Chính Tâm | Nguồn: Tinh Hoa | 2016-02-02 |
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Vị
thiền sư ấy là một người bạn thâm giao nhiều năm của tôi, mắc phải bệnh
nan y, trong thiền định mà đối mặt với cái chết, cũng như tham ngộ về
cái chết.
Vốn
là bạn tốt của nhau, trước lúc ông qua đời, tôi thường xuyên đến thăm
và lắng nghe những lời chỉ bảo từ ông ấy. Mỗi lần tôi đến, thấy ông luôn
ngồi ngay ngắn, trên gương mặt tiều tụy luôn mỉm cười.
Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện, ông nói: “Cả
một đời của tôi đắm chìm trong hư danh. Tuy nhìn bề ngoài rất có tiếng
tăm, cũng xuất bản sách, cũng có người theo tôi học Phật, nhưng tôi biết
rõ, bản thân mình vốn không thật sự giác ngộ, cũng không thấy được chân
ngã của mình, bây giờ nghĩ lại mới thấy tưởng thông minh lại bị thông
minh hại”.
Tôi nói: “Các đấng tôn sư xưa nay, chẳng phải cũng có những người đã đắc Đạo trước lúc lâm chung hay sao?”
Ông nói: “Đó
là người đại căn khí, buông bỏ vạn duyên, tâm hồn thanh tịnh, không
giống loại tiểu căn khí như tôi. Cả đời này của tôi, chính vì rất thông
minh, rất có tài, rất có tình, vì vậy mà có quá nhiều thứ không thể
buông bỏ được.”
Tôi lại hỏi: “Thế
ông gần đây tu luyện thế nào vậy? Mỗi lần tôi tới, đều thấy ông đang
ngồi thiền, tôi cũng không đành lòng quấy rầy ông, chỉ đứng ở bên ngoài
niệm Phật, cầu nguyện cho ông!”
Thiền sư cười nhạt một tiếng, nói: “Cảm ơn ông! Về chuyện sinh tử, khi nào chết, thậm chí kiếp sau đầu thai nơi nào, tôi đều đã biết được”.
Tôi nói: “Thế
chẳng phải là ông đã tu được rất cao rồi sao, ông đã biết được khi nào
sẽ chết, đầu thai nơi nào, vậy mà còn chưa khai ngộ sao?”
Thiền sư có chút hổ thẹn nói: “Đấy
chỉ là chút bản sự cỏn con, không con chút quan hệ gì với khai ngộ cả,
càng không có quan hệ với việc tìm được chân ngã của mình. Từ khi 3
tuổi, tôi đã có thể nhớ lại nhân duyên đầu thai của mình. Đời này của
tôi từ sớm đã biết rõ bản thân ‘sống đến từ đâu’, một đời tu hành chỉ là
muốn biết được ‘chết đi về đâu’.
Bây
giờ có thể biết rõ ngày chết, cũng biết sau khi chết sẽ đi về đâu,
chẳng qua vẫn là luân hồi làm chúng sinh trong Tam giới. Cái kiểu tu
hành qua loa này nếu đem so với việc đắc Đạo hoặc khai ngộ hoặc tìm lại
được chân ngã của mình thì hãy còn xa lắm”.
Tôi hỏi: “Vậy sao gần đây ông tinh tấn tu hành vậy?”
Thiền sư nói: “Một
lòng sám hối những nghiệp chướng đó, tịnh hóa từ trong tâm. Tôi là một
người sắp chết, mong sao trước khi chết, thanh lọc nội tâm mình, mấy
tháng nay tôi không ngừng sám hối.
Tôi
sám hối cho những nghiệp chướng tôi đã tạo ra, sám hối cho những việc
làm sai trái mà tôi đã phạm phải. Sám hối bản thân mình đã không tận
hiếu thật sự, sám hối bản thân mình đã làm tổn thương người thân bạn bè,
sám hối bản thân đã từng nói rất nhiều lời ngông cuồng, sám hối bản
thân đã từng miệng nói một đằng, tâm nghĩ một nẻo, sám hối vì tôi đã làm
tổn thương về tâm hồn đối với những cô gái đã từng yêu tôi, sám hối
những lời dối trá đối với đồng tu…”.
Thiền sư đã nói nhiều sự tình cần phải sám hối như vậy, lúc nói ông còn chảy nước mắt. Ông nói với tôi: “Một người, trước khi lâm chung mà thành tâm sám hối, chính là buông bỏ gánh nặng, nhẹ nhàng mà lên đường”.
Ông
muốn tôi tìm một cái thau bằng sắt thật lớn rồi mang những bản thảo
trong suốt một đời của ông, cao chừng 1 mét, đốt trước mặt ông.
Giúp ông đốt bỏ ư? Tôi không đành lòng, nói: “Đây
vốn là tâm huyết cả đời của ông, có bao nhiêu nhà xuất bản muốn mua bản
thảo của ông, cớ sao lại muốn đốt bỏ chứ? Không phải rất tốt sao?” Tôi quả thực không muốn đốt.
Ông nói:
“Ông không đốt, vậy thì tôi tự mình đốt. Những thứ này không có giá trị
gì hết, không đốt bỏ đi thì dùng để làm gì? Tôi không đắc Đạo, những
lời giải thích loạn bậy Phật Pháp kia, suy cho cùng đều chỉ là ma
chướng, bản thân tôi vốn biết rất rõ.
Đốt
bỏ những bản thảo này để tránh dẫn thế hệ sau lầm đường lạc lối, cũng
là để tránh tăng thêm tội lỗi của tôi. Bản thân không có tìm được chân
ngã của mình, thì hết thảy những gì mình nói ra thảy đều là “chồn cáo
hoang”, ông muốn tôi bị sa vào địa ngục sao?”
Ông trầm tĩnh nói: “Tôi
cả đời thuyết Pháp giảng Kinh, biện luận thị phi, bởi vì không đắc Đạo,
không thấy được chân tướng, nói những lời lộng ngôn cùng những luận
giải bất chính, giờ đây, báo ứng tại thân, mắc bệnh tại khoang miệng,
thực quản, dạ dày”.
Mặt
của ông càng ngày càng gầy gò, bởi vì ngồi thiền nên tinh thần vẫn còn
đỡ một chút. Tôi cùng với ông đốt từng quyển từng quyển sách một, gồm cả
nhật ký của ông, khá nhiều được dùng bút lông ghi, chữ viết vô cùng
ngay ngắn.
Nhìn
dáng vẻ điềm tĩnh và thoát tục của ông tôi rất cảm động, cũng muốn
trước khi tôi chết, sẽ giống như ông, đốt hết tất cả nhật ký, bản thảo
của mình không lưu giữ những thứ tạp nham, hoàn toàn sạch sẽ, không một
chút lo lắng mà rời đi. Tâm tư của tôi vừa động, ông cười, nói: “Đừng học theo tôi, học tôi không có tiền đồ gì cả”.
Nhiều lần tôi đến, thiền sư đều nói là đang sám hối nghiệp chướng, sám hối tội lỗi trong quá khứ, ông nói với tôi: “Khẩu
nghiệp là điều khó sám hối nhất, trong một đời này, tôi giảng Kinh
thuyết Pháp, miệng nói ra những lời xằng bậy, nói những điều không phải
về người khác, khẩu nghiệp chất cao như núi”.
Ông thở dài: “Cho
dù khẩu nghiệp sâu nặng, tôi vẫn là muốn sám hối cho hết để cái chết
được thanh thản. Xem ra, tôi còn phải chết muộn hơn một tháng so với dự
tính trước đó, một tháng này chuyên dùng vào việc sám hối khẩu nghiệp.
Những người tu Đạo học Phật chỉ nói thôi cũng là tạo nghiệp, huống chi
tôi tạo khẩu nghiệp, nói lời không phải, tranh giành đúng sai, nói
chuyện không chính đáng, không biết một tháng này có đủ để sám hối
không. Chờ tôi sám hối xong rồi, chính là ngày mà tôi sẽ rời đi”.
Ông vừa là người bạn, vừa là người thầy trong nhiều năm của tôi nên tôi rất buồn, hỏi ông:“Ông phải đi rồi, ông có lời khuyên hay cảnh báo sau cùng gì dành cho tôi không?”
Thiền sư nói: “Tôi
biết con đường tương lai của ông, nhưng không thể nói ra được, nếu như
nói ra thì chính là hại ông vậy. Con đường tương lai ở trong lòng của
ông, nếu như vào mỗi buổi tối ông có thể tĩnh tọa nhìn vào trong tâm
mình thì cũng sẽ biết được thôi.
Kinh
nghiệm trong một đời này của tôi, có thể nói cho ông hay, chính là :
Nếu như bản thân không có đắc Đạo, không có khai ngộ, không có thấy được
chân ngã của mình thì quyết không được làm thầy người ta. Làm thầy
người ta thì sẽ hại người ta, dẫn người ta đi sai lệch thì cũng chính là
làm hại sinh mệnh người đó, quả báo thật nặng nề, báo ứng của tôi chính
ở trước mắt ông đây, vì vậy, quyết không được làm thầy người ta.
Thứ
hai, nếu như ông đã khai ngộ, tìm lại được chân ngã của mình rồi, thì
vẫn cần phải giữ vững chuyện tu hành. Sau khi tu được cao rồi thì mới
bước ra hồng dương Phật Pháp, dẫu cho ông đã có đệ tử, thì cũng hãy nhớ
đừng nên tiếp nhận cúng dường, quyết không được ngược đãi đệ tử, những
chuyện trong chốn này tôi đã thấy nhiều rồi, rất nhiều người làm thầy
sai khiến đệ tử giống như là đầy tớ vậy, tội ấy rất nặng.
Thứ
ba, chớ coi thường bất kỳ người nào không hiểu Phật Pháp, dẫu cho hiểu
biết của họ còn non nớt, sai lệch đi nữa thì cũng đều không thể cười
nhạo người ta. Tôi trong suốt một đời này đã cười nhạo rất nhiều người
có kiến giải sai lệch, kết quả bản thân đã gặp phải báo ứng. Mỗi một
người chưa khai ngộ đều có thể là một vị Phật trong tương lai, một khi
đã khai ngộ thì chính là Giác giả, ông há có thể cười nhạo Giác
giả được? Đạo lý này tôi hiểu, nhưng cái thói xấu xa, bản tính kiêu ngạo
dẫn dắt đã rước lấy không ít nghiệp chướng cho mình, hết thảy những gì
sám hối trong một tháng gần đây chính là sám hối tội lỗi với những người
mà tôi đã từng xem thường trước đây.
Thứ
tư, sau này nếu như ông có gặp người khác, cho dù là các đấng tôn sư
ngoại đạo đi nữa thì cũng không nên so sánh rằng ai cao ai thấp. Tại cõi
người này có vô số Bồ Tát hóa thân dạy bảo người ta, ngoại đạo lẽ nào
không có được Bồ Tát giáo hóa chăng? Không nên mang theo cái tâm phân
biệt và thành kiến. Ông hãy một lòng lắng nghe, nhìn vào bên trong mình,
trí huệ bên trong sẽ tự sinh ra, sinh mãi không ngừng. Bản thân tôi
trước đây rất thích tranh luận, rất thích tranh đấu với người ta, lấy
ngòi bút làm vũ khí, kết quả bản thân mắc phải ung thư vòm họng, ung thư
thực quản, tội nghiệp quả thật là sâu nặng thay”.
Miệng
ông đang nói, còn nước mắt thì không ngừng rơi, đó chính là những giọt
nước mắt ân hận, giọt nước mắt thức tỉnh, cũng là những giọt nước mắt
khuyên răn. Ông nhìn tôi: “Đã nhớ chưa?”. Tôi nói: “Nhớ rồi”.
Trong
mười năm nay tôi cũng có một chút hư danh, đôi lúc cũng có một số người
tìm đến bái tôi làm thầy, tôi nhớ kỹ lời dạy của thiền sư, trước giờ
chưa từng nhận qua đồ đệ. Có người quỳ xuống dập đầu bái lạy tôi, tôi
cũng vội vàng quỳ xuống dập đầu bái lạy lại. Đây đều là những lời dạy
bảo của thiền sư ấy.
Một tháng sau, ông nói: “Tôi
phải đi rồi, vẫn là chuyển sinh ở vùng Tây Bắc, vùng đó tuy nghèo,
nhưng con người thật thà chất phát, gốc rễ của tâm linh Phật, Đạo rất
sâu, không giống như người Giang Nam, dùng Phật, Đạo để kiếm tiền, cũng
không giống như những người Đông Bắc, thực chất bên trong vốn không hề
tôn kính Phật. Tôi chuyển sinh vào vùng Tây Bắc, nếu như hai anh em
chúng ta có duyên, ba mươi năm sau, còn có thể gặp lại, khi ấy ông là
anh cả, tôi là em trai, ông cần phải giúp tôi đấy nhé!”
Chúng tôi đều cười. Tôi nói: “Khi tôi học thiền với ông không có thăng tiến, ông đã từng đá tôi, lúc đó cũng là lúc tôi phải đá lại ông rồi”.
Ông ấy nói: “Nếu được thì hãy cứ đá mạnh một chút, mong sao dưới một cú đá này, tôi sẽ khai ngộ ngay lúc đó”.
Ông
thật sự đã ra đi vào đúng cái ngày ông nhận định, nhục thể được hỏa
táng. Tôi lấy một chút tro cốt của ông mang theo lúc chuyển nhà. Có một
năm, tôi phát hiện cái cây mọc ngoài cửa sổ lại chính là cây hải đường,
cây thu hải đường, lúc này mới đột nhiên nhớ lại bài thơ trước lúc lâm
chúng của ông: “Hải
đường phong quá thiền hồn hương, mênh mông thanh thiên thị cố hương.
Trở lại cầu Đạo, Đạo còn đâu? An khang phúc thọ chẳng mong cầu.”
Tôi
bỗng nhiên ngộ ra, liền đem số tro cốt của ông rải xuống dưới cây hải
đường bên ngoài cửa sổ. Trước đây chỗ đó vốn có cây thông, trồng được
hai năm, do công việc của tiểu khu nên đã dời chuyển cây thông đi chỗ
khác, trồng cây hải đường vào đó.
Được
khoảng 5 năm, vào mùa hè, hải đường rậm lá, có vô số ve sầu ca hát dưới
tán lá. Vào cuối thu, hoa hải đường đỏ chói, tiếng ve kêu dừng hẳn, ban
đêm lại yên ắng đến lạ thường, yên ắng đến nỗi khiến người ta cảm thấy
không quen với những đêm không có tiếng ve sầu, “tiếng ve ồn ào rừng
muốn tĩnh, chim kêu đồi núi càng âm u”.
Người
ta thường coi “phúc, thọ, an, khang, chết già” là năm cái phúc của đời
người, vị thiền sư đó không cầu năm điều phúc ấy của nhân gian, mà chỉ
cầu đại Đạo.
Ông
ấy hiển lộ ra điều thần kì khi đoán trước nơi ở sau này của tôi, tro
cốt của ông ấy sẽ thấm vào các nhánh cây hải đường. Ông nói những thứ
này đều là vô thường cả, còn cách đại Đạo, cách chân ngã của sinh mệnh
rất xa. Ngay đến cả tu hành như ông ấy vẫn còn chưa có thoát khỏi sinh
tử, chưa có khai ngộ, chưa có tìm được chân ngã của sinh mệnh bản thân
mình.
Khi
viết bài này, thiền sư ấy đã viên tịch hơn mười năm rồi, nghĩ về chuyện
tu hành của bản thân thì thật không khỏi cảm thấy xấu hổ. Vị thiền sư
đó là ai vậy? Tôi không muốn nói ra tên của ông ấy, ông ấy đã đốt bỏ
toàn bộ bản thảo của mình thì cũng tức là không muốn ai nhớ đến ông ấy
nữa. Tôi tin tưởng rằng sẽ có một ngày, tôi sẽ gặp lại ông ấy giữa biển
người mênh mông.
Hoàng Sâm, dịch từ Kannewyork
0 comments:
Post a Comment