Sunday, July 13, 2014

Nhân chứng về một sự thật

Nhân chứng về một sự thật
DÒNG TÂM TƯ NƯỚC MẮT

Tôi, Phạm văn Thành, 40 tuổi, quê quán Biên Hòa, gia đình gốc Công giáo di cư năm 1954.
Làm quen với sinh hoạt chiến đấu chống Cộng sản từ khi mới thoát khỏi tuổi thiếu niên, 1977, cùng với các bậc cha chú trong Phong trào Kháng chiến Liên tôn, địa bàn hoạt động là Miền Đông (Long Khánh, Biên Hoà, Thủ Đức...)
Năm 1982 vượt biển, tham gia lực lượng kháng chiến của tướng Hoàng Cơ Minh từ Phi Luật Tân, dưới quyền chỉ đạo của chiến hữu Kim Sơn, Thành bộ trưởng Bộ Đặc biệt Palawan, với nhiệm vụ chìm.
Đến Pháp năm 1983, hoạt động toàn thời gian cho Tổ chức Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam (MTQGTNGPVN) từ năm 1984 đến 1988, không nhận bất cứ một khoản lương nào của Mặt trận (MT) ngoại trừ khoản tiền 400 đô-la vào đầu năm 1985 do Chiến hữu Cao Văn giao tận tay để chia xẻ chi phí đi đường cho công tác Hòa Lan, Đan Mạch, một công tác kéo dài suốt 5 tháng với nhiệm vụ thành lập lại cơ sở MT tại Hòa Lan, lúc đó đã tan nát 90% sau cơn bão tố niềm tin xảy ra cuối năm 1984 giữa hai vị lãnh đạo cao cấp nhất thời bấy giờ, ông Hoàng Cơ Minh và ông Phạm Văn Liễu.
Là nhân lực tình nguyện phục vụ quốc nội, giấy chấp thuận ký giữa năm 1985 do ông Phan Vụ Quang (tức ông Hoàng Cơ Định). Chuyến đi được quyết định ngày vào giữa tháng 9.1985 với vé máy bay tự túc. Cùng đợt về từ Âu Châu trong thời gian này gồm Trần Quốc Hùng (cựu sĩ quan Dù) từ Đan-mạch, võ sư Võ Sĩ Hùng và kỹ sư Nguyễn Quảng Văn từ Pháp. Quyết định về nước (tức chiến khu) từ cấp Tổng Vụ Hải Ngoại có thay đổi trong những ngày chót: Phạm Văn Thành là tôi bị ở lại Hải ngoại để tiếp tục thử thách(!)
Năm 1988 tôi quyết định xin ngưng công tác toàn thời gian vì gần như bị "thất nghiệp" trong công tác. Trình độ học vấn của tôi không nhiều, không thể vạch chiến lựợc, vẽ chiến thuật cho tổ chức. Nhưng để thi hành chiến lược chiến thuật thì tổ chức nào cũng cần những người như chúng tôi, những người thanh niên Việt Nam có đủ lòng tự trọng dân tộc và có một tinh thần đấu tranh chống Cộng sản cương quyết, có đởm lược khả dĩ đủ để bảo vệ lý tưởng tự do trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Những nhân lực toàn thời như vậy không thể xử dụng chỉ cho mục tiêu "kinh tài món" ngày ngày đi bán rau, vác gạo hay nấu cơm phục vụ các "chiến hữu đấu tranh cuối tuần" ở cái đất Paris vốn đầy những mưu mô chính trị. Tôi đã rời khỏi đội ngũ toàn thời vì những lý do như vậy, song song với những lý do thuộc về tinh thần và tâm lý rất mẫn cảm... mà tôi không thể trình bày ra ở đây, vì có liên quan đến hạnh phúc của một số gia đình. Vì trân trọng hạnh phúc của từng gia đình này, tôi buộc lòng phải giữ thái độ im lặng, không nêu ra những lý do đó.
Tôi cũng tin rằng không ai có đủ nhẫn tâm để yêu cầu tôi phải trình bày những điều tôi đã không muốn nói ra, vì hạnh phúc của một số gia đình như đã nêu. Năm 1989, tôi bị "sa thải" khỏi hàng ngũ MT sau khi các vị lãnh đạo của cơ sở MT tại Âu Châu và Paris đã "tận tình" bôi bẩn danh dự cá nhân tôi, đồng thời tận tình phá vỡ đời sống gia đình của vợ chồng tôi. Anh chị em trong gia đình bên vợ tôi bị chia ra làm hai với những ê chề đau đớn đến tận cùng. Trong khi đó các vị lãnh đạo thì hả hê khi thấy tôi gần như bị cô lập hoàn toàn với Cộng đồng. Các hội đoàn nghi kỵ, chiến hữu dè bỉu, thân hữu xa lánh, gia đình chối từ.
Gần một năm trời tôi đã thu mình trong một cư xá sinh viên nghèo nàn, chán chường đến tận cùng bài học về con người. Tôi đã muốn quên đi tất cả. Nhưng cuộc sống vẫn xảy ra quanh tôi. Những gian manh càng ngày càng cuồng bạo xảy ra trên đất nước tôi; những thao thức, những nhục nhằn chiến đấu vẫn xảy ra trên đất Mẹ, dù phải trả bằng trăm cay ngàn đắng.
Đến khi những tờ báo khát vọng từ Sài-Gòn dạt đến được tầm tay mình, tôi đã bật dậy, gom góp hết sức lực còn lại, để mong có thể làm được điều gì đó cho đất nước. Anh Em chúng tôi lại tụ lại, nhóm Gió Việt ra đời tại Paris (hầu hết đều là những nhân sự trụ cột của đoàn Văn nghệ Kháng chiến Paris thuộc MTQGTNGPVN những năm 1987 và 1988).
Để mong hoạt động tốt, Anh Em gom góp vốn hùn một cơ sở kinh doanh. Và đây có lẽ là sai lầm lớn nhất của tôi và cả nhóm. Chúng tôi không phải là những nhà kinh doanh giỏi, lại đi làm một công việc thuần túy kinh doanh để lo cho hoạt động của Đoàn. Chúng tôi thất bại! Đã có nhiều trận cười hả hê chung quanh chúng tôi, của kẻ thù cũng có và của những người đã từng là chiến hữu cũng có!!!
Nhóm Tiên Long đã ra đời trong hoàn cảnh này và tôi cùng kỹ sư Nguyễn Anh Dũng, cựu sĩ quan QLVNCH Lê Hoàn Sơn đã lên đường về nước, với khát vọng làm một trận lửa cháy bằng biểu tình ngay tại Sài Gòn, để chuyển thế đấu tranh cả trong lẫn ngoài nước từ thế thủ sang thế công. Vì sự bội tín, chúng tôi đã thất bại và chấp nhận ngồi tù.
Nhà tù cộng sản đã đổ lên thân xác chúng tôi những đớn đau ê chề. Nhưng chính nơi những nhà tù này cũng đã dạy chúng tôi những bài học làm người quý giá. Thày dạy của chúng tôi chính là những người tù bình thường nhất, những người tù vì lý do chính trị lâu năm nhất, trong đó có những người còn rất trẻ. Những người từng một thời chung với tôi một tổ chức, từng một thời sống hiên ngang giữa đất trời biên giới Lào Việt và Thái Lan, từng một thời có rất nhiều ước mơ, rất nhiều khát vọng. Tất cả đều đã rất chán chường!
* Chán chường vì sự thật được phơi bầy trơ trẽn quá!
* Chán chường vì mặc cảm bị trường kỳ bỏ rơi! Anh Em đâu? Chiến hữu đâu? Lãnh đạo đâu? Mà biết bao năm, những tiếng kêu thống thiết của họ đều chìm vào quên lãng. Gia đình họ vốn dĩ đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Không một lời hỏi thăm, không một miếng quà (dù nhỏ nhất) để tỏ chút ân tình chiến hữu.
Khi biết tôi từng có thời chung tổ chức, Anh Em đã đến với nhau, sống chan hòa với nhau như bát nước đầy. Và mọi sự thật đã được mở gỡ một cách thận trọng. Tôi vô cùng cảm ơn các Anh Em, chúng ta đã cùng nhau chia ngọt xẻ bùi để rồi lại tiếp tục đứng lên, làm tiếp công trình còn dang dở. Tôi cũng cảm ơn các Anh Em, đã giải tỏa cho chúng tôi những thắc mắc từ lâu in đậm trong mỗi suy nghĩ của chúng tôi tại hải ngoại. Những thắc mắc đã đưa đến việc tôi phải bị sa thải khỏi hàng ngũ MTQGTNGPVN năm 1989.
Hàng năm chúng tôi đã cùng làm lễ giỗ chung cho các anh em đã nằm xuống trong trận đánh Nam Lào, trong đó đặc biệt có ông Hoàng Cơ Minh, có anh Võ Hoàng, Trương Ny, Huỳnh văn Tiến, v.v... Cảm ơn các anh đã hiên ngang chấp nhận trả giá đắt cùng với tôi trong những lần như vậy. Ân tình này làm sao quên được? Ân tình này làm sao im lặng được?
Đó chính là lý do đưa tôi đến quyết định bạch hóa sự thật của 3 cuộc xâm nhập (mang tên Đông Tiến 1, 2 và 3) do MTQGTNGPVN tổ chức.
* Bạch hóa vì lòng tự trọng của một Tù Nhân Chính Trị,
* Bạch hóa vì lương tâm của một người đi đấu tranh đối với những người đã nằm xuống một cách vô cùng anh dũng trên đất lạ quê người, cho ước mơ Dân tộc Hạnh phúc.
* Bạch hóa vì sự an nguy của những người đang chuẩn bị lao vào trận chiến dưới sự điều động gây quá nhiều nghi ngờ của tổ chức MTQGTNGPVN.
Sự bạch hoá được chia làm hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất, vì tôn trọng quyền công bố của MẶT TRẬN, tôi đã viết một thư tay dài hơn 40 trang, chữ nhỏ, trong đó trình bày chi tiết cả ba cuộc xâm nhập, và ĐẶC BIỆT ĐỀ CẬP ĐẾN NHỮNG THÔNG TIN QUAN TRỌNG LIÊN QUAN ĐẾN SỰ PHẢN BỘI CỦA NHỮNG NHÂN VẬT CÓ TRÁNH NHIỆM XÂY DỰNG ĐƯỜNG DÂY XÂM NHẬP CHO CẢ BA CUỘC ĐÔNG TIẾN.
Lá thư được viết ngày 27 tháng 11.1998, chưa đầy một tháng sau khi tôi được Cộng sản trả tự do, do sức ép của quốc tế và đồng bào hải ngoại. Lá thư được gởi trong vòng một tuần sau đó đến đích danh ông Nguyễn Kim.
Ông Phan Vụ Quang cũng đã có lá thư này, do ông Kim trung chuyển. Trong thư tôi cũng xác định rằng tôi chỉ có thể giữ im lặng được (trước công luận báo chí truyền thông) trong vòng 3 đến 5 tháng.
Suốt trong thời gian này, các cấp lãnh đạo của tổ chức MẶT TRẬN không hề cho tôi biết rõ ràng MẶT TRẬN sẽ phản ứng như thế nào đối với những đề nghị và yêu cầu của tôi.
Ngày 14 tháng 4, 1999, tôi được phỏng vấn trực tiếp trên đài phát thanh Quê Hương phát đi tại California. Khi được hỏi về những sự việc liên quan đến ông Hoàng Cơ Minh tự sát tại biên giới Việt Lào, tôi đã xác nhận về thông tin này. Tôi đã hành xử đúng vị trí của một người tù chính trị đối với một tổ chức chính trị là MTQGTNGPVN trong việc giữ sự im lặng như đã hứa. Đồng thời ngày 14 tháng 4, 1999 tôi cũng đã làm đúng bổn phận của một "người tù chính trị nắm rõ sự thật" trước công luận.
Trước khi xảy ra buổi phỏng vấn, ông Trần Đức Tường đã gọi điện thoại cho tôi và đề nghị tôi tránh né buổi phỏng vấn. Tôi đã trả lời rõ ràng là tôi sẽ chọn cách hành xử đúng nhất, có lợi cho công việc chung. Sau đó ông HOÀNG CƠ ĐỊNH (PHAN VỤ QUANG) có điện thoại cho tôi đến 7 lần trong ngày. Lúc đó tôi không có mặt ở nhà vì đang bận rộn công việc chung tại Thụy Sĩ. Khi về nhà, kiểm lại máy nhắn tin, tôi thấy có nhiều điều làm tôi phải suy nghĩ. Suy nghĩ không phải vì sợ, mà vì cảm thấy lo ngại cho trận chiến đang diễn ra ngày một gay gắt với kẻ thù chung CS...
Dù rằng đứng ở vị trí chiến đấu nào đi nữa, chúng ta cũng rất cần hai điều căn bản, đó là sự thẳng thắn và sự tôn trọng lẫn nhau. Thái độ khích bác và hù dọa có thể có tác dụng được với một số người, một số trường hợp.
Tuy nhiên, không phải là hữu hiệu với mọi trường hợp.
Đứng trước họng súng và cùm xích của chế độ dã man Cộng sản, dù có sợ, tôi vẫn đứng vững cùng các anh em khác và tuyên chiến "sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng" ngay tại hội trường kiểm thảo trại Đầm Đùn T5, trước mặt tập thể tù chính trị và bọn Sĩ quan An ninh, Phản gián. Vậy thì ngày hôm nay, trong môi trường này, xin đừng dùng cách làm việc ấy với tôi, vì nó chỉ tốn thời gian vô ích.
Tôi rất muốn tôn trọng mọi người và xin hãy giúp tôi giữ được trọn vẹn ước muốn đó.
Trở lại việc bạch hóa trên đài phát thanh Quê Hương. Sau khi kiểm lại rất nhiều lời nhắn trong máy, tôi đã gọi cho ông PHAN VỤ QUANG, vì xét thấy cách nói chuyện của ông lịch sự và chí tình. Tôi đã xác nhận với ông PHAN VỤ QUANG, là tôi sẽ công bố sự thật về việc ông Hoàng Cơ Minh đã tự sát, cũng như những cái chết liên quan. Đối với tôi, những cái chết liên quan là điều rất quan trọng. Ông PHAN VỤ QUANG đã nói sẽ tôn trọng ý kiến của tôi và ngỏ ý mời tôi qua San Jose, đứng trước bàn thờ tướng Minh tại nhà ông. Tôi hứa sẽ sắp xếp qua, nếu như được bà Hoàng Cơ Minh đón tiếp, bởi chúng tôi (Tiên Long Hải Ngoại) đang còn giữ chiếc nanh heo rừng mà Thầy Giác Nhiên đã trao tặng Tướng Minh nhân dịp 30.4.1983 tại Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ xin gặp Thầy Giác Nhiên để nhờ Thầy kiểm định xem có phải đó chính là chiếc nanh mà Thầy đã tặng cho tướng Minh hay không.
Chiếc nanh heo này, tướng Minh đã tặng lại cho một cán bộ MẶT TRẬN tại quốc nội, tên Dương Thanh. Ông Dương Thanh đã trao lại cho kháng chiến quân (KCQ) Lý Viên (cũng là một tù nhân), ông Lý Viên sau đó đã trao cho nhóm Tiên Long.
Lại trở lại việc bạch hóa thông tin liên quan đến MẶT TRẬN. Sau 3 cuộc phỏng vấn với đài phát thanh Quê Hương, và sau khi một bài viết của luật sư Hoàng Duy Hùng tại Hoa-Kỳ được chạy trên Internet, tôi đã gặp rất nhiều điều tế nhị cũng như phiền toái xảy đến cho riêng tôi, cũng như gia đình tôi. Tôi có thể chịu đựng được, cũng như đã từng chịu đựng từ 10 năm trước đến nay, sự khích bác, nhưng Mẹ tôi thì không. Bà dù sao cũng chỉ là một người mẹ rất Việt Nam, bà đã giận và rất buồn phiền về tôi. Vợ tôi cũng vậy, người đàn bà yếu ớt đang mang thai ở tuổi 40, rất dễ bị xúc động...!
Ngày 26 tháng 4.1999, vừa từ Hòa Lan trở lại Pháp, vì sức ép của gia đình, tôi đã đồng ý tiếp các vị quan chức của MẶT TRẬN tại nhà tôi từ 1 đến 3 giờ chiều. Có mặt trong buổi gặp gỡ này là quý ông Trần Đức Tường, Nguyễn Ngọc Đức, Trần Văn Phước và ông Bùi Trung Trực, anh ruột của vợ tôi.
Các vị này có lẽ là những người hiểu rõ hơn ai hết về hoàn cảnh gia đình của tôi. Tôi sống như thế nào? Vợ tôi mạnh yếu ra sao? Con tôi thiếu thốn những gì, thừa thải những gì? Tôi không cần phải dấu diếm và bình thản bảo vệ quyết định công bố của tôi!
Sóng gió gia đình đã nổi lên 5 tiếng đồng hồ sau phiên họp này, liên quan đến bài viết của ông Hoàng Duy Hùng. Có một điều đã làm chính tôi cảm thấy rất day dứt. Đó là có một đoạn trong bài viết, một đoạn rất ngắn, trong đó ông Hoàng Duy Hùng đã gọi tất cả những cán bộ cấp trung của MẶT TRẬN bằng một từ ngữ rất nặng.
Trong tinh thần tôn trọng sự thật, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng tuyệt đối đến các cán bộ của MTQGTNGPVN, đã kiên định đấu tranh và hy sinh rất nhiều tâm huyết cho đại cuộc trong thời gian qua, đặc biệt là các cán bộ MẶT TRẬN tại Hòa Lan, Đức, và Pháp, cũng như một số nơi khác.
Các anh, ở những vị trí cá nhân hoàn toàn độc lập, đã hỗ trợ tối đa cho kế hoạch Bảo vệ Các Tù nhân Chính Trị trong nước, trước và sau khi bản thân tôi được tự do. Đây là một tinh thần đấu tranh vô vị lợi. Đặc biệt, hầu hết các cán bộ MẶT TRẬN tại Âu Châu đều không hề nhận lương tháng.
Trong nhu cầu kết hợp làm việc chung, tôi đã thay mặt Hội Tiên Long tuyên bố kết hợp làm việc cùng phong trào Quốc Dân Việt Nam Hành Động tại Hoa Kỳ. Vì thế, những điểm đúng sai của ông Hoàng Duy Hùng, chúng tôi cũng nhận chịu chung trách nhiệm. Một lần nữa, đứng trên cương vị người chịu trách nhiệm của tổ chức Tiên Long, tôi chính thức và trân trọng kính gởi đến các cán bộ MẶT TRẬN trung kiên và trân trọng đối với Tổ Quốc Việt Nam lời xin lỗi chân thành nhất của tôi, người phát ngôn của tổ chức Tiên Long.
Điểm thứ hai tôi cũng cần xác định liên quan đến người đã sinh thành ra vợ tôi, mà tôi vẫn coi như người cha thứ hai. Bố tôi đã mất sau nhiều năm làm việc miệt mài cho Tổ chức, chỉ mong ước sớm được nhìn thấy ngày quê hương thực sự tự do. Ông đã mất sau ngày Tướng Minh nằm xuống đúng 1 năm và 15 ngày. Khi ông Hoàng Duy Hùng đến nhà tôi để làm việc trong chuyến công tác tại Âu Châu đầu năm nay, nhìn thấy di ảnh của Bố tôi, ông đã hỏi: "Đây có phải là ảnh của ông cụ Bùi Trịnh Hữu?" Tôi trả lời đúng. Ông Hùng nói có nghe nhiều về ông cụ của vợ chồng tôi và hỏi thêm: "Khi mất, ông cụ đã có biết việc tướng Minh nằm xuống không?" Tôi nói "Có, ông cụ biết được do một nguồn thông tin của người Lào, và do lá thư của anh Trần Quốc Hùng, cựu sĩ quan Dù đã về nước cùng Tướng Minh, cũng bị bắt và được tạm tha. Ông cụ có hỏi tôi về thủ bút của Trần Quốc Hùng và tôi đã xác nhận là đúng. Vài tuần sau ông lâm bệnh rất nặng về thần kinh não và qua đời sau đó vài tháng. Cái chết của ông cụ gây bất ngờ hoàn toàn cho mọi người, vì ông cụ là một người có thể lực rất tốt. Ông cụ có tâm hồn bao dung với mọi người và có một tấm lòng vô cùng thiết tha với đất nước..."
Có lẽ do công việc làm quá căng thẳng trong suốt thời gian ở Âu Châu nên ông Hoàng Duy Hùng đã hiểu không hoàn toàn đúng sự trình bày của tôi? - bài viết này, tôi xin ghi lại những lời tôi đã nói, đồng thời xin nhận lỗi với ông Hoàng Duy Hùng, nếu như, do sự trình bày thiếu cẩn thận của tôi mà ông đã nắm không được hoàn toàn đúng tinh thần sự kiện. Với gia đình thân yêu, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những điều công bố này.
Để kết thúc bài viết này, tôi trân trọng công bố phần hai của lá thư mà tôi đã gởi cho cấp cao nhất Tổng vụ Hải ngoại MTQGTNGPVN. Phần hai này được bắt đầu từ câu nói của ông Hoàng Cơ Minh trong những ngày cuối cùng "ÔNG NÓI, SAO TỚI GIỜ NÀY VẪN CHƯA THẤY LÊ PHÚ SƠN RA ĐÓN?".
VẬY LÊ PHÚ SƠN LÀ AI? NGƯỜI NÀY CÓ QUAN HỆ NHƯ THẾ NÀO ĐỐI VỚI ÔNG MINH?
QUAN HỆ NHƯ THẾ NÀO ĐỐI VỚI ĐƯỜNG DÂY XÂM NHẬP?
Khoảng 1982, từ trong nước có một nhóm người vượt biên giới đến Thái và gia nhập vào MTQGTNGPVN. Dẫn đầu đoàn người này là ông LÊ PHÚ SƠN, xưng danh là "đại diện kháng đoàn Thất Sơn" từ trong nước ra kết hợp.
Trong đoàn này có ông Dương Văn Tư, ông Trần Tự Nhiên và con trai, bà Trần Thị Kim Huệ (vợ ông Nhiên), Bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều, ông Lê Đình Bảy và một số người khác. Trong đoàn người này có hai người bị tổ chức MẶT TRẬN tuyên án tử hình và đã bị xử tử vì lý do được gọi là phản bội vào khoảng đầu năm 1985.
Các KCQ trong tù thì xác định rằng đã có sự tranh cãi kịch liệt giữa ông Trần Tự Nhiên và các cấp lãnh đạo về việc ông Nhiên đòi ra hải ngoại để vận động kết hợp thêm vì không đồng ý cách làm việc của MẶT TRẬN trong việc kết hợp.
Sau khi hai người vừa nêu bị xử tử, đường dây xâm nhập cũng bắt đầu bằng các đợt về đầu tiên do ông LÊ PHÚ SƠN lập ra. Các đường dây này gọi là đường dây của "Ủy ban Kháng quản". Ông LÊ PHÚ SƠN sau đó đã trở thành người cao cấp nhất của các Ủy ban Kháng quản, người chịu trách nhiệm đường dây xâm nhập cho tất cả các đợt tiếp theo. Người được Tướng Minh phong cho chức vụ cao nhất ở trong nước lúc đó là Trần Phó Trấn IV. Nên nhớ cho tới lúc bấy giờ (và cho đến nay) ở trong nước không có bất cứ cấp TRẤN nào ra đời ngoài Trấn IV. Cấp Trấn, theo như các KCQ giải thích sau này, được so tương đương cấp Vùng thời Việt Nam Cộng Hòa (có 4 Vùng Chiến thuật trước 1975).
ĐỢT ĐÔNG TIẾN I về năm 1986 do ông Huỳnh Trọng Hà dẫn, lãnh đạo là ông Dương Văn Tư. Trong đoàn này còn có bà Trần Kim Huệ và ông Huỳnh văn Tiên. Cả đoàn đã vào tới sông Sa-Thầy. Tới một đoạn sông dữ, ông Huỳnh Trọng Hà và mấy chục người khác đã bị cuốn trôi mất xác. Ông Lâm Thao lên thay thế Huỳnh Trọng Hà và cũng bị chết do phản bội (?).
Ông Dương Văn Tư đã họp những anh em còn lại (trong đó có Dương Mến, người em kết nghĩa của tôi) và chia cho mỗi người một ít vàng, rồi bảo ai nấy nên tự mình tìm đường thoát. Ông Tư đã biệt tích sau đó.
Anh em đã lần theo dấu giày và thấy hướng mũi giày đi về phía Cam Bốt.
Xin lưu ý là sông Sa Thầy nằm trong địa phận Pleiku, Việt Nam. Sau đó không lâu, những người còn lại đều bị bắt, bị đánh đập và tra tấn dã man.
Mọi câu hỏi đều không thấy đề cập đến bà Trần Kim Huệ và ông Huỳnh Văn Tiên (xin đừng lẫn lộn với một người cũng tên Huỳnh Văn Tiên hiện đang ở Đan Mạch).
ĐỢT ĐÔNG TIẾN II về ngày 11 tháng 7.1987 gồm khoảng 180 người (với 30 lính kháng chiến Lào Vàng Pao) đi từ tỉnh Ubon ngược về Mộc Tà Hản bằng xe của Hồng thập tự Quốc tế. Sau đó băng qua sông Mê-Kông để vào tỉnh Saravan thuộc Lào. Ông Minh đã đổi hướng đổ bộ thay vì theo sự sắp đặt của tình báo Thái. Sau này, trong các đợt thẩm cung, các KCQ đều biết rằng điểm đổ bộ do tình báo Thái sắp đặt đã có một trung đoàn bộ đội Việt Nam phục sẵn.
5 ngày sau khi đổ bộ qua sông, ở một đoạn đường quốc lộ 13, đoàn quân Đông Tiến II đã đụng trận đầu tiên, buổi chiều đụng lần hai, và liên tiếp cho đến ngày thứ 49 của trận chiến. Đặc biệt thời gian đầu bộ đội Việt Cộng chỉ đánh cầm chừng, cho tới khi ông Lê Đình Bảy dẫn một số quân thuộc "Kháng đoàn Thất Sơn" cũ trốn về phía Việt Cộng thì áp lực trận chiến tăng cường độ ác liệt với rất nhiều pháo cá nhân được xử dụng, nhắm thẳng vào đoàn quân. Ông Lê Đình Bảy trốn về với Việt Cộng ngày 16 tháng 8.1987. LÊ ĐÌNH BẢY LÀ "QUYẾT ĐOÀN TRƯỞNG QUYẾT ĐOÀN ĐẶC NHIỆM" trong Đông Tiến II trước khi y phản bội.
Xin lược qua cơ cấu tổ chức của Đông Tiến II. Đông Tiến II về nước với một Tâm đoàn.
Một Tâm đoàn gồm có:
* 3 Quyết đoàn.
* Một Quyết đoàn gồm 3 Dân đoàn.
* Mỗi Dân đoàn có khoảng 15 người.
QUYẾT ĐOÀN ĐẶC NHIỆM GIỮ NHIỆM VỤ BẢO VỆ CHIẾN HỮU CHỦ TỊCH CÙNG CÁC CÁN BỘ TRUNG ƯƠNG.
Lê Đình Bảy "bị" CSVN kết án 7 năm nhưng chỉ ở tù khoảng 3 năm với tất cả mọi ưu đãi của chế độ. Lê Đình Bảy đã được đi "diễn thuyết" nhiều nơi, cho dân chúng cũng như các trại tù, về đề tài: "Bộ mặt thật của Mặt trận Hoàng Cơ Minh". Lê Đình Bảy là người hợp tác tích cực nhất với Cộng sản sau khi mãn "tù".
Điểm lại những khuôn mặt tạm gọi là "phản bội", ta có thể thấy một sự xuyên suốt liên quan đến các nhân sự mang tên gọi "KHÁNG ĐOÀN THẤT SƠN". Từ LÊ PHÚ SƠN đến TRẦN TỰ NHIÊN, NGUYỄN HỮU NHIỀU (hai người bị tử hình tại chiến khu) đến TRẦN THỊ KIM HUỆ, LÊ ĐÌNH BẢY, v.v... Ngoại trừ trường hợp bị xử tử, những người còn lại đều không chết và một số anh em KCQ bị cầm tù tại B34 (Cục Phản gián phía Nam) đã nhìn thấy rất rõ LÊ PHÚ SƠN VÀ TRẦN THỊ KIM HUỆ RA VÀO TRUNG TÂM B34 VỚI DÁNG ĐIỆU CỦA NHỮNG CÁN BỘ CAO CẤP!
Ông Hoàng Cơ Minh chết đi, Võ Hoàng là cán bộ bí thư đã tuyên bố không thể chết theo mà phải sống để làm chứng nhân lịch sử. Tiếc thay anh đã bị M79 của Việt Cộng bắn nát người. Anh chết đi, cuốn sổ tay "Nhật ký Hành quân" và mật mã liên lạc bị lọt vào tay Cộng sản. Cuốn sổ tay này đã được sao chụp thành nhiều bản để Việt Cộng làm công việc điều tra từng người.
Nếu ta ghép dữ kiện cuốn sổ tay với việc Lê Phú Sơn ra vào B34 như một cán bộ Cộng sản, khả dĩ có thể cứu tổ chức MT tại hải ngoại khỏi tội lừa dối đồng bào về cái chết của ông Hoàng Cơ Minh; về hành vi vẫn công khai công bố ông Minh còn sống, vẫn còn lãnh đạo HỘI ĐỒNG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC.
Nhưng cái vế thứ hai của vấn đề thì lại rơi vào hố thẳm bất lợi hơn rất nhiều cho tổ chức. Ấy là mọi đoàn viên, tất cả đồng bào, đều có quyền đặt câu hỏi: "VẬY THÌ AI LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO 'HỘI ĐỒNG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC' SUỐT MƯỜI MẤY NĂM NAY?"
Trở lại với các đợt về nước, MẶT TRẬN không chỉ tổ chức 3 cuộc Đông Tiến với võ trang đầy đủ. CÁC ĐỢT VỀ KHÁC CỦA "ỦY BAN KHÁNG QUẢN" ĐỀU BẰNG GIẤY TỜ DO BỘ NỘI VỤ VIỆT NAM CẤP. TẤT CẢ ĐỀU BỊ BẮT TẠI BATTAMBANG. KHI BẮT HỌ, CÔNG AN VIỆT CỘNG NÓI VỚI NHAU: "LẠI VÀI CON NHẠN BỘ NỘI VỤ NỮA..." Thái độ của bọn công an tỏ ra rất coi thường những người xâm nhập bị bắt(?).
Tất cả những người bị bắt đều bị buộc phải viết trên giấy gởi ra chiến khu là "đường giây tốt đẹp", là "an toàn". Họ thậm chí còn phải viết ra những tin ma, nay đánh chỗ này, mai đánh chỗ khác; tuần trước diệt đồn công an, tháng qua treo cờ, tuyên vận, v.v...
Khi đã mãn hạn bị biệt giam (bị giam giữ một mình, không được liên hệ với bất cứ ai) thì ai cũng đặt câu hỏi với nhau: "Tại sao anh lại báo ra là an toàn?" Rồi người trước giận kẻ sau, người sau oán kẻ trước...
ĐƯỜNG GIÂY ỦY BAN KHÁNG QUẢN (UBKQ) CŨNG DO ÔNG LÊ PHÚ SƠN VẼ RA!
Người ta có thể đặt câu hỏi "phải chăng ông LÊ PHÚ SƠN phản MẶT TRẬN vì MẶT TRẬN đã quá tàn ác, giết người của họ ngay tại chiến khu?" Cũng có thể đặt giả thuyết rằng "ÔNG LÊ PHÚ SƠN LÀ PHẢN GIÁN CỦA VIỆT CỘNG CÀI VÀO HÀNG NGŨ MẶT TRẬN Ở CẤP CAO NHẤT!"
Đau đớn thay cho số phận những người đã nằm xuống cho lý tưởng sáng ngời họ theo đuổi. Con số không phải là ít oi, trong cả ba đợt, số tử vong lên đến hơn 200 người. Những người bị tù đày khốn khổ trong cô đơn tuyệt vọng cũng lên đến hàng trăm. AI ĐÃ VÀ PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ VIỆC NÀY?
Người ta đã lôi đích danh Bùi Văn Nam Sơn của vụ ông Bá ra để luận tội. Người ta đòi chúng tôi phải đưa Chu Vũ Hoan ra để xét xử... Nhưng không thấy ai dám mổ xẻ sự kiện hàng mấy trăm con người yêu nước bị chết thảm ở biên giới Việt - Lào! Trong khi vụ của chúng tôi không có ai chết, người vẫn còn sống sờ sờ ra đây.
Phải chăng vì đa số những người đã chết kia đều không mang quốc tịch Mỹ, Pháp...? Hay vì họ chỉ là những kẻ "vô danh tiểu tốt", nghèo trắng tay ở những trại tỵ nạn? Hoặc bởi vì thế lực của MẶT TRẬN bao trùm quá, kinh khiếp quá, táo tợn quá? Hay bởi vì e ngại sự đoàn kết hải ngoại sẽ mất đi?
Than ôi! ĐOÀN KẾT NẾU ĐƯỢC ĐỊNH HÌNH NHƯ VẬY THÌ ĐOÀN KẾT ĐỂ LÀM GÌ?

Đoàn kết ấy phải gọi bằng tên gì và sẽ dắt chúng ta đến đâu trong mục tiêu đòi lại sông núi cho một dân tộc quá khát khao tự do dân chủ? Các bậc đàn anh của tôi tại hải ngoại chắc ít khi mường tượng ra được cái cảnh những người tù chính trị về từ hải ngoại khi bị quay cung đã bị tan nát cõi lòng như thế nào khi những tên sĩ quan phản gián P16 và A15 chắp tay sau đít đi đi lại lại, miệng lẩm bẩm những câu đại loại: "CÁI CÔNG TY KHÁNG CHIẾN PHỞ BÒ CỦA CÁC ANH..."
Không, tôi không muốn những người đi sau tôi còn phải tiếp tục chịu đựng những cảnh như vậy!
Tôi không muốn sẽ lại có thêm những cái thứ "kháng chiến cháo gà" hay "kháng chiến cơm heo" được nuôi dưỡng một cách cố ý hoặc vô tình bởi ai đó. Nếu trên xác thân ta có một vết ung nhọt đang lan thành ung thư, muốn diệt được mầm họa phải đòi hỏi ta đởm lược. Đây là những lời nói thật, nói thẳng, được trả bằng chính sinh mạng của tôi, xin đừng nghĩ là một hành động khiêu khích. Trên cõi đời này, ai là người không sợ chết? Nhưng nếu cần chết để bảo vệ sự thật thì Phạm Văn Thành này cũng dám chấp nhận. Không thù oán, chỉ tiếc là mình không còn sống được đến ngày dân Việt toàn thắng Cộng sản!
Tôi viết những giòng này sau nhiều đắn đo suy nghĩ, sau nhiều lần phải dừng ngang vì những giòng nước mắt. Tôi cũng chỉ là một con người bình thường như muôn ngàn người đang sống đây, cũng có một mái gia đình, cũng có những tình cảm. Và có những người Anh của tôi mà tôi vô cùng thương mến, vô cùng kính trọng; những người đã cùng chia ngọt xẻ bùi với tôi bao nhiêu ngày tháng... mà hôm nay tôi buộc phải viết lên những điều đớn đau của sự thật, ít nhiều làm xúc phạm đến các anh, điều mà gia đình, vợ con tôi và tôi không bao giờ muốn. Vì các anh chị là những ân nhân của gia đình tôi. Trong cảnh tù tội lao lý, khi mọi người không ai biết đến tôi, không ai muốn nhớ đến tôi, thậm chí có những kẻ mong tôi chết rũ tù, thì các anh chị là những người rì rào tổ chức, âm thầm lo lắng cho vợ con tôi.
Ân nghĩa đó, ngày hôm nay tôi trả bằng bài viết này, là cả một vực sâu đau đớn trong hồn tôi. Nhưng, xin chịu tội trước các anh chị, để tôi làm tròn phận sự của người thông tin, một thông tin đã được viết bằng máu, được học thuộc lòng trong hầm cùm và được viết lại bằng những cơn khóc đứt đoạn khi viết ra. Xin tha thứ cho tôi. Tôi đã viết lên các bậc chức quyền, nhưng suốt 5 tháng trôi qua, các vị ấy vẫn nhởn nhơ coi thường sự kiện.
Xong bài viết này cũng là xong bổn phận thông tin của tôi. Trách giận thương ghét là quyền của các anh. Tôi vẫn ngày ngày cố góp sức mình vào chuyện chung. Đi lại chủ yếu bằng phương tiện xe buýt, rất ít tốn kém và không hề có bảo vệ trên khắp Âu Châu. Nếu giận quá mà thấy cần phải xử tôi thì cũng không bao giờ tôi oán trách các anh.
Công việc đại sự chẳng bao giờ là dễ cả. Người ta phải chịu trả giá đắt thì mới mong dẫn tới thành công. Tôi chủ trương xây dựng một tinh thần mới. Tinh thần dám nhìn thẳng vào sự thật để huy động tổng lực đấu tranh, một tổng lực gồm những con người luôn đứng thẳng, mắt sáng quắc niềm kiêu hãnh, chỉ chiến đấu cho sự thật, công bằng và tự do.
Bài viết này sẽ là bài viết duy nhất của tôi trên báo chí, với dự định đưa lên Internet liên quan đến MTQGTNGPVN. Từ nay tôi sẽ giữ im lặng vì tôi tin tưởng vào sự nhận định phân tích của đồng bào tôi. Trong trường hợp bất khả kháng cần tôi phải lên tiếng thì tôi sẽ yêu cầu xử dụng diễn đàn để đối chất công khai, ở bất cứ đâu và chỉ một lần, trước công luận, trước một cử tọa chân chính.
Xin đừng dùng bài viết này vào mục tiêu công kích cá nhân. Cũng xin đừng để chúng tôi phải xử dụng bạo lực để cảnh cáo những mưu đồ châm chọc, gây chia rẽ oán thù giữa người này với người khác.
Xin giúp chúng tôi làm tròn bổn phận làm người.
Paris khuya 27 tháng 4 năm 1999
PHẠM VĂN THÀNH
12 Place Des Canuts 95100 Argenteuil, France Tel: 1 39 80 21 39
oOo

THƯ THÔNG BÁO
Thừa ủy nhiệm của các Kháng chiến quân (KCQ) còn sống sót trong Quyết đoàn Đặc nhiệm Đông Tiến II, nay trân trọng công bố tên và ngày giờ của các Cán bộ và KCQ có thân nhân tại hải ngoại, đã tử trận tại Nam Lào và Thái Lan sau đây:
1. Anh Huỳnh Trọng Hà và Lâm Thao, hy sinh năm 1986 tại Pleiku (Đông Tiến I).
2. Anh Huỳnh Văn Tiến (Đan Mạch), hy sinh ngày 26/7/1987 lúc 7 giờ sáng tại QL13 Nam Lào.
3. Anh Trương Ngọc Ny (Hoa-Kỳ), hy sinh ngày 06/8/1987 tại QL13 Nam Lào.
4. Anh Võ Hoàng (Hoa Kỳ), hy sinh ngày 28/8/87 khoảng 10 giờ 15 tại Saravan, Nam Lào.
5. Anh Nguyễn Huy, tự sát ngày 28/8/87 cùng với ông Hoàng Cơ Minh tại Saravan, Nam Lào.
6. Anh Lưu Minh Hưng, tự sát cùng ông Hoàng Cơ Minh ngày 28/8/87 lúc 10 giờ sáng. 7. Anh Đẩu, tự sát cùng ông Hoàng Cơ Minh ngày 28/8/87 lúc 10 giờ sáng.
8. Anh Trần Thiện Khải, hy sinh ngày 27/8/87 lúc 8 giờ sáng.
9. Anh Trần Hướng Việt (Việt kiều Thái Lan) hy sinh ngày 26/8/87.
10. Anh Long (về năm 1984 qua ngã Singapore vào Thái), hy sinh tháng 7 năm 1987.
11. Anh Hội, hy sinh năm 1986 (về chiến khu năm 1984 qua ngã Singapore cùng với anh Long và ông Cao Văn Muôn).
12. Anh Võ Sĩ Hùng, về từ Pháp, bị xử tử tại chiến khu năm 1989-90 (người thi hành lệnh bắn là anh Đào Bá Kế).
13. Anh Lê Hồng, hy sinh đầu năm 1986.
14. Anh Trần Vi Thiện, chết trong nhà tù A20.
15. Anh Trần Công, chết tại nhà tù Xuân Phước A20.
Tổng cộng 15 người trong danh sách này
Paris ngày 27 tháng 4 năm 1999
Kính, cẩn báo,
Phạm Văn Thành
ooOoo
Và Đài SBS Melbourne (phát thanh toàn quốc) cũng đề cập nội vụ Hoàng Duy Hùng và Phạm Văn Thành một cách đặc biệt và phát thanh liên tiếp nhiều kỳ vào tối Thứ Ba, trong đó có cuộc phoœng vấn ông Trần Xuân Ninh, ông Hoàng Duy Hùng và ông Phạm Văn Thành. Trong tất cả những bài viết bài đọc về vụ này được đăng trên báo chí, các website trên mạng lưới internet , tôi thấy đài SBS và báo Việt Luận đã làm một việc hết sức trung thực và công bằng. Tôi có đọc bài của bà Nam Dao ở Adelaide, có ý phiền trách đài SBS có ý "xếp đặt" bất lợi cho Mặt Trận. Tôi nghĩ là bà Nam Dao chỉ muốn đưa tin như những tờ báo khác là "đủ rồi".
Tôi không biết những tờ báo và đài phát thanh loan tải những bài viết như vậy Mặt Trận có chụp mũ là “dính líu” với Hoàng Duy Hùng và Phạm Văn Thành? Những vị nào loan tin có bị BẺ Răng chưa?
Phần tôi, một cá nhân nhoœ xíu, tại sao Mặt Trận lại boœ công bọc lớp áo cường hào ác bá ra đe dọa? Tôi nghĩ, Mặt Trận không "làm" có mình tôi mà còn nhiều người nữa. Những người có thể “làm phương hại đến cách mạng”! Một bằng cớ hiển nhiên là không riêng gì ờ địa phương này mà nơi khác cũng có và hạng gộc đích thân hăm dọa chứ không cái kiểu "ném đá dấu tay".
ooOoo
Trong thư của ông Phạm Văn Thành cũng như trong cuộc phỏng vấn của đài SBS Melbourne có đề cập tới bài viết bà Phạm Thị Thái Bình. Bài Viết của bà Phạm Thị Thái Bình viết về ông Phạm Văn Thành được trích từ website "CON ONG" một website có chủ trương không châm chích, nhưng thư chửi bới ông Phạm Văn Thành được liệt kê là đứng đầu hạng, như sau:
oOo
Thư gửi Anh Phạm Văn Thành,
Người viết: Phạm Thị Thái Bình
Đôi lời giới thiệu:
Vào ngày 30/4 1999 trên mạng lưới Internet có xuất hiện một bài viết của ông Phạm Văn Thành, một cựu tù nhân chính trị mới được Việt cộng phóng thích vào cuối năm 1998. Bài viết có tựa đề là "Dòng Tâm Tình Nước Mắt" sau đó có được đăng lại trên một vài tờ báo trong cộng đồng người Việt tỵ nạn.
Bà Phạm Thị Thái Bình là một độc giả trên Net, đã có ý kiến viết bức thư này sau khi đọc được tài liệu DTTNM phổ biến bởi ông Phạm Văn Thành.
Dòng Tâm Tình Nước Mắt là một bài viết rất dài không thể rút ngắn để trình bầy lại được, chỉ xin có đôi dòng giới thiệu về ông Phạm Văn Thành theo như những chi tiết do chính ông cung cấp. Ông Phạm Văn Thành là một cựu đoàn viên của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam và đã bị Mặt Trận này khai trừ vào năm 1989. Ông Thành sau đó lập ra một nhóm riêng lấy tên là Tiên Long Hội và đã bị bắt khi hợp tác với Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam để về nước hoạt động vào năm 1993.
Trong tù, ông Thành kết thân trở lại với các đoàn viên Mặt Trận bị Việt cộng bắt trong khi xâm nhập hay hoạt động tại Việt Nam.
Dòng Tâm Tình Nước Mắt là một tài liệu bạch hoá những tổn thất của Mặt Trận trong các hoạt động kháng chiến và nhân danh những đoàn viên Mặt Trận đã hy sinh hay đang bị cầm tù để lên án những người trách nhiệm Mặt Trận tại hải ngoại đã không chịu công khai hoá những tổn thất của tổ chức mình và vinh danh những đoàn viên đã hy sinh.
Sau đây xin mời các bạn đọc thư góp ý với ông Phạm Văn Thành của bà Phạm Thị Thái Bình:
Thân gửi Anh Phạm Văn Thành,
Trước hết tôi xin tự giới thiệu tôi tên là Phạm thị Thái Bình, hiện định cư ở Úc Đại Lợi. Hơn mưòi ngày qua, tôi được đọc qua báo chí không biết bao nhiêu là đóng góp cũng như trình bày ý kiến về bài viết của ông Hoàng Duy Hùng, cũng qua bài viết này, người cựu tù nhân chính trị Phạm văn Thành, mà tôi được biết và ngưỡng mộ qua bài: Các cựu tù nhân chính trị gặp gỡ đòng bào tại Âu Châu, đăng trong tờ Việt Nam Dân Chủ, lại chính là người đã nêu lên một vấn đề rất tế nhị, mà trong giai đoạn đấu tranh hiện nay, lẽ ra mình nên làm khác hơn. Cho đến sáng nay đọc bài Dòng tâm tư nước mắt của anh, tôi quyết đýnh phải viết thư cho anh chị, mong rằng chúng ta sẽ tìm được lối thoát cho vấn đề, mà tôi nghĩ tận đáy lòng anh chị cũng như tôi, một người Việt yêu nước, đều mong mỏi.
Anh Thành thân mến,
Qua bài viết của anh, tôi nhìn thấy thật rõ tấm lòng yêu nước, sôi nổi nhiệt thành của một thanh niên Việt Nam, và kế đó là tâm tư cùng những chân tình, ân nghĩa ràng buộc. Những chi tiết khác của bài viết, tôi không cho đó là những suy nghĩ chín chắn của Anh. Những phát biểu của anh trong bài viết của ông HDH cũng là những suy nghĩ không chín chắn, vì thế, dù muốn dù không, anh đã làm vẩn đục không khí đoàn kết đấu tranh mà mọi người vừa tạo được, Anh đã xúc phạm đến tình c/h mà qua thư Anh viết, tôi thấy vẫn còn tràn đày trong hồn Anh, Anh cũng đã vô tình để người khác lạm dụng ít nhiều tên tuổi của mình, mà lẽ ra gia đình anh trọn quyền thừa hưởng, và chúng tôi, tuyệt đại đa số người Việt yêu chuộng Tự Do Dân Chủ ở trong và ngòai nước độc quyền hãnh diện.
Anh Thành thân mến,
Bài viết của anh, cũng đã gây xúc động xâu xa trong tôi, Anh Chị đã có được một mái ấm gia đình mà trong đó cha, con, chồng, vợ, anh, chị, em cùng chia xẻ gánh vác trách nhiệm đối với đất nước, từ đó tình thân ruột thịt có thêm một mối tình thiêng liêng là tình chiến hữu, mà qua bài viết của Anh, Anh Chị vẫn còn và đang có mối tình ấy, dù hoàn cảnh có đổi thay. Đó là một ơn lành mà thượng đế đã dành cho gia đình anh chị. Nên trân trọng những hiếm quý ấy.
Anh Thành thân,
Điều tôi sắp viết ra đây, sẽ chẳng có gì mới mẻ, nhưng với tấm lòng chân thật, tôi mong Anh đọc với tất cả sự cẩn trọng.
Chắc Anh còn nhớ, ngày còn ở trong nước, cả đại gia đình của người Việt Nam ta, hai ba thế hệ sống chung dưới một mái nhà, thật là đầm ấm, các phần tử trong gia đình cũng là những con người bình thường với đày đủ hỉ nộ ái ố, nhưng lễ giáo gia đình đã giữ mọi người trong khuôn phép, con làm tròn hiếu đễ đối với cha mẹ, vợ chồng giữ đạo thủy chung, anh chị em thương yêu nhau. Gia đình sống đùm bọc nương tựa nhau. Sau ngày 30 tháng tư 75, bạo quyền có làm ly tán gia đình ta, nhưng chúng không thể chia cách thâm tình cốt nhục giữa bà con ruột thịt, họ hàng của chúng ta ở trong và ngòai nước, một khi ta quyết tâm gìn giữ, chắc anh cũng đồng ý với tôi về điểm này. Vì thế, không một ai, không một ai Anh Thành ạ, có thể chia rẽ hoặc cắt đứt tình cảm của bất cứ gia đình nào ngoại trừ các cá nhân trong gia đình ấy. Mình cũng không thể không nói đến những trường hợp đã gây nhiều đau buồn ,trong một số gia đình có những đứa con ngỗ ngược, không giữ được đạo làm người, thành phần này nếu gia đình còn chút phúc đùc thì sẽ đi phá làng phá xóm, còn gia đình phúc mỏng thì thật là tai họa cho dân tộc. Anh cũng đồng ý với tôi, đất nước mình đang bị đại họa đó. Ông cha ta đã dạy chúng ta về đức tính khiêm nhường, hiểu biết cách đối xử như người quân tử, vì thế mà mình đã có biết bao nhiêu gương bằng hữu được học từ thời giáo khoa thư, như Lưu Bình Dương Lễ, đến gương hy sinh của Lê Lai liều mình cứu Chúa. Phải kỷ luật nghiêm minh như thế nào, phải hiểu biết công cuộc đấu tranh khó khăn như thế nào, phải biết tấm thân ta nhỏ bé, tầm thường thế nào đối với khí thiêng sông núi, tiền nhân ta mới có hành động anh hùng như vậy; giờ đến phiên chúng ta, há vì chút tỵ hiềm, chút tự ái cá nhân, mà ta đang tâm đạp lên tình chiến hữu, coi thường kỷ cương, cam tâm làm lợi cho giặc? Sử xanh sẽ viết ra sao?
Anh Thành thân mến,
Vì chút tình riêng, Anh không muốn nói đến một vài điều, Anh hy vọng không ai nhẫn tâm buộc Anh phải nói ra. Tôi xin được tôn trọng ý Anh, và quyết không bao giờ tìm hiểu.
Vậy thì trong trận đấu tranh này, với một kẻ thù nham hiểm, một tổ chức đấu tranh có chiến thuật chiến lược, có quyền không tuyên bố bất kỳ những gì đối phương áp đặt và mong muốn, có quá đáng lắm không? Có ai nhẫn tâm đòi phải bạch hoá điều này, bạch hóa điều kia? Những người KCQ trong tổ chức của Anh, nếu họ biết được chiến thuật chiến lược rành rẽ như lằn chỉ trong tay họ, khi bị tù tội, bạo quyền làm sao nới tay cho được, cuộc đời họ chỉ còn có màn đêm trong ngục tối, chỉ có mùi xú uế chung quanh, bị đọa đày hơn súc vật thì sức lực ở đâu, thì giờ ở đâu để được cùng Anh rành rọt, kể lể dài dòng chi tiết? Nhưng tôi tin một điều họ đã mãn nguyện vì được hy sinh cho Tổ quốc, một lòng giữ bí mật không khai báo tổ chức của mình, không thông báo ai còn ai mất mới bảo vệ được cơ sở chứ, tuyệt đối không nhận quà thăm nuôi để không lộ tông tích chứ, như thế mới xứng đáng là chiến hữu của anh, là anh hùng của đất nước chứ phải không? Anh đã bị bắt khi về nước họat động, có phải vì bí mật bị lộ, dù là vô tình hay cố ý? Nhưng theo thư Anh, thì Anh đã bị bán đứng. Anh có tin rằng, Anh đang làm một việc mà mọi người Việt yêu nước buồn lòng vì Anh đang bán đứng MT, một tổ chức đấu tranh có uy tín và đang lãnh đạo công cuộc đấu tranh đòi dân chủ cho VN?
Anh Thành ạ, người quân tử chẳng hề muốn nói đến cái đởm lược, mà chỉ lo mình đã, đang và sẽ làm gì có lợi cho đất nước. Anh có nghĩ vì cái đởm lược mà anh hằng nói đến, bạo quyền đã dùng nó để khai tử Anh trong lòng chúng tôi không? Vì đởm lược mà Anh đòi bạch hóa, gây hoang mang, làm nguy hại đến uy tín của MT mà qua thư anh, anh vẫn còn quý trọng? Vì đởm lược Anh tự nhận làm người thông tin không công mà bạo quyền dày công tìm kiếm, vì mọi người Việt nam ở trong và ngoài nước đều đã hiểu rõ cái trò "Xúi anh em chúng nó đánh nhau" của bạo quyền. Anh có nghĩ đến điều này không Anh Thành.? Dẫu Anh biết được vài điều, thì với tinh thần của một người đi đấu tranh, hãy khoan nói đến kỷ luật của tổ chức, Anh cũng phải biết kẻ thù của dân tộc Việt, (chứ không phải kẻ thù của riêng Anh) là ai, để nhìn thấy phần nào hậu quả, cũng như kết quả của việc mình làm chứ, phải không? Nếu vài năm trước địch tung tin bảo rằng Anh đã chết trong tù, dĩ nhiên bằng cớ không phải là điều khó kiếm dối với bạo quyền, tôi tin rằng chị ờ nhà vẫn chẳng bao giờ tin điều ấy, vẫn cầu nguyện cho Anh được bình yên, vẫn nuôi dậy con, rằng cha con vẫn còn sống hiên ngang trong tù, vẫn đấu tranh trong tù, ngộ nhỡ Anh có mất đi thật, tôi cũng không tin chị ở nhà sẽ xác nhận nguồn tin do địch đưa ra, vì danh dự của Anh, và chị ở nhà vẫn tin là Anh còn sống cho đến khi chính chị tự tay chôn cất, thế thì Anh vẫn hằng sống mãi trong chị và các con Anh, và trong chúng tôi nữa đấy chứ?
Trong trận đấu tranh hiện nay, giữa ta và bạo quyền, làm được điều gì có lợi cho công cuộc đấu tranh thì đó cũng là góp phần viết thêm điều hay vào sử sách, cuộc đấu tranh ngày hôm nay, như anh biết rất khó khăn, ta đấu tranh trong môi trường tự do thừa mứa của tây phương, nếu không cẩn thận, chỉ một chút vụng suy, vụng tính, không những ta chôn vùi thanh danh của chính ta, mà còn vô tình dùng tự do nơi đây xiết chặt thêm vòng dây oan nghiệt ở cổ người dân trong nước. Tất cả các đảng phái chính trị và các tổ chức đấu tranh của ta ở hải ngọai chỉ có một mục tiêu chung và duy nhất là dứt điẻm bạo quyền, đừng một ai cố tình lầm lẩn , bắt chước học đòi dân chủ, tự cho mình cái nhu cầu và khả năng bôi nhọ, bới móc những tổ chức khác, để dành dân, kiếm phiếu như chúng ta thường thấy ở các đảng phái tại các nước bản xứ mà chúng ta đang sống. Phải nhớ chúng ta đang ăn nhờ ở đậu, nước ta chưa có Tự Do Dân Chủ. Những hành động lợi dụng dân chủ một cách ấu trĩ, thiếu suy nghĩ, hoặc vì bất cứ lý do gì, cũng đều gây thiệt hại cho tiền đồ Tổ Quốc, làm lợi cho bạo quyền, kẻ đã từng bỏ tù Anh chỉ vì lòng yêu nước của Anh, kẻ đang hành hạ các chiến hữu của Anh trong ngục tối. Anh cũng phải đồng ý với tôi ở điểm này.
Anh Thành thân mến, chuyện không hay đã xảy ra, nhưng trễ còn hơn không, chỉ có Anh là ngưòi duy nhất biết phải thay đổi như thế nào cho thuận ý trời, hợp lòng người. Anh không phải chịu trách nhiệm cho sự sai lầm của bất cứ ai, ngoại trừ cho chính sai lầm của Anh, Anh không cần xin lỗi cho bất cứ ai, ngoại trừ xin lỗi cho chính anh. Hãy tách Anh ra khỏi đám người vô lương tâm, đang cố tình dùng Anh như vật tế thần. Anh Thành ạ, hãy nhập vào đại khối đấu tranh, đừng làm hoen ố tấm lòng dũng cảm yêu tự do dân chủ của mình, anh Thành nhé! Do đó, tôi mong đợi ở sự suy nghĩ sáng suốt của Anh, một hành động tích cực nào của anh trong lúc này , cũng đều có giá trị nào đó, khiến đồng bào ở Úc , hàng ngàn người đã từng ký tên, từng tham dự các cuộc biểu tình đòi thả tù chính trị trong đó có Anh, được hãnh diện và được đền bù.
Thôi nhé,
Thân,
Phạm thị Thái Bình
Úc Đại Lợi
ooOoo
Tại địa phương, tôi tin cũng có nhiều người đã bị hăm dọa. Những người đã từng chống Mặt Trận từ sau vụ "khủng hoảng niềm tin" đến nay càng lúc càng gia tăng. Ngay như nội bộ Mặt Trận, thành viên có tiếng là trung kiên giờ không thấy còn ai. Trừ một người tôi sẽ đề cập sau. Nhưng không thấy ai lên tiếng công khai cả. Có lên tiếng chăng chỉ có tính cách lén lút. Tôi thì không. Tôi không chấp nhận bất cứ một thế lực nào cướp quyền tự do ngôn luận của người khác, nhất là tại đất nuớc Úc Đại Lợi này. Chuyện Hoàng Duy Hùng và Phạm Văn Thành không còn là chuyện Mặt Trận có thể dấu được nữa. Cho nên, Mặt Trận mới "nặng tay" với những người nào "dám" biết chuyện đó và gán ngay là "dính líu"
Giả thử rằng, tôi có dính líu đó là quyền của tôi. Nếu sự dính líu đó có phạm pháp, tôi chấp nhận. Mặt Trận không có quyền gì ngăn cấm dù là ngăn cấm với hình thức đòn thù kiểu Mafia.
Tôi đã viết email thẳng tới Mặt Trận với bản sao cho nhiều người trong danh sách mà Mặt Trận dùng để phổ biến tin tức. Tôi muốn công khai hóa vấn đề. Nội dung thư tôi cho Mặt Trận biết là tôi KHÔNG SỢ những lời đe dọa đó.
Phạm Văn Thành và Hoàng Duy Hùng hoàn toàn xa lạ với tôi. Tôi chỉ "biết" Phạm văn Thành qua báo chí khi được Việt Cộng thả và "biết" làn thư hai khi nghe Trần Tri Vũ tường trình từ Paris trên đài SBS ông tố cáo một tổ chức nào đó (đài SBS kiểm duyệt tên tổ chức). Nay lại biết thêm "một chút xíu" nữa. Sự biết của tôi như vậy là "dính líu"? Hay còn vấn đề gì khác mà Mặt Trận "ngại" nói ra. Nếu mặt Trận muốn bẻ răng tôi, tôi sẵn sàng đưa cớ cho Mặt Trận. Tôi sẽ “kể chuyện” Mặt Trận tại đây trên bằng một website riêng ghi rõ tên, mà bấy lâu nay cũng vì ngại có ảnh hưởng đến CÔNG CUỘC CHUNG mà phải nhẫn nhục im lặng. Tôi không cần phải "dính líu" hay “ăn ké” vụ Hoàng Duy Hùng và Phạm Văn Thành. Không cần phải khai thác những bức email chửi bới thậm tệ Mặt Trận mà tôi nhận được mấy tháng nay.
Mặt Trận đã viết một email cho tôi để giải thích vòng vo với những bài công dân vỡ lòng y chang như những tên bộ đội ở Cục R ra lên lớp tôi về "Cộng Sản Nguyên Thủy" vậy. Đến ngày 17 tháng 7, trong ngày Đại Hội Thường Niên của Cộng Đồng (tôi không có dự), tôi bị công kích là chửi bới một tổ chức có “uy tín” bằng phương tiện của Cộng Đồng nhằm hạ uy tín Ban Chấp Hành Cộng Đồng. Cái trò “mượn gió bẺ măng” của Mặt Trận không ai lạ gì. Họ làm bộ ngớ ngẩn không biết cái phương tiện tôi dùng để “chửi rủa một tổ chức có uy tín” đó để khích động những người khác mặc dù họ thừa biết đã có thông cáo cũng như ngay Đại Hội thường niên năm vừa qua Ban Chấp Hành đã nói rõ những thứ gọi là phương tiện đó là tải sản của riêng cá nhân tôi. Ban Chấp Hành đã nhờ tôi giúp có điều kiện hẳn hòi. Một điều rõ ràng hơn là tôi đã xác nhận với Mặt Trận là những website tôi phụ trách là của riêng tôi. Vậy mà họ cũng đưa lên diễn đàn để phải nghe những lời bất lợi về mình. Một tổ chức có “uy tín” lại có những vặt vãnh như vậy sao?
Đến chiều ngày Thứ Tư 21. 7. 1999. Tôi được bà PHẠM THỊ THÁI BÌNH, một bút hiệu, thành viên Mặt Trận, thành viên của Liên Minh Việt Nam Tự Do, thành viên của Hội Chuyên Gia Việt Nam. Một nhân vật mà ông Phạm Văn Thành đã nhắc nhở, tác giả bài viết lên lớp ông Phạm Văn Thành như nói trên gọi đến và muốn gặp tôi để “gỡ danh dự” giúp tôi.
Bà Phạm Thị Thái Bình đến với tôi với với tính cách “bạn bè” chứ không phải do Mặt Trận “phái đến” để gặp tôi. Nhưng “tình bạn bè” đã bị “lấn cấn” ngay khi bà gọi điện thoại đến và nhằm phải vợ tôi (xin đừng nghĩ nhầm vấn đề khác). Khi nghe bà PTTBình muốn gặp tôi, vợ tôi thẳng thừng “phang”: "Bà định gặp ổng để bẺ răng ổng hả". Dĩ nhiên là “bà bạn” tôi đâu thể làm như vậy. Vây mà vợ tôi không nể tình cứø “phang” tiếp. Bà vợ tôi “phang” bà PTT Bình về việc “ÔNG XÔ CủA BÀ BÌNH, CỰU CƠ Sở TRƯởNG MẶT TRẬN, CỰU TRƯởNG CHI HỘI CHUYÊN GIA VIỆT NAM, THÀNH VIÊN LIÊN MINH VIỆT NAM TỰ DO, TỪ KHI VỀ VIỆT NAM Đà CÓ THÁI ĐỘ NGHIÊNG HẴN VỀ VIỆT CỘNG. Điển hình nhất là viết thư lên báo Việt Luận công khai ủng hộ bà Hồ Mai vận động kết nghĩa với quận 1 thành phố Hồ Chí Minh. Bà vợ tôi kết luận: "Bà nhớ coi, trước kia bà nhờ tôi làm cái gì tôi cũng làm giúp bà. Dạo sau này, bà nhờ tôi, tôi từ chối. Tôi không thích người chân bên này, chân bên kia“.
Vợ tôi đã thẳng thừng với bà PTTBình cũng không lạ. Bà là đồng minh của tôi trong công cuộc chống cộng. Bà là người chịu đựng giúp tôi để đối phó lại những cú điện thoại hăm dọa, chửi rủa của bọn cường hào ác bá cứ đêm khuya gọi tới, để tôi có đủ giờ ngủ, không bị mất sức cho công việc kiếm cơm hàng ngày. Bà có niềm uất hận như tôi. Bà không còn sợ một ai nữa. bà sẵn sàng đối diện.
Bà Bình vừa đến nhà tôi đã vội phân bua. Bà đem bác sĩ Trần Trung Hòa, chủ tịch Cộng Đồng, chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân, mà bà ca tụng là người tốt, người đạo đức khó có người thứ hai v.v... và bà đã không những là bạn rất thân mà còn coi ông bà Hòa là anh chị ruột nữa ra để dẫn chứng sự phân bua đó và yêu cầu tôi hoœi có đúng như vậy không. Tôi mỉm cười và thẳng thừng từ chối. Tôi nói tôi không thích dính líu vào đời tư của người khác. Vả lại, cái mỉm cười của tôi đã biểu lộ tôi ”rành“ sự thành thực của bà. Bà là thành viên của Mặt Trận, bà biết ông Trần Trung Hòa là người tốt, người đạo đức, người anh của bà. Vậy mà bà làm ngơ hay đã tiếp tay(?!) để Mặt Trận phá rối người đạo đức như vậy nhiều năm liên tiếp. Tôi nghi ngờ cái ”tình“ của bà.
Trong buổi tiếp chuyện với ”bà bạn“ Phạm Thị Thái Bình, bà cho biết là Mặt Trận không hề hăm dọa tôi như vậy là tội ”Không có Mất Danh Dự“. Thì ra bà gỡ danh dự cho tôi là vậy. Như vậy cũng có nghĩa là Mặt Trận đã từng tước danh dự của nhiều người khác? Thật là cay đắng cho tôi. Cay đắng cho những người tỵ nạn đi tìm tự do. Tôi mỉm cười và nói là tôi biết trước câu trả lời và hoœi: "Thế còn Mặt Trận nào ở Adelaide đã hăm dọa tôi?" Phải, ”người“ ở Adelaide đã hăm dọa cùng nội dung như những ”người“ ở Brisbane, cách xa nhau gần hai ngàn cây số. Bà PTT Bình xác nhận là đã hoœi nơi đó nhưng chưa được trả lời. Khi nào có sự trả lời bà đến gặp tôi lần nữa. Tôi lại thẳng thừng từ chối sự gặp gỡ đó. Bà thòng: ”Tôi sẽ gọi điện thoại cho anh“. Tôi không mong muốn bà ta gọi điện thoại cho tôi vì tôi cũng biết câu trả lời cũng như tôi biết mục đích của bà đến gặp tôi dù bà xác định là bà tự ý chứ không phải do Mặt Trận phái đến. Mục đích đó là tôi có ”một giải pháp ôn hòa nào với Mặt Trận“ không? Tôi cứng rắn trả lời là không có giải pháp nào cả. Tất cả đều ở phía Mặt Trận. Mặt Trận dồn ép tôi thì tôi phải bung và bất chấp hậu quả. Tôi cho ”bà bạn“ tôi biết trước những việc làm của tôi là đưa tất cả những gì Mặt Trận đã và đang làm tan nát cộng đồng này lên website. Không lợi dụng chuyện Hoàng Duy Hùng và Phạm Văn Thành. Và kết luận là bà không đủ sức để thuyết phục tôi.
Tôi không tự cao, bà không phải là người để tôi đối diện, mẫu người của bà Mặt Trận nên dùng vào việc khác. Tôi muốn đối diện với người có tầm nhìn xa hơn và có lòng thành thực. Bà là một trong những nhân tố thúc đẩy tôi bước xa hơn nữa. Nhất là ngay khi viết những dòng chữ này, tôi vẫn chưa được bà báo tin như bà đã hứa.

• KHÚC VƯỢNG

0 comments:

Powered By Blogger