÀI CÔNG NGHỆ HÓA NÔNG THÔN :
Ngày nay nhìn vào báo cáo xuất cảng nông phẩm của đảng CSVN, ai cũng
tưởng VN là một nước lớn và giàu manh. Thật sự đấy chỉ là bề trái của
huyền thoại mà Trần Bạch Ðằng nói tới “đầu thế kỷ chưa lo nổi bát cơm
cho 20 triệu người, cuối thế kỷ giải quyết xong cho hơn 70 triệu người
và là nước xuất cảng gạo thứ 2 trên thế giới “. Ðó chỉ là tường trình vì
thực tế ai cũng biết năng suất cũng như hoa lợi của nông dân VN
rất thấp so với các nước trong khu vực ASEAN. Riêng việc hỗ trọ giúp
nông dân xóa đói giảm nghèo, tuyên truyền là vậy nhưng đảng chỉ hỗ trợ
cho các doanh nghệp “phe ta” mua lúa xuất khẩu trong lúc nông dân bị ép
giá rất thấp khi bán lúa cho nhà nước theo chỉ tiêu đã ấn định, nên
nhiều hộ phải thắt lưng buộc bụng thiếu ăn nhịn đói mới đủ số. Bởi vậy
không ai ngạc nhiên, khi biết đồng bằng sông Cửu Long từ trước tới nay
là vựa lúa của cả nước và chiếm 90% lượng gạo xuất cảng nhưng nông dân
lại bị xếp vào hạng nghèo nhất cả nước, với lợi tức không quá 300 Mỹ
kim/1 năm.
Một bi thãm nữa mà người ngoài không biết là ngày nay hầu hết đồng
ruộng của Miền Nam VN trở thành tư hữu của giai cấp địa chủ mới. Chính
thành phần này mới là chủ nhân ông thực sự còn nông dân chỉ là những
người làm thuê như thời Pháp thuộc, giúp cho đảng vừa trưng dụng được
sức lao động rẻ tiền, vừa thu được nguồn lợi nhuận to lớn qua các doanh
nghiệp đỏ hay quốc doanh. Ðã thế cán bộ đảng còn cố vơ vét cho hết lúa
gạo để chuyển lậu ra Bắc rồi vượt biên giới xuất cảng lậu bằng đường
biển. Tất cả đều là những lý do để giải thích sự nghịch lý “gạo thừa
nhưng vẫn thiếu khiến cho dân đói”.
VN
ngày nay vẫn còn được cơ quan lương nông thế giới (FAO) cùng các tổ
chức nhân đạo viện trợ lương thực. Nhìn vào ai cũng tưởng các cơ quan
trên cố tình bao che cho chế độ kể cả việc hủy tiền lời hàng năm càng
lúc càng tích lũy không biết đâu mà mò. Ðây là mánh lới của bọn con buôn
quốc tế một tay thì bỏ tiền ra cứu đói, còn tay kia cứ đổ vốn vào ào ào
để nhà nước ta tha hồ lãng phí rồi bắt dân ỳ cổ đóng góp trả tiền lời.
Vòng đời cứ quẩn quanh như thế thì bảo sao người nghèo cả nước càng lúc
càng không tăng ?
Michael Chossudovsky, giáo sư kinh tế học tại Ðại Học Ottawa (Canada)
đã nói không cần úp mở: “VN ngày nay là một trong những nước chậm tiến
đang bị cột chặt vào nợ nần lút đầu với tiền lời phải trả. Do dó nền
kinh tế nổi (hợp pháp) vì lo cho tiền trả nợ càng lúc càng suy sụp. Ðó
cũng là lý do chựt giụp mọi thứ để xuất khẩu như một phương cách giải
cứu, thậm chí phải bán cả ma tuý như Miến Ðiện để trang trải tiền lời.
Nên phân biệt làm gì tiền sạch tiền dơ, miễn sao có tiền trả nợ là đủ”.
Còn VN may mắn hơn vì đã có các cơ quan IMF, WB, ADB bao che sẵn sàng
trả tiền lời, vì vậy đảng đâu có sợ mà không tiếp tục vay nợ.
Thông tin một chiều, kiến thức tạp nhạp đảng đã dẫn đường cho cả nước
vào chổ bế tắc suốt mười mấy năm qua kể từ ngày mở cữa đổi mới, với các
kế hoạch nuôi tôm cá, trồng cà phê cao su, lập vườn trồng cây ăn trái
khiến cho nhu cầu thừa mứa dẫn tới tình trạng phá sản sạt nghiệp phải
bán hết điền sản để trả nợ ngân hàng, còn không thì phải tự vẫn. Vì vậy
nên ở nông thôn hiện nay, hầu hết ai cũng muốn bán hết ruộng đất để đi
làm mướn vì thu nhập quá thấp lại bấp bênh đủ thứ. Tình trạng này cũng
đã xảy ra tại Trung Cộng và Ðại Hàn hiện nay hay Âu Châu vào thế kỷ XIX,
làm đảo lộn hết mọi nếp sống cũ, tạo cơ hội vàng ròng để đảng mua hết
đất đai hoa màu tại nông thôn, rồi cải tạo thành các khu công nghiệp hóa
bán lại cho tư bản với giá rất cao như bài diễn văn của Võ Văn Kiện
lúc còn làm Thủ Tướng VC đọc trong ngày 30-4-1995 “làm thế nào để sớm
đưa nước ta từ nước nông nghiệp trở thành quốc gia công nghiệp hóa”. Ðể
đạt được mục đích trên, Kiệt đã ký quyết định ngày 16-8-1996 ra lệnh
đuổi đồng bào tại nhiều tỉnh miền Trung nằm trong các vùng dự án. Tất cả
đều ăn khớp với cái gọi là “quốc sách hiện đại hóa công nghệ hóa” với
thực chất tạo điều kiện tối ưu cho tư bản làm giàu, đầy người dân nhất
là nông gia vào con đường chết, mất hết đất đai vườn ruộng, cuối cùng
chỉ còn con đường “thế con đợ vợ” và ngay bản thân mình cũng biến thành
con vật hai chân để phục vụ cho chế độ hiện hữu. Thiên đàng xã hội chủ
nghĩa là thế đó !
3-ÐẢNG HỒI SINH GIAI CẤP ÐỊA CHỦ CƯỜNG HÀO ÐỎ TẠI NÔNG THÔN :
Qua cái gọi là “chính sách tạo điều kiện làm giàu cho nông dân” đảng
đã tạo điều kiện hồi sinh cho giai cấp địa chủ phú hào đỏ tại địa
phương. Theo luật đất đai của xã nghĩa VN được công bố ngày 14-7-1993
với 3 điều căn bản tựu trung cũng vẫn nhắm tới việc tập thể hóa ruộng
đất như thời còn bao cấp hay hợp tác xã kiểu cũ, nhằm biến nông dân
thành công nhân lãnh lương bằng hoa lợi được thu hoạch do chính mình làm
ra, không hơn không kém những tá điền được đảng khoán đất nộp thuế. Sự
khác biệt trong bộ luật đất đai mới năm 1993, một mặt nới rộng cho phép
nông dân được sử dụng đất đai của mình nhưng mặt khác tạo điều kiện cho
bọn cường hào tại địa phương gồm đoàn trưởng, chủ nhiệm hợp tác xã nông
nghiệp, cán bộ các cấp… tha hồ tác quái đầu cơ. Ðó mới chính là những
địa chủ thực sự vì có toàn quyền thu hồi hay cấp phát ruộng cho dân nhất
là khi đảng ban hành nghị quyết 10 trả lại đất cho nông dân. Chính cái
thời điểm này mới xảy ra cơn sốt sang nhượng đất đai, được đảng gọi là
“cải tạo đất” mà thực chất giúp bọn đầu cơ mua lại đất của nông dân bằng
cái giá tượng trưng rẽ mạt 11.000 tiền Hồ /1m2. Từ đó, nông dân mất
quyền tư hữu vĩnh viễn vì đã bán lại cho người khác. Cứ thế đất trồng
lúa dần dần bị phá đi để cải tạo đất hay chuyển sang mục đích khác mà
chủ yếu bán cho tư bản trong đó có cả con người như bản nghị quyết trong
Ðại hội VIII của đảng đã nói “con người cũng là một nguồn lực cần phải
tận lực sử dụng, để tạo ưu thế thực hiện các chính sách của đảng”.
Tóm
lại đảng CSVN từ khi ra đời tới nay đã nắm được ba cái bất ngờ, chứ
không là tất yếu, đó là cướp được chính quyền vào tháng 8-1945, chiến
thắng VNCH ngày 30-4-1975 và vì thời cuộc mà phải mở cửa đổi mới vào đầu
thập niên 90 khi trào lưu quần chúng không thế nào đảo ngược lại được,
nếu không muốn bị tiêu diệt như Ðông Âu hay Liên Xô. Do tình trạng đột
xuất không dự liệu nên đảng phải chạy theo thời cuộc và cũng vì để làm
vừa lòng tư bản, nên đã phải thi hành một chính sách cải tố kinh tế kiểu
lươn lẹo báo cáo láo. Hậu quả đẩy đất nước nhất là giới nông ngư dân
nghèo vào con đường bế tắc vì đây là cơ hội để bọn tư bản nhất giới
thương buôn Á Châu trong đó có Tầu đỏ, Tàu trắng, Nam Hàn… tha hồ săn
quét moi móc cho tận tuyệt các tài nguyên trên mãnh đất trù phú VN, từ
đất liền ra tới biển khơi hải đảo. Trước tình thế này, tập đoàn CSVN chỉ
còn một cách để kéo dài quyền lực, là phải biến thành một Tập Ðoàn Tư
Ban Ðỏ, để cùng hòa nhập vào các thế lực tư bản khác đang bỏ vốn đầu tư
tại VN, tận lực khai thác cho hết mọi thứ sẳn có, trong đó có con người
sống và cả nơi yên chốn nghĩ của những người khuất mặt, mà điển hình là
Nghĩa Trang Quân Ðội VNCH tại Biên Hòa cũng không ngoại lệ.
Sự thật đã quá rõ ràng mà bất cứ ai cũng thấy được, đó là sự tồn vong
của đảng CSVN ngày nay không còn dính líu gì tới chủ nghĩa hay tư tưởng
nào khác ngoài Ðồng Tiền góp vốn của các thế lực tư bản tư nhân trong
và ngoài nước. Nói một cách trắng trợn là đảng qua vai trò tư bản đỏ nay
đã xác định vai trò lãnh đạo của mình dựa trên hai yếu tố : Tiền Ðầu Tư
Ngoại Quốc và Bạo Lực Ðang Nắm Sẳn Trong Tay, mà hai thứ này chẳng bao
giờ đáp ứng được mục tiêu của đảng luôn đề cao tuyên truyền “Dân Giàu
Nước Mạnh, Xã Hội Tự Do Công Bằng”.
Vốn đầu tư nước ngoài nếu có đổ vào VN cũng chỉ nhắm vào nguồn lao
động rẻ mạt hay dùng để tạo nên những cơ sở vật chất cho tư bản khi tới
địa phương thụ hưởng như hệ thống khách sạn, các trung tâm du lịch, nâng
cấp các sản phẩm nội hóa để xuất cảng…mọi thứ đều sinh lời đổ tiền vào
túi đảng và tư bản, còn người dân có chấm mút được gì ngoài sự hưởng ké
các phương tiện.
Tức
nước thì vở bờ, người dân cả nước hiện nay đã bị đảng dồn vào chân
tường, nên chỉ còn cách đối mặt với bạo lực để mà sinh tồn. Hai mươi năm
tồn tại VNCH (1955-1975) vì là một đất nước pháp trị, nên đã xảy ra
không biết bao nhiêu cuộc biểu tình chống chính quyền nhưng đặc biệt là
trong tất cả các cuộc biểu tình, hoàn toàn là những thành phần cao quí,
dư thừa và được ưu đãi nhất trong xã hội Miền Nam lúc đó. Tuyệt nhiên
chẳng bao giờ có giới lao động nông dân tham dự vì họ đâu có nhiều thì
giờ nhàn rỗi hay uất ức nào để mà đòi hỏi tra vấn chính phủ. Tất cả sự
thật về những bức tranh vân cẩu trên đã lộ nguyên hình sau ngày VNCH sụp
đổ, thì ra biểu tình giả và kẻ đề xướng tham dự phần lớn cũng là của
đảng gài lại.
Nhưng nay thì khác, suốt tháng 6-2007 tới nay lần đầu tiên đã có hàng
ngàn nông dân từ nhiều tỉnh thành lặn lội tới Sài Gòn hay ra tận Hà Nội
để biểu tình bất baọ động. Họ không đòi hỏi những thứ vô lý như những
người biểu tình giả trước tháng 4-1975 tại Nam VN, mà chỉ van xin đảng
CSVN trả lại Ðất Ðai, Vườn Tược, Nhà Cửa, Sản Nghiệp để mọi người sống.
Ðòi hỏi chỉ có vậy thôi, cho nên trong các cuộc biểu tình đâu thấy bóng
trí thức sĩ phu tham dự, vì những thứ đòi hỏi trên, các nhà báo nhà văn
tại thanh thị đâu có mất ?.
Tháng 5-1989 phong trào đòi dân chủ của giới trẻ Trung Hoa bùng nổ dữ
dội cơ hồ làm rung chuyển nền móng của đảng cộng sản Tàu. Bất chấp
nguyện vọng của toàn dân, Ðặng Tiểu Bình và đám chóp bu trong Trung Nam
Hải đã sử dụng bạo lực để đè bẹp. Không thành công nhưng ít ra phong
trào đòi dân chủ trên, cũng đã gây được một sự xúc động mãnh liệt tới
thế giới, khi đưa những hình ảnh thật về sự bạo ngược, dã man của cộng
sản ra ngoài anh sáng nhân loại. Chính những hình ảnh này mới là yếu tố
giúp cho người dân Ðông Âu, Ðông Ðức và Liên Xô thức tỉnh, đứng đậy đạp
đổ chủ nghĩa Mác Lê, xóa sạch thiên đường xã nghĩa đã cùm xích thân phận
con người gần thế kỷ ô nhục.
Tại VN ngày nay, qua những hình ảnh về Linh Mục Nguyễn văn Lý bị bóp
cổ, bịt miệng và các cuộc biểu tình đòi quyền sống của cả nước, đã đánh
động lương tâm nhân loại, trong đó có Cộng Ðồng Chung Âu Châu và Cộng
Ðồng Người Việt Tị Nạn CS khắp thế giới. Họ đã nhập cuộc với đám đông.
Rồi giữa lúc tình hình đang loạn lạc vì dân chúng đã không còn ngồi chờ
“tự do có sẳn” do đảng ban phát, nên rũ nhau liều chết đi đòi, thì Trung
Cộng đổ thêm dầu vào kho xăng chờ phát lửa, khi ngang nhiên bắn vào
thuyển của ngư dân đang hành nghề tại hải phận Hoàng Sa, Trường Sa như
công kháo lên tiếng cho biết “VC ngày nay đâu còn chủ quyền”.
Đất nước đã đết lúc tàn mạt, ai người yêu nước động lòng chưa
hay chẳng lẽ cứ giao trọn chuyện nước non cho dân quèn và tuổi trẻ trong
nưóc gánh chịu ?!
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 12-2013 – Mường Giang
0 comments:
Post a Comment