Friday, January 17, 2014

TẾT trong ngục tù Cộng Sản

                                                   
               Tết là ngày trọng đại mang nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam.Tết gợi lên những vui tươi đầm ấm nhất của tình gia đình, thân tộc và bạn bè. Những với người tù chính trị Tết mất hết cả ý nghĩa trên.
                   Chỉ còn ba ngày nữa là Tết đến với chúng tôi, những người tù tại miền rừng núi thâm sơn chướng khí giá lanh này, nên người địa phương có câu ‘Nước Sơn la,ma Nghĩa lộ’.Hoa dại đang thi nhau phô sắc trên đỉnh núi mây mù giăng toả mà chúng tôi  gọi là’Cổng trời’. Đứng trên nhìn xuông phía dưới chỉ toàn màu trắng đục. Ngồi trên phiến đá cùng người bạn tù, lấy hai củ khoai ăn lót dạ sau khi leo lên tới đỉnh đã thấm mệt. Ăn xong vẫn còn thấy bụng cồn cào, sợ không đủ sức làm, tôi  nói với bạn :
  • Chúng ta tìm quanh đây xem có gì ăn đưc không ?
  • Ngoài măng còn gì na !
  • Thôi cũng đưc, có còn hơn không.
          Chúng tôi đứng lên kiếm một bụm măng non.Thật ra chẳng phải tìm kiếm khó khăn,vì đây là đỉnh vầu mọc nhiều hơn giang.Vầu là một loại giống cây tre, nhưng to và dài hơn nhiều,người Sơn cước dùng làm máng dẫn nước từ trên núi xuông bản làng. Măng vầu khi đã trồi khỏi mặt đất ăn rất đắng, nhưng còn chìm dưới đất ăn lại rất ngọt – nhiều người vì quá đói và thèm chất ngọt ăn nhiều bị sốt rét  phù thủng – Hì hục đào bới mãi mới moi lên mặt đất một bụm măng bằng cổ tay. Đang ăn ngon lành anh bạn ngừng hỏi :
  • Bn trong ban t chc mng Xuân, tối qua họp  bàn có gì lạ không ?
  • Truyn thng muôn đời không thay đổi.Văn nghệ đón Xuân, viết báo liếp (làm gì có tường), mỗi người ba cái bánh chưng bằng lòng bàn tay, ba gói thuốc lá Tam đảo, Đồ sơn, thịt trâu già xào với rau lang.
  • Thôi cũng đưc, có còn hơn không!
           Tôi mỉm cười vì câu nói chua xót hoà vốn của người bạn được nhắc lại.Sau khi chặt đủ chỉ tiêu mỗi người 10 cây giang, chúng tôi chuẩn bị hạ sơn khi ánh nắng đã lên cao,vì buổi chiều còn phải về sớm chẻ lạt cung cấp cho nhà bếp gói bánh.Vì đường dốc lại trơn trựơt không đủ sức vác cả bó xuông núi, nên mỗi người  khắc tên mình vào từng cây. Đứng trên lao xuống và hô thật lớn :
  • Xung cây ! Xung cây !
            Tiếng hô vang vọng núi đồi để bạn tù phia dưới biết mà tránh cho an toàn. Khi lao hết số cây, chúng tôi men theo đường mòn xuống núi, tìm đủ số cây gom lại vác về trại. Khi băng qua dòng suối chúng tôi dừng lại rửa mặt chân tay.Tiếng nước chảy róc rách qua khe đá cùng với tiếng chày rơi đều đều vào lòng cối mà người  Thiểu số đã lợi dụng sức nước chuyển động để giã gạo. Bọn cán ngố gọi là ‘Chiếc chày tự giác’ mà người dân tộc nhờ ‘Đỉnh cao trí tuệ’của cán bộ Bác Đảng hướng dẫn, đã biết vận dụng thiên nhiên thay cho sức người, cũng như chiếc xe ba gác kéo tay vang danh một thời của nhân dân tỉnh Kiến an để biến sức người thay sức ngựa.
              Tôi đang bực mình vì sự khoe khoang ngu dốt của những đỉnh cao trí tuệ loài người, bỗng nghe tiếng cười vang của các cô gái Thái từ trên đỉnh đồi đi xuống lấy nước. Khi nhìn thấy những người tù ốm yếu, rách rưới, các cô e ngại dừng bước. Chúng tôi hiểu ý gật đầu  làm hiệu rồi đi lên. Hai cô gái còn rất trẻ, nước da trắng trẻo, mặc quần đen áo trắng có riềm màu sặc sỡ nổi bật giữa núi đồi hoang dại. Nhưng với thân phận người tù có ‘tức cảnh sinh tình’cũng đành để lắng đọng trong tâm hồn mình. Theo đuổi những ý nghĩ quên cả sức nặng bó giang đè trên vai áo rách, chúng tôi lầm lũi theo con đường mòn về trại mà đâu hay mùa Xuân đang về trên cây cỏ rừng chiều hoang lạnh !
                Chiều 30 Tết, khung cảnh trại tù được trang hoang sạch sẽ hơn mọi ngày. Ngay chiếc cổng tre ra vào hàng chữ đỏ nổi trên tấm vải vàng :”Chúc mừng năm mới “.Trước các lán (nhà), khẩu hiệu được treo lên theo chỉ thị như :”Lao động là vinh quang – Vui Xuân không quên học tập lao động tốt- Xuân về Bắc Nam xum họp, nhà nhà yên vui”.Trong hội trường phía trước là cờ đỏ sao vàng với hình Hồ chí Minh. Phía trên là hàng chữ ‘Không có gì quí hơn độc lập tự do’,dưới ảnh ‘Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta’. Chung quanh hội trường treo những tờ báo liếp được cắt dán loạn xạ từ những tờ báo Liên sô, Nhân dân, Quân đội hay Sài gòn giải phóng…với đủ các hình màu hí họa, các bài thơ và các câu châm ngôn của lãnh tụ như :’Hoà bình phát sinh từ nòng súng (Mao chủ tịch)- Thiên tài chỉ có 10%, còn 90% nhờ lao động không ngừng (Lê-nin)- Không có gì qúi hơn độc lập tự do (Hồ chủ tịch)- Xưa yêu phong cảnh thiên nhiên đẹp, Mây gíó trăng hoa tuyết núi sông, Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong(Bác Hồ với văn thi sĩ miền Bắc)- Bàn tay ta làm nên tất cả, Có sức người sỏi đá cũng thành cơm
(Tố Hữu) – Mưa lớn coi như mưa nhỏ, mưa nhỏ coi như không mưa. Mỗi người tích cực làm việc bằng hai (Châm ngôn lao động trại).
                  Sở dĩ chúng tôi cóp nhặt tài liệu trong báo nhiều hơn là tự chế vì đa số anh em không muốn bộc lộ tâm tư mình.
              Tối 30 thay vì tổ chức đón giao thừa, cán bộ cho chúng tôi nghỉ lao động sớm để chuẩn bị ngày mai đón Xuân mới.Vì thực ra nếu có tổ chức lấy gì mà đón giao thừa. Pháo thì không có. Đạn thì phải để cho bộ đội biên phòng ngăn giặc không đuợc bắn bậy. Đồ ăn lại không có tiêu chuẩn cho đêm 30. Khi ‘cửa chuồng’(danh từ tù viên đặt để chỉ nhà tù bằng tre nứa hai tầng giường giống chiếc chuồng gà khổng lồ) đóng lại, chúng tôi tụ tập  từng nhóm. Người nhắc lại những kỷ niệm vui buồn về Xuân, vài anh ca nhè nhẹ những khúc nhạc Xuân quen thuộc. Nhóm Công giáo quây quần quanh vị Tuyên trẻ tĩnh tâm ít phút trước khi dự Thánh lễ giao thừa âm thầm khó nghèo thật cảm động.   
                    Khi tiếng cồng bằng trái bom vỡ vang  dội núi rừng, trại tù hoàn toàn im lìm đen tối, nhường lại cho những âm thanh huyền bí núi rừng.Tiếng cựa mình của những bạn tù không ngủ, còn thao thức với những suy tư dằn vặt về thân phận mình và đồng bạn trong đêm Xuân đầu tiên biệt xứ. Giá lạnh sương đêm dâng lên mỗi lúc một nhiều, cùng với cơn đói cồn cáo ruột gan bào mòn thân xác….
                    Sáng ngày mùng 1 Tết, không phải thức dậy 6 giờ như ngày thường và đuợc miễm vác đá.Vì cứ mỗi sáng vừa nhảy xuống giường, đã nghe tiếng còi réo gọi của những tên quản giáo, bắt mọi người  lao xuống suối vác một tảng đá chạy ngược lên đồi, xếp thành đống lớn chuẩn bị xây nhà tù biệt giam.Việc làm này không được miễn ngay cả những ngày mùa đông mưa phùn gíó bấc lạnh buốt da thịt,có lẽ cũng là tác dụng làm cho người tù tỉnh ngủ và quên lạnh. 
                    Mùng Một Tết được ngủ đến 8 giờ sáng, nhưng mọi người đã thức dậy. Không khí trong phòng xôn xao hơn ngày thường, tiếng chào gọi chúc nhau:’Chúc năm mới khỏe mạnh! Chúc sớm xum họp với gia đình!’ Tôi đi một vòng chúc các bạn tù. Riêng anh TĐB người bạn rất thân cùng Binh chủng LLĐB–mấy hôm nay bị tiêu chảy còn quá yếu vẫn nằm trên giuờng.Tôi tiến đến vỗ nhẹ lên người anh :”Chúc bạn sớm bình phục! Hãy cố gắng lên!’Anh khẽ gạt đầu rơm rớm nước mắt. Anh B và tôi đã cùng sống với nhau qua nhiều trại tù miền Bắc, cùng chia sẻ đắng cay tủi nhục để cố vượt qua mong có ngày trở về. Rồi tôi chuyển trại vào Nam và được phóng thích trước anh mấy tháng. Khi anh trở về chúng tôi vẫn liên lạc thường xuyên.Tôi sang Hoa kỳ định cư trước anh. Những ngày đầu vội vã bận rộn mưu sinh nơi quê nguời, tôi chưa kịp liên lạc cùng bạn bè nơi quê nhà, thì một hôm đọc báo qua lời Phân ưu mới biết anh đã vĩnh viễn ra đi. Ôi những năm tháng nghiệt ngã trong lao tù anh đã gượng sống mong ngày trở về, nhưng anh lại nằm xuống khi những ước vọng làm lại cuộc đời chưa thực hiện được….
                    Đúng 9 giờ cửa phòng giam mở, sắp hàng lên hội trường. Các đội lần lượt vào hội trường, trên tay mỗi người cầm một chiếc ghế tre để ngồi.Bọn cán bộ và vệ binh cũng có mặt đông đủ, quân phục gắn quân hàm (cấp bậc) và chúng không quên mang theo vũ khí. Một lát sau tên trại trưởng và cán bộ ‘khung’ bước vào sau tiếng hô nghiêm, mọi người đứng dậy.
                    Buổi  lễ bắt đầu bằng nghi thức chào cờ và suy tôn lãnh tụ.Tiếp theo tên chính trị viên đọc thư chúc Tết của Chủ tịch Nước gửi đồng bào. Một trại viên (tù binh) đại diện đọc thư chúc Tết cán bộ và toàn thể trại viên (bài được soạn sẵn theo ý của chính trị viên). Sau cùng tên trại trưởng mang quân hàm thiếu tá vuốt áo ngay ngắn đứng lên, cất cao giọng thuộc lòng như vẹt :
     “ Nhân danh thủ trưởng trại, đại diện Nhà nước, Đảng và cán bộ trại, tôi gửi lời chúc các anh trại viên một năm mới: học tập lao động tốt để sớm xum họp với gia đình. Nhà nước và Đảng luôn quan tâm đến các anh, đặc biệt năm nay lần đâu tiên các anh đuợc hưởng một cái Tết tại miền Bắc với 30 năm’ tiến mau, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã hội chủ nghĩa’. Miền Nam gọi, miền Bắc thưa. Suốt 20 năm chống Mỹ cứu nước, miền Bắc là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam từ hạt gạo bẻ đôi, hạt muối cắn làm hai để mới có như ngày hôm nay. Nam Bắc đã thống nhất, nhưng hậu quả của Mỹ-ngụy để lại còn nặng nề cần phải cải tạo để miền Nam theo chân miền Bắc đi lên. Các anh là những người lầm đường, đã tiếp tay phá hoại Đất nưóc.Tội các anh trước nhân dân rất lớn, nhiều như lá rừng nước biển, nhưng các anh nếu biết thành tâm hối cải, học tập lao động tốt sẽ được nhân dân và nhà nước khoan hồng để sớm trở thành người công dân tốt, hữu ích cho gia đình và Đất nước….”
               Gịong điệu này chúng tôi nghe đã quá chán không biết bao nhiêu lần mỗi khi lên lớp học chính trị. Chúng tôi tự hỏi: ”Không biết 30 năm xây dựng XHCN miền Bắc như thế nào, mà xe chở tù chạy suốt dọc đường qua các phố thị, làng mạc, chỉ thấy nhà cửa xiêu vẹo, ruộng vườn xác xơ. Hình ảnh hai phụ nữ gầy ốm xanh xao gồng người kéo cầy, cùng cụ già áo rách đẩy phía sau làm tôi không sao quên đuợc. Những nhà cũ kỹ từ thời Pháp còn sót lại lên mầu nâu xậm. Người đi bộ nhiều hơn xe đạp nơi các thành phố. Những ngôi nhà thờ, chùa chiền vắng tiếng chuông vì đã biến thành hợp tác xã nông nghiệp hay chăn nuôi. Nhưng chẳng thấy lúa gạo, trâu bò, gà vịt đâu cả, có lẽ đã chi viện cho miền Nam hết rồi.’Tiến mau, tiến mạnh, tiến vững chắc’ quá đến nỗi trẻ em không đuợc cắp sách đến trường, mùa đông ngồi trước căn nhà lá xiêu vẹo với chiếc áo rách mong manh, trông nhà cho cha mẹ đi lao động XHCN. Những cô gái  dâng cả tuổi xuân cho Bác và Đảng trong Nông trường tập thể. Bao thanh niên vượt Trường sơn vào Nam để chôn xác nơi khe núi rừng sâu.
            Mải suy tư tôi chẳng để ý tên thủ trưởng nói tiếp những gì cho tới khi mọi người lục tục ra khỏi hội trường, mặt trời đã gần đứng bóng. Đội nhà bếp thông báo anh em lãnh tiêu chuẩn ba ngày Tết. Mỗi ngừoi ba bánh chưng bằng lòng bàn tay, ba gói thuốc lá hay thuốc lào. Phần ăn trưa: một chén cơm (thực đơn cao cấp) vì ngày thường chỉ ăn khoai hay sắn, một chén thịt trâu hầm (tính luôn cả xương và da), một chén rau lang xào với ba miếng lòng bằng đốt ngón tay và nước chè tươi không giới hạn tiêu chuẩn.- Bữa ăn của một gia đình nghèo nhất tại miền Nam đón Xuân còn thịnh soạn hơn nhiều, nhưng đối với người tù đây là biến cố để đời.
             Tối mùng một là chương trình văn nghệ đặc biệt mừng Xuân do các tù viên’ tự biên tự diễn’. Mở đầu là hoạt cảnh Táo cải tạo du Xuân  do một tù viên đóng vai Táo quân hia mão chỉnh tề. Ông Táo mặt mày hí hửng, tay dắt xe đạp, vai mang cái đài (radio) và tay đeo chiếc đồng hồ hai cửa sổ ( những đồ này cán bộ vui vẻ cho mượn vui Xuân), lững thững bước ra, vạch ống tay áo xem giờ, vặn đài rú lên, cúi chào tứ phía, rồi cất cao giọng :”Tôi là Táo cải tạo, trước khi về chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế trình tâu mọi việc của trại trong suốt năm qua. Xin chúc Quí cán bộ sống lâu trăm tuổi, quí anh em trại viên học tập lao động tốt mau về đoàn tụ với gia đình..”
              Đang thao thao, bỗng tiếng đài tít tít báo hiệu giờ điểm.Táo quân vội giơ đồng hồ lên xem hốt hoảng:”Chết rồi, đã đến giờ về chầu Ngọc Hoàng, ta phải’ khẩn trương’ không trễ mất, cũng may có cái xe đạp’tranh thủ’ cũng còn kịp.”Nói rồi dắt chiếc xe đạp chạy vào văng cả hia mão. Hội trường được dịp tha hồ vỗ tay cười la hét cổ vũ. Có vài anh còn hô to ‘Bis ! Bis !’. Bọn cán bộ cũng vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Nhưng chúng không ngờ màn hoạt cảnh vừa rồi anh em đã nghiên cứu trước và được cán bộ chính trị thông qua – với mục đích chế diễu phong trào “3 Đê của cán bộ miền Bắc khi mới vào Nam sau 30/4/75 – đều ao ước có một chiếc xe Đạp mới, vai mang cái Đài và tay đeo Đồng hồ hai cửa sổ.

                   Những màn trình diễn tiếp theo gồm đơn ca, hợp ca, có cả vũ quạt, múa nón do tù viên giả trai trông khá hấp dẫn. Cuối cùng là kịch vui ‘Xã Xệ, Lý Toét du
Xuân’gồm hai màn độc đáo. Xen kẽ còn có vọng cổ rất mùi…Buổi trình diễn kéo dài tới khuya mới chấm dứt.
                    Sáng mùng 2 lại được  dậy trễ, tiếp tục  các trò chơi như kéo giây, nhạy bị, cướp cờ, chơi cờ tướng…Giải thưởng là báo ảnh, thuốc lào, thuốc lá và bánh chưng.Tiêu chuẩn thực đơn giống ngày mùng 1. Nhân dịp vui Xuân cho phát biểu ý kiến, chúng tôi đề nghị được thay đổi thực đơn và tăng thêm khẩu phần cơm (vì chỉ một chén cơm ăn vẫn còn đói) đã được cán bộ trả lời :”Nơi miền rừng núi gạo rất hiếm, từ miền xuôi (đồng bằng) chuyển lên có định mức nhất định.Thịt heo, gà,vịt cũng thiếu, chỉ có thịt trâu do đồng bào thiểu số thông cảm chia bớt cho trại (thực tế đó là những con trâu già ốm không còn cầy bừa nổi nên thịt giai như cao su).Vì thế không thể thay đổi. Các anh chịu khó khắc phục đợi đến Xuân sau.
                     Tối mùng 2 xem chiếu phim. Nhờ công lao vất vả của đội trực phải lặn lội trên 10 cây số, gồng gánh khiêng vác máy và phim, vượt đồi lội suối mượn từ huyện về, gồm 3 bộ phim ‘đặc sắc’ là “Chiến thắng Điện biên – Giải phóng miền Nam và bác Hồ với thiếu nhi”.
                 Trước khi chiếu, cán bộ văn hoá huyện có dịp đề cao tuyên truyền từng phim. Phim thì cũ rích, ráp nối nên hay đứt.Tiếng’ thuyết minh’ rời rạc khó nghe, hoà với tiếng máy rè rè suốt 4 tiếng đồng hồ đưa nhiều tù viên vào giấc mộng du Xuân, chỉ bừng tỉnh khi tiếng vỗ tay trổi lên sau mỗi cuốn phim chấm dứt.
                      Cuộc vui nào rồi cũng qua mau, nhất là những cuộc vui gượng ép trong chốn ngục tù lại càng qua mau hơn chẳng để lại chút gì vấn vương.
                      Tập tục dân tộc Việt nam là nghỉ ít nhất là 3 ngày Tết, có nhiều nơi tại miền Nam kéo dài cả tuần với những Lễ Hội tưng bừng. Trong tù bọn cán bộ nói cho nghỉ 3 ngày, nhưng đến ngày mùng 3 chúng bày trò truyền thống ‘trồng cây nhớ ơn Bác’. Chỉ tiêu mỗi người 100 hốc sắn đào trên đồi đá khô cứng. Những tên cán bộ vờ vĩnh tham gia công tác, nhưng ở khu đất mềm trước ban chỉ huy và mỗi tên lãnh bao nhiêu hốc ai mà biết được, chỉ thấy chừng 1 tiếng sau chúng đã phủi tay về trại. Còn bọn chúng tôi hì hục tới 5,6 giờ chiều mới xong.Về trại còn phải lo tổng vệ sinh để sáng mùng 4 tiếp rục đi lao động sản xuất cho đủ chỉ tiêu và kịp thời vụ.
                 Rửa tay chân xong về trại lãnh khẩu phần mùng 3 Tết gồm hai củ khoai lang và chén rau  luộc chấm muối thì trời đã tối. Đêm núi rừng xuống mau mang theo giá lạnh gió núi sương rừng tê buốt cả thân xác và tâm hồn.Từng người tù ngồi yên lặng trong bóng đêm, chậm chạp nhai từng miếng khoai như những con trâu già nhai lại. Chúng tôi đang nghĩ về thân phận mình và đặc biệt các bạn tù bị biệt giam nơi hốc đá phía sau đồi- về cuộc vui giả tạo vừa qua, về một chế độ coi con người thua thú vật.Tiếng từ điếu thuốc lào rít lên của người bạn tù. Những đóm lửa lập loè ma quái của đầu điếu thuốc đang cháy dở, mùi thơm thoang thoảng bay theo gió rừng.
                        Bụng càng cồn cào khi ăn hết hai củ khoai và chén rau rừng, tôi định bóc chiếc bánh chưng thứ ba còn lại ăn nốt. Nhưng lại thôi vì chợt nghĩ đến ngày mai cần ‘bồi dưỡng’ cho một ngày lao động kiệt lực.Tôi giơ tay lên vuốt mặt, không ngờ nước mắt mình đã trào ra. Các bạn tù chắc cũng đang mang một tâm trạng như mình. Lúc mày tôi mới hiểu thấm thía câu “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”./.

                                                                           Đinh văn Tiến Hùng

                                     ( Trích Nhật ký trong ngục tù Cộng sản )


Thư Giáng Sinh trong ngục tù Cộng sản

Đinh Văn Tiến Hùng
(Viết cho con gái và các bạn cựu tù "cải tạo") 


Lời đầu cho Bạn:

Đối với chế độ Cộng sản Việt nam, quyền tự do tín ngưỡng bị hạn chế nhất trong các quyền tự do của con người. Riêng Công giáo VN được chúng lưu tâm đặc biệt qua các sự kiện nổi bật như Quỳnh Lưu, Ba Làng, Bùi Chu, Phát Diệm… tiếp đến cuộc di cư vĩ đại của gần triệu người Công giáo từ Bắc vào Nam năm 54. Rồi sau ngày 30.4.75 khi bọn Cộng sản xâm - chiếm miền Nam, trên hai triệu người lại bỏ nước ra đi với hai bàn tay trắng không sợ gian lao nguy hiểm để tìm tự do mà trong đó quyền tự do tín ngưỡng là ưu tiên .Sau đó liên tiếp những vụ đàn áp tín đồ, cưỡng chiếm nơi thờ phượng, đất đai… như Thái hà - Toà Khâm sứ - Tam Toà, dòng Phaolô Vĩnh Long, trường học xứ Loan Lý, giật sập Thánh Giá Đồng Chiêm và gần đây nhất vụ trấn áp dã man Cồn Dầu khiến nhiều ngừời bị thương tật, gây ra cái chết thảm khốc cho anh Nguyễn thành Nam, đến nỗi một số giáo dân quá khiếm sợ phải trốn qua Thái Lan xin tị nạn ,đã gây xúc động, phản đối tại Quốc Hội Hoa kỳ và các tổ chức nhân quyền trên thế giới. Thế mà bọn cầm quyền CSVN vẫn làm ngơ và tiếp tục dùng mọi thủ đoạn gian manh đàn áp: tuyên truyền,hứa hẹn,dọa nạt, hơi cay,dùi cui,roi điện,chó săn,du đãng... Nhưng bạo lực không thể trấn át được ánh sáng Tin yêu và tiếng kinh Hoà bình vẫn vang vọng khắp nơi trong và ngoài nước.

Sau khi chiếm miền Nam,Cộng sản ra lệnh tập trung cải tạo, nhưng thực chất chỉ là giam tù không tuyên án – tất cả các sĩ quan QLVNCH – mà thành phần chúng theo dõi kỹ hơn là các vị Tuyên uý và sĩ quan Công giáo.Trong thời gian chúng tôi bị giam giữ ngoài Bắc, bọn cán bộ hay gọi các Linh mục và sĩ quan Công giáo lên tra hỏi, hạch sách về lý lịch, cấm không được truyền đạo, trao đổi sách báo Công giáo. Tuy nhiên dưới sự hướng dẫn của các Linh mục chúng tôi vẫn trao cho nhau đọc Thánh kinh, Kinh nguyện chép tay.. Những buổi tối cầu nguyện vào ngày Chúa nhật và Lễ Trọng anh em vẫn tổ chức. Qua những dòng nhật ký ghi lại trong tù vào đêm trước Giáng sinh năm 76 nơi trại tù Sơn la giáp biên giới Bắc việt và Trung quốc- dưới hình thức ‘Những lá thư viết cho Con gái đầu lòng không bao giờ gửi đi -’.Nhưng giờ đây sau 20 năm đặt chân lên đất Hoa kỳ tự do,tôi xin trao lại cho Con gái và các Bạn như một kỷ niệm khó quên nhân dịp lễ Giáng sinh.

“……Sơn La, tối 24 tháng 12 năm 1976

Ba viết cho con những dòng này giữa thung lũng Sơn la chung quanh núi rừng bao phủ.Trại giam là một khu nhà đổ nát bỏ hoang vì bom đạn chiến tranh.Khoảng 4 giờ chiều là mây mù giăng phủ bốn bề.Tiếng cồng gọi tù là một mảnh bom vang dội nghe âm u buồn thảm.Những người tù quần áo rách nát có đóng số tù trước ngực và sau lưng,thân hình gầy ôm,tiều tụy,vác trên vai những bó tre nứa nặng trĩu,cắm cúi mau bước về trại tập trung.


Sau bữa ăn chiều với vài củ khoai chấm muối là mặt trời đã khuất sau núi. Màn đêm xuống mau mang theo giá lạnh cùng với tiếng côn trùng và muông thú vang vọng gần xa. Các bạn tù đã gom được ít củi và lá khô đốt lên ngồi quanh sưởi ấm. Ba đã viết những dòng chữ xiêu vẹo này dưới ánh lửa chập chờn. Viết mà không bao giờ gửi đi – vì không được phép gửi hay nếu có gửi tới nơi con vẫn chưa biết đọc khi con mới tròn 16 tháng tuổi. Nhưng ba cứ viết để khi buồn đem ra đọc và biết đâu một mai khôn lớn con sẽ đọc. Mỗi đêm ba chỉ viết chừng nửa trang xen kẽ vào những bài học giáo điều mà bọn CS bắt ba học.
Đêm nay ba muốn viết nhiều hơn vì là đêm trọng đại: đêm Noel cả thế giới đang tưng bừng chào đón. Nơi đây làm gì có Thánh lễ, có ăn Reveillon, có Thánh ca… phải không con?. Thế mà có tất cả đấy con ạ! Chắc con lấy làm lạ tưởng rằng bọn CS đã biết tôn trọng tự do tín ngưỡng trong cả nhà tù hay là trò khoe khoang cho cuộc sống ưu việt nơi miền Bắc sau 30 năm tiến lên Xã hội chủ nghĩa?.Không phải thế đâu con, vì ba đã đi qua bao giáo đường đổ nát dùng làm hợp tác xã chăn nuôi. Ba đã từng thấy những tên cán bộ gốc Công giáo nay đã bỏ đạo, cấm các Linh mục tuyên uý không được làm lễ và giải tội cho tù nhân. Chúng còn nói hàm hồ với các Linh mục là Đảng và Nhà nước chưa tha tội cho các anh nên các anh không có quyền tha tội cho ai cả. Nhưng đêm nay trong cảnh ngục tù giữa núi rừng hoang lạnh Chúa sắp đặt tất cả, Chúa thấu suốt những khát vọng nội tâm và không bỏ rơi những kẻ theo Ngài.Chỉ với 2 chiếc bánh và 5 con cá, Chúa đã nuôi năm ngàn người ăn uống no nê thì vỏn vẹn chưa đầy 20 người tù Chúa sẻ lo cho tất cả.

Chiều hôm trước Cha Tuyên úy nhắc nhở anh em dọn mình chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Về nội tâm một số đã xưng tội trong rừng khi đi lao động, số còn lại xưng trong tù trước giờ Thánh lễ. Về hình thức bên ngoài, anh em gom nhặt được trên đường đi lao động: vài con cá,tôm tép,lươn ếch… để nấu một nồi cháo khoai thập cẩm vì không có gạo – gạo ở đây là thực phẩm cao cấp chỉ giành cho cán bộ - còn những người tù như ba quanh năm chỉ có 6 tháng khoai lang và 6 tháng khoai mì do chính mình đổ mồ hôi khai phá bạt ngàn trồng trọt nhưng ăn không đủ no với tiêu chuẩn hàng ngày 500 gam. Ôi! Lúc này ba thèm một nồi cháo như người con phung phá trong Phúc âm thèm một nồi cám heo…Có anh hái được ít lá chè trên một ngọn đồi bỏ hoang nấu những lon nước chè đặc thơm ngát hương vị núi rừng.

Trước giờ lễ cha Tuyên uý nói về ý nghĩa lễ Giáng sinh,s au đó anh em hát bài Thánh ca quốc tế ’Đêm thánh vô cùng’. Thánh lễ trang nghiêm thầm lặng nhưng đầy xúc động. Mình Thánh Chúa đựng trong một hộp nhựa đặt trên chiếc mền phủ khăn trắng. Linh mục trao cho mọi người hôn kính và chia sẻ rước Chúa vào tâm hồn. (Mình Thánh là phần bánh bột, vị Tuyên uý được anh em nhà bếp cung cấp trước). Kết thúc buổi lễ là ca khúc ’Đêm đông’ quen thuộc, càng cảm động khi một số anh em ngoài Công giáo cùng tham dự tiệc mừng. Có anh tình nguyện ngồi xa làm vọng gác tiền đồn để kịp báo động khi cán bộ xuất hiện. Vừa ăn cháo khoai vừa chuyền nhau ngụm nước chè nóng và nhắc nhớ những Kỷ niệm về lễ Giáng sinh. Mọi việc hoàn tất tốt đẹp trước khi tiếng cồng vang lên báo hiệu tắt đèn lúc 8 giờ tối.

Trở về chỗ ngủ, cứ hai người chung nhau 1 chiếc chiếu và mùng cá nhân vì chỗ nằm mỗi người chỉ bằng 3 viên gạch. Nhà không có mái che, sương đêm xuống lạnh buốt phải chăng poncho hay tấm vải nhựa phía trên cho đỡ giá lạnh. Như các bạn giờ này ba chưa ngủ được, nhìn lên bầu trời đêm những vì sao lấp lánh qua đám lá cây rừng ba tìm vì sao sáng nhất của Chúa Hài Đồng và vì sao mờ nhạt của đời mình – vì nếu khoa chiêm tinh ứng với số mệnh của mỗi người thì ắt hẳn trong muôn ức triệu tinh cầu sẽ mang tính mệnh của mỗi con người.

Ba hồi tưởng lại những kỷ niệm Noel đã qua tại vùng cao nguyên Kontum, những tháng ngày thử lửa đầu đời lính. Sau đêm tử chiến ba khiêng xác đồng đội cuộn tròn trong poncho lên trực thăng chuyển về hậu tuyến đúng vào đêm Giáng sinh khi khúc nhạc Silent Night do máy bay phóng thanh vang vang trên thành phố. Pleiku mùa Giáng sinh xứ lạnh sương mù, thành phố im lìm ngủ say trỗi dậy theo tiếng Sứ thần tìm đến hang đá Be-lem đón mừng Chúa Giáng trần. Đà-lạt thành phố du lịch miền Nam cao điểm nhất vẫn là mùa Noel, mọi nơi du khách đổ về đón nhận những ngày lạnh nhất, tưng bừng nhất và cảm động nhất. Những nơi như nhà thờ Con gà, Saint Domaine de Marie, Couvent de Oiseaux, Viện Đại học, Trường Võ bị, Chiến tranh chính trị, Chỉ huy tham mưu… đều mở cửa đón du khách với những lễ hội tưng bừng. Ba và mẹ con những ngày ấy, cứ mong ước con sớm chào đời để cùng hưởng những phút giây êm đềm. Ba nghĩ đến mẹ con và con chắc giờ này đang sửa soạn đi dự Thánh lễ Nửa đêm, nhưng lại thiếu ba buồn quá con nhỉ? Ba hẹn con một mùa Giáng sinh nào để dẫn con tới Thánh đường, quì bên hang đá cầu xin Chúa cho mọi người trong gia đình mình mãi sống bên nhau. Đêm nay con nhớ cầu nguyện cho ba, cho các bạn của ba, cho Đất nước mình hết hận thù nhau, cho Dân tộc mình hạnh phúc. Đúng như lời vị Tuyên úy: ’Chỉ sống trong hoàn cảnh này ta mới hiểu sâu xa tình thương yêu của Chúa sinh xuống khó hèn vì nhân loại trong hang đá Be-lem’.

Tiếng ca nho nhỏ khúc hát Giáng sinh của người bạn tù còn thao thức làm ba bừng tỉnh quay về thực tại cuộc sống tù đầy cực khổ nơi đây. Tiếng côn trùng vẫn hòa ca,tiếng thú rừng vẫn vang vọng xa xa. Một dòng suối len trong khe đá chảy róc rách gây cho ba cảm giác cô đơn và buốt lạnh. Ba kéo chiếc mền rách nằm sát bên bạn tù chuyền cho nhau hơi ấm như chiên bò thở hơi ấm cho Chúa khi xưa… Cứ miên man trong suy tư và ba thiếp đi trong vùng trời Noel đầy mộng mị…”

(Trích những dòng Nhật ký trong tù CS )

Lời cuối cho Con:

Thấm thoát đã 34 năm kể từ Giáng sinh trong ngục tù Cộng sản năm nào, giờ vẫn còn là những kỷ niệm đau buồn khó quên. Nhưng có một điều an ủi cho con và gia đình ta đã đến được vùng trời tự do, thoát khỏi kiếp sống đọa đầy với những đêm Noel buồn thảm. Ngày ba còn thơ dại, khi nhìn vào những tấm thiệp Giáng sinh hay đọc truyện Noel nước ngoài, ba thường mơ tưởng đến những giáo đường cao vút vươn lên trong bầu trời đầy sao, tuyết phủ trắng xóa trên những cây thông như mũi tên khổng lồ. Ông già Noel râu tóc bạc phơ lái xe chở đầy quà tặng cho các trẻ em do những chú hươu sừng cong lao đi vun vút trong đêm từ miền Bắc cực. Khi ba đặt chân lên miền đất hứa này, ba không còn những rạo rực của tuổi trẻ trứớc cuộc sống tràn đầy sức sống, không còn những năm tháng dài chờ đợi đầy hoa mộng. Nhưng con giờ đã trưởng thành, hấp thụ được vốn kiến thức đủ bảo đảm cho cuộc sống tương lai tốt đẹp.

Nước Mỹ tuy không phải là thiên đàng hạ giới, nhưng vẫn là vùng trời tự do,đất hứa của tuổi trẻ, mảnh đất luôn sẵn sàng đón nhận và bao dung cho những con người chốn chạy khỏi một chế độ tàn ác vô nhân đạo.

Mùa Giáng sinh là mùa An bình Hạnh phúc mà con người luôn khao khát chờ trông. Ba xin mượn lời Thiên sứ năm xưa chúc nguyện cho Con và gia đình mình cùng mọi người trong đêm Đại Thánh này:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người chính tâm!

Đinh Văn Tiến Hùng

0 comments:

Powered By Blogger