WESTMINSTER - Trong
buổi Tưởng Niệm Quân, Dân, Cán, Chính VNCH đã tử thương trên Liên Tỉnh
Lộ 7 B, tổ chức tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt – Mỹ ở Westminster hôm thứ
Sáu tuần qua (Viễn Đông đã tường thuật trong số báo ra ngày thứ Hai, 23
tháng Ba, 2015), có một vị khách đặc biệt từ nơi xa về tham dự. Qua sự
giới thiệu của nhà văn Phạm Tín An Ninh từ Na Uy, chúng tôi đã tiếp xúc
với một người phụ nữ Việt Nam đầu tiên mang cấp bậc Trung Tá trong Quân
Lực Hoa Kỳ, và sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
Cựu Trung Tá Phạm Phan Lang của quân đội Mỹ tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ. (Thanh Phong/Viễn Đông)
Viễn
Đông: Trước hết, xin bà vui lòng cho độc giả Viễn Đông biết, trước khi
sang định cư tại Hoa Kỳ bà ở đâu tại Việt Nam, và có tham gia trong Quân
Lực VNCH không?
Bà Phạm Phan Lang: Tôi ở Saigon và qua Mỹ năm 1975, trước đó tôi không ở trong quân đội VNCH hay làm việc trong các cơ quan chính phủ. Nhưng phu quân của tôi là Hải Quân Thiếu Tá Phan Văn Diên Khóa 14 HQ (đã quá cố).
Viễn Đông: Bà gia nhập quân lực Hoa Kỳ trong trường hợp nào và tại sao bà tham gia vào quân đội?
Bà Phạm Phan Lang: Thưa anh, có thể tôi không phải là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên tham gia vào Quân Lực Hoa Kỳ, nhưng tôi là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên lên cấp bậc Trung Tá trong Quân Lực Mỹ. Lúc qua Hoa Kỳ tôi mất hết bằng cấp tại Saigon thành thử tôi phải đi học lại. Khi tôi ra trường tôi cần một cái bằng bác sĩ nội khoa và trong quân đội Mỹ lúc bấy giờ họ cần người có cái bằng đó. Điều kiện cũng hơi khó khăn nhưng tôi may mắn được lọt vào. Tôi nghĩ mình chỉ ở trong quân đội ba năm nhưng không ngờ tôi ở tới 22 năm
VĐ: Lý do nào bà ở trong Quân Lực Mỹ tới 22 năm?
PPL: Sau khi phục vụ trong Quân Lực Hoa Kỳ ở ngành Quân Y Lục Quân, tôi thấy đây là một môi trường rất tốt để huấn luyện bản thân về nhiều phương diện, nhưng quan trọng hơn cả, tôi nghĩ mình có bổn phận đóng góp công sức, khả năng của mình cho đất nước đã cưu mang mình và đồng bào mình khi phải bỏ nước ra đi tìm tự do.
VĐ:
Là người phụ nữ, lại là phụ nữ Việt Nam với vóc dáng nhỏ con và vẫn
được cho là “chân yếu tay mềm,”bà tham gia QL Hoa Kỳ, lúc đầu bà có cảm
thấy khó khăn, trở ngại không?
PPL: Khó khăn thì cũng có nhưng thứ nhứt là vấn đề người ta luôn cho rằng phái nữ thua kém phái nam, nên tôi phải chứng tỏ mình có khả năng về lãnh đạo và nghề nghiệp, ngay cả phần hành tôi làm chief cũng vậy, và ngày cả những vị Tướng, Tá mà tôi làm việc chung với họ, tôi luôn luôn phải chứng tỏ mình là người phụ nữ Việt Nam có bản lĩnh, có khả năng. Chính điều này khiến tôi được họ nể trọng.
VĐ: Bà giải ngũ năm nào và lý do giải ngũ?
PPL: Tôi giải ngũ năm 2002 lý do là mình phục vụ trong quân đội cũng với thời gian khá lâu, nay đã đến lúc mình cần dành thời giờ cho gia đình và tôi xin giải ngũ...
VĐ: Sau khi giải ngũ, bà về cư ngụ tại đâu và làm việc gì?
PPL: Sau khi giải ngũ, tôi không làm gì nữa và hiện nay chúng tôi đang sống tại Hawaii, chỉ giúp được con cháu về vấn đề học hỏi, nghiên cứu.
VĐ: Trước khi kết thúc, xin bà cho các bạn trẻ VN đang sống tại hải ngoại một lời khuyên.
PPL: Theo tôi, quân đội Hoa Kỳ nói riêng và quân đội nói chung đã huấn luyện cho con người trở nên mạnh mẽ, can trường và đối với riêng tôi, quân đội đã làm cho tôi phát triển không những về lãnh vực nghề nghiệp mà còn về lãnh vực cá nhân nữa, thành thử ban đầu tôi nghĩ tôi không thể ở lâu trong quân đội như thế nhưng sau đó tôi nghĩ, nếu mình muốn thì mình có thể làm được, và tôi nghĩ các em trẻ sau này nếu gia nhập quân đội Mỹ, Theo tôi, ngoài việc đền ơn quốc gia đã giúp mình, quân đội còn giúp mình có cơ hội trở thành người tốt trong xã hội và phát huy sáng kiến, khả năng của mình sau này.
VĐ: Xin cám ơn những lời chia sẻ của bà.
PPL: Xin cho tôi gửi lời thăm hỏi và cám ơn đến Ban Giám Đốc và tất cả các anh chị trong tòa soạn nhật báo Viễn Đông.
Trung Tá Lục Quân Phạm Phan Lang
Phạm Tín An Ninh
Người
Việt hải ngoại, có lẽ ít ai được biết: Người đàn bà Mỹ gốc Việt mang
cấp bậc Trung Tá đầu tiên của Quân Lực Hoa Kỳ, là phu nhân của một cựu
Thiếu Tá Hải Quân VNCH, di tản sang Mỹ cùng chồng và ba đứa con vào
những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam: Trung Tá Lục Quân Phạm
Phan Lang (đã nhận thông báo sẽ thăng cấp Đại Tá, trước khi xin về hưu).
Phạm
Phan Lang sinh ra và cả một thời tuổi thơ sống cùng gia đình ở Nha
Trang, theo học tại trường Nữ Trung Học Võ Tánh. Nha Trang là thành phố
biển thơ mộng, nơi có hai quân trường nổi tiếng: Trung Tâm Huấn Luyện
Không Quân và Hải Quân, với những chàng trai hào hoa theo nghiệp kiếm
cung, chọn cuộc đời bay bổng và hải hành. Trái tim cuả những chàng trai
này đã một thời bị khốn khổ bởi bao nhiêu người đẹp của Nha Trang. Thời
ấy, dường như những cặp tình nhân SVSQ Hải Quân và Nữ Sinh Trung Học Nha
Trang là những đôi tình nhân làm đẹp phố phường nhất. Trong số đó có
đôi uyên ương Phạm văn Diên và Phan Thị Lang. Ngày ấy Lang là một cô bé
khá xinh, tính tình hiền dịu dễ thương, nên mới học Đệ lục là đã làm mê
mệt chàng SVSQ họ Phạm. Cuộc tình kéo dài mãi đến khi Lang đậu xong tú
tài 2 (năm1969) hai người mới làm đám cưới.
Anh
Phạm văn Diên tốt nghiệp khóa 14 HQ (Đệ Nhị Kim Ngưu), trước ngày
30/4/75, mang cấp bậc Thiếu Tá và chỉ huy một chiến hạm PGM615 (loại
nhỏ).
Vào
nửa đêm 29.4.75, Thiếu Tá Diên đưa chiến hạm rời khỏi Việt Nam, mang
theo vợ, 3 đứa con nhỏ, 1, 3 và 5 tuổi, cùng cha mẹ già trên tuổi 70 và
cậu em vợ, đang theo học đại học Luật Khoa Sài Gòn. Ngoài gia đình, trên
tàu còn có thủy thủ đoàn và khoảng hơn 150 người tị nạn khác. Chiến hạm
của Thiếu Tá Diên vừa tham dự các cuộc hành quân tàn khốc cuối cùng tại
Huế, Quảng Trị,Vùng I, chưa kịp sửa chữa, bảo trì, nên lúc ra khơi bị
hư hỏng và nước tràn vào, nhưng may mắn đã được cứu bởi một tàu HQ khác
mà Thiếu Tá Diên đã liên lạc được. Cũng trên chuyến đi này, gia đình bị
mất hết tư trang, vàng bạc mang theo, nên lúc lên bờ chỉ còn hai bàn tay
trắng.
Cũng
như nhiều gia đình khác, thời gian đầu đến Mỹ rất vất vả, vợ chồng
Thiếu Tá Diên phải làm đủ nghề để sống: thợ mộc, thợ hồ, rửa bát đĩa cho
nhà hàng, tiệm ăn, dạy Anh ngữ cho trẻ em Việt Nam ở một trường Tiểu
Học, nhổ cỏ trong những cánh đồng cà, hái trái cây, trông nom một trại
gà với hơn 60.000 con. Với tính kiên nhẫn và nghị lực, cả hai vợ chồng
và cậu em vừa làm vừa theo học chương trình đại học tại University of
Maryland, Eastern Shore.
Đường Vào Binh Nghiệp
Năm
1980, chị Phạm Phan Lang đậu được cùng lúc hai bằng Cử nhân, trong đó
có bằng Nutrition and Dietetics (Dinh Dưỡng Học). Muốn làm việc trong
ngành này, cần phải qua một khóa Thực Tập Dinh Dưỡng (Dietetic
Internship). Chị Phạm Phan Lang đã nộp đơn xin thực tập ở một số trường
đại học, trong đó có cả Chương Trình Thực Tập Dinh Dưỡng của Lục Quân
Hoa Kỳ (US Army Dietetic Internship).
Lúc
bấy giờ, chương trình Thực Tập Dinh Dưỡng của Army đòi hỏi khá nhiều
điều kiện khó khăn: điểm trung bình tối thiểu là 3.5, phải là công dân
Hoa Kỳ, phải dưới 30 tuổi, phải có ít nhất là 3 lá thư giới thiệu, cùng
một số điều kiện khác. Trong số những điều kiện này, ít nhất có hai điều
chị Phạm Phan Lang không có, đó là quốc tịch Hoa Kỳ và đã trên tuổi 30.
Tuy nhiên, do trường hợp khá đặc biệt và có lẽ do thán phục nghị lực và
khả năng của một người đàn bà tị nạn, cuối cùng chị đã được chấp nhận
vào chương trình này. Đây là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt mà theo
chị, mãi đến sau này, vị Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng của Army Dietetic
Internship đã cho chị biết.
Mặc
dù lúc ấy, chị Phạm Phan Lang cũng được nhận vào thực tập ở một số
trường đại học khác, nhưng chị đã chọn Chương Trình Army này. Chị cho
biết, chị chọn Army không phải vì chị yêu đời lính, hay “muốn đi lính”,
mà chỉ vì những lý do rất đơn giản: chương trình thực tập rất tốt, nổi
tiếng, dễ dàng tìm việc làm sau khi rời quân đội, cả gia đình được hưởng
quyền lợi, và nhất là chỉ phải “đội mũ lính và mang lon” có 3 năm. Sau
đó, nếu muốn, có thể xin giải ngũ. Đã có hơn một trăm đơn xin vào chương
trình này, nhưng cuối cùng chị nằm trong số 10 người được chọn. Chị
khiêm nhường cho là may mắn, nhưng tất nhiên điều quyết định vẫn là do
khả năng, kết quả bao năm kiên nhẫn học hành của chị.
Chị
Phạm Phan Lang bắt đầu binh nghiệp bằng cấp bậc Thiếu Úy. Hai tháng đầu
tiên được thực tập quân sự tại quân trường Fort Sam Houston (FSH), San
Antonio, Texas. Vì là ngành Quân Y, nên những thực tập quân sự rất nhẹ
so với những binh chủng khác. Tuy nhiên, chị cũng phải tập bắn các loại
súng, trèo đồi, lội suối, tập trận, hành quân, đọc bản đồ, sử dụng địa
bàn một mình giữa rừng sâu.
Sau
một năm thực tập Dinh Dưỡng tại Brooks Army Medical Center (BAMC), FSH,
San Antonio, TX, chị tốt ngiệp, được thăng cấp Trung Úy và nhận nhiệm
sở đầu tiên tại Moncrief Army Medical Activity, Fort Jackson, Columbia,
SC. Và cũng tại đây một biến cố lớn đã xảy ra mang đến điều bất hạnh lớn
lao nhất cho cuộc đời của chị sau này...Columbia là thủ phủ của Tiểu
Bang South Carolina, có khoảng 300-400 người Việt định cư lúc bấy giờ.
Thời ấy người Việt sống rải rác trong thành phố Columbia và các thành
phố phụ cận như Greenville, Charleston, Myrtle Beach, Charlotte,
Atlanta... Mọi người đều cố gắng làm việc để hội nhập và thích nghi với
đời sống mới, nên chẳng ai quen biết, tiếp xúc nhiều với ai. Vợ chồng
anh chị Phạm văn Diên & Phạm Phan Lang đã cùng một số thân hữu tích
cực vận động thành lập Hội Ái Hữu Người Việt đầu tiên ở Columbia, mở
trường dạy Việt Ngữ, tổ chức những ngày lễ hội truyền thống như Giỗ Tổ
Hùng Vương, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán v.v.., gây quỹ cứu trợ thuyền
nhân, tranh đấu cho nhân quyền, tự do ở Việt Nam. Cựu Thiếu Tá Diên hoạt
động rất hăng say (chị Phạm Phan Lang chỉ hỗ trợ tích cực sau lưng, vì
Quân Đội Hoa Kỳ không cho phép quân nhân tham gia vào bất cứ hoạt động
chính trị nào). Phu quân của chị, anh Diên, đi khắp các thành phố lân
cận, giao kết bằng hữu, giúp thành lập các Hội Ái Hữu địa phương, nêu
cao tinh thần chống Cộng…
Biến Cố Lớn Trong Đời
Hôm
đó là ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ, July 4, 1985. Lúc này chị Phạm Phan Lang
đang ở trong Quân Đội Hoa Kỳ được gần 5 năm và mang cấp bậc Đại Úy. Khi
nhận được Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển về lại BAMC, FSH, TX, chị dự định đây
sẽ là nhiệm sở cuối cùng của chị. Sau khi chấm dứt quân vụ ở nhiệm sở
này, chị sẽ xin giải ngũ. Mấy ngày trước Lễ July 4, gia đình anh chị rất
bận rộn tham dự tiệc tùng do các bạn hữu ở Columbia và các thành phố
lân cận tổ chức tiễn đưa, hơn nữa chị đang trong thời kỳ học thi tốt
ngiệp Thạc sĩ (Master Degree), nên chị khá mệt mỏi. Nhưng vì nể lời mời
của một người bạn, cựu Trung Tá HQ ở Charleston, SC, vợ chồng anh chị
nhận lời tham dự một buổi tiệc picnic ở bờ biển Foley Beach, SC. Chỗ này
cách Columbia, nơi gia đình anh chị ở, khoảng 3 giờ đồng hồ lái xe.
Cùng với gia đình anh chị 5 người, còn có 4 gia đình khác. Tổng cộng có 5
cặp vợ chồng và 13 đứa trẻ con, tuổi từ 9-15. Lúc ấy trời còn sớm,
khoảng 8 giờ sáng, trên biển không một bóng người, ngoại trừ họ. Và tại
nơi đây tại nạn đã xảy ra.
Mười
ba đứa trẻ con vừa thấy biển đã nao nức chạy ùa ra bơi lội. Nước bên bờ
biển lúc ấy mới cao bằng đầu gối. Các ông bố cũng vội vàng theo mấy đứa
nhỏ, vừa để trông chừng vừa sửa soạn mắc mồi câu cua. Đàn bà thì lê mê
khiêng thức ăn, nước uống từ trên xe xuống. Bỗng có tiếng kêu cấp cứu từ
biển vọng vào, chị hoảng hốt nhìn ra, thì hỡi ôi, 13 đứa trẻ đã bị sóng
ngầm (undertow) cuốn ra xa, và mấy ông bố đang vội vàng bơi ra để cứu
con. Chị Lang không biết bơi, nên vội vã chạy ngược vào bờ một quãng khá
dài, kêu cứu. Nhưng trời còn sớm quá, và khu này vì nổi tiếng nguy hiểm
sóng ngầm (sau này mọi người mới biết) nên chẳng có ai ra biển. Kêu cứu
một lúc không được, chị vội chạy trở lại biển. Lúc ấy một vài đứa trẻ
lớn tuổi hơn đã bơi vào hoặc được mấy ông bố đưa vào bờ. Đang lúc dáo
dác tìm kiếm mấy đứa con, chị thấy một người đàn bà Mỹ, không biết ra
biển lúc nào, đang hì hục kéo anh Diên, chồng chị, lên bờ. Hai mắt anh
nhắm chặt, mặt tái nhợt, môi tím ngắt và dường như không còn thở nữa. Dù
kinh hoàng, đớn đau và sợ hãi, nhưng với những kinh nghiệm và bình tĩnh
của một người lính, chị đã cố gắng làm hô hấp nhân tạo cho anh, được
một người bạn bác sĩ trong nhóm phụ giúp, nhưng phu quân của chị vẫn
không hồi tỉnh. Khi đưa vào bệnh viện Charlerston, vị bác sĩ cấp cứu,
sau khi khám và thử nghiệm EEG (electroencephalogram), đã buồn bã cho
chị biết: “Ông nhà đã bị chìm xuống biển
khá lâu, trên 10 phút, nên não bộ không còn làm việc nữa (irreversible
brain damage), xin chị đừng nuôi hy vọng”.
Một
tháng sau, anh Diên đã trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viên quân sự nơi
chị làm việc ở Fort Jackson, SC. Anh ra đi để cho đứa con gái út, lúc
ấy 11 tuổi, và hai đứa bé nữa, 9 và 12 tuổi, được sống. Nếu chỉ muốn cứu
một mình đứa con gái của mình, anh đã có thể làm được, nhưng anh không
nỡ lòng bỏ cả bốn đứa bé đang cố bám víu vào nhau để khỏi bị sóng đánh
trôi đi. Anh đã cố cầm cự đưa bốn đứa bé vào gần bờ, nhưng bị các em ôm
chặt lấy anh, vì uống nước quá nhiều và sợ hãi đến cùng cực, không chịu
buông tay chân anh ra. Cuối cùng, không chống chọi được, anh từ từ chìm
xuống lòng biển trước đôi mắt đớn đau kinh hoàng của đứa con gái. Và vì
không còn chỗ để bám víu, nên một đứa bé gái khác, 11 tuổi, bị sóng biển
đánh dạt ra xa, mãi đến mấy tiếng đồng hồ sau mới tìm thấy xác.
Báo
chí đã ca tụng, mọi người đều ngậm ngùi ngưỡng mộ anh như một anh hùng.
Thượng Nghị Sĩ South Carolina lúc bấy giờ, ông Strom Thurmond, đã ban
bằng tưởng thưởng. Nhưng tất cả những thứ ấy đều vô nghĩa đối với chị
Lang, bởi chị đã mất vĩnh viễn người chồng yêu quí của chị, ba đứa con
trong tuổi dại khờ của chị đã không còn người cha thương yêu gương mẫu.
Không có điều gì có thể thay thế được.
Một khúc quanh trong binh nghiệp:
Chị
đã xin hủy bỏ Lệnh Thuyên Chuyển về Texas và xin ở lại Fort Jackson
thêm một năm nữa để có thể sớm hôm lui tới mộ chồng. Trong quân đội Hoa
Kỳ, kể cả ngành Quân Y, thông thường thì cứ mỗi 3 năm, một Sĩ Quan được
chuyển đến nhiệm sở mới. Chị được ở lại Fort Jackson đến 5 năm. Đây cũng
là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt khác. Chị cũng bỏ ý định giã từ
quân ngũ. Vì bây giờ, quân đội là nhà của chị, đã che chở và cưu mang
chị, cho chị phương tiện tài chánh để nuôi các con ăn học nên người.
Quân đội cũng đã rèn luyện chị trở thành một người có can đảm và nghị
lực hơn để chống chọi với bao nhiêu thử thách của cuộc đời mà chị vừa
mới trải qua cũng như đang chờ trước mặt.
Thời
gian thấm thoát trôi qua, chị đã phục vụ trong ngành Quân Y Lục Quân
Hoa Kỳ được 22 năm. Trong khoảng thời gian này chị đã thay đổi nhiệm sở 7
lần. Ngoài Fort Sam Houston, TX, và Fort Jackson, SC, chị đã đổi về các
bệnh viện ở Fort Gordon,GA; Fort Huachuca,AZ; Fort Ord,CA; Madigan Army
Medical Center, WA; Landstuhl Regional Medical Command, Germany; và
cuối cùng là Tripler Army Medical Center ở Hawaii. Tại đây, công việc
của chị là điều hành Phân Khoa Dinh Dưỡng (Director, Nutrition Care
Division) với trên 100 nhân viên dưới quyền, vừa sĩ quan, hạ sĩ quan và
dân sự. Ngoài ra, chị còn có nhiệm vụ Cố Vấn và Giám Sát những phần hành
Dinh Dưỡng trong các đơn vị Lục Quân trú đóng ở Thái Bình Dương, đặc
biệt là Nhật Bản và Nam Hàn ( Nutrition Consultant, Pacific Region). Và
cũng ở nhiệm sở này, năm 2002, chị Phạm Phan Lang nhận được Thông Báo sẽ
thăng cấp Đại Tá. Thông thường thời gian từ lúc nhận Thông Báo đến lúc
được thực sự “gắn lon” cho cấp bậc Đại tá trong ngành Quân Y là khoảng
từ 6 tháng đến 1 năm. Đến lúc ấy chị đã làm việc tại nhiệm sở Hawaii
được 3 năm, nên đã đến lúc phải thuyên chuyển đến một nhiệm sở mới, mà
chị biết sẽ là Hoa Thịnh Đốn.
Trung
tá Phạm Phan Lang không muốn phải về Hoa Thịnh Đốn, cũng chẳng muốn rời
khỏi Hawaii. Bởi ở Hawaii có cây xoài, cây mít, cây mảng cầu, khế, ổi,
nhãn lồng… Hawaii cũng có những hàng dừa xanh, biển ấm quanh năm và cư
dân rất hiền hòa, hiếu khách. Hawaii đã cho chị sống lại với những hình
ảnh yêu dấu của Nha Trang, nơi chôn nhau cắt rốn, cũng là nơi chị đã
gặp, yêu và làm vợ người lính biển lãng mạn nhưng can đảm hào hùng Phạm
văn Diên. Cuối cùng chị đã không chọn cấp bậc đại tá, mà chọn Hawaii với
biển ấm tình nồng, mang bóng dáng của miền quê hương thùy dương cát
trắng của chị..
Những Chuyện Bên Lề về Tuổi Thơ, Tình Yêu và Cuộc Đời
của Cô Nữ Sinh Trường Nữ Trung Học và Võ Tánh Nha Trang.
Phan
Thị Lang chào đời vào một buổi sáng mùa thu năm 1950 tại thành phố Nha
Trang. Cha mẹ và đặc biệt là bà nội rất đỗi vui mừng, vì đây là đứa con
gái đầu tiên của gia đình và cũng là đứa cháu gái đầu tiên của giòng tộc
họ Phan. Cha mẹ muốn đặt tên cho con gái mình là Linh Lan, tên một loài
hoa mà ông bà rất thích, nhưng bà nội không chịu, vì bà tin rằng, đặt
tên cho con gái bằng tên một loài hoa là không tốt, vì hoa sẽ “sớm nở
tối tàn”, cho nên bà nội bắt phải đổi tên Linh Lan thành Lang, để biến
nghĩa thành cũ khoai… lang. Như vậy đời cô cháu gái sẽ tốt hơn.
Cha
mẹ Lang sinh tất cả là 7 người con, nhưng mấy ông anh đầu đã mất đi
trong chiến tranh loạn lạc, sau cùng chỉ còn lại ba anh em, người anh là
Phan Ngọc Châu, cựu học sinh Võ Tánh (1B2/VT 63-64), rất chăm chỉ và
học giỏi, sau này vào trường Võ Khoa Thủ Đức và tử trận năm 1968 tại
Bình Dương. Anh Phan Ngọc Châu có một chuyện tình thật buồn với một
người đẹp ở trường Nữ Trung Học, quê cũng ở Vạn Giã, Hai người không lấy
nhau được do một trắc trở về chuyện họ hàng. Anh Châu sống những ngày u
buồn và khi chết đi đã mang theo mối u tình này xuống lòng huyệt mộ.
Người em trai, Phan Hà, sau khi học xong ở Võ Tánh, theo vợ chồng Lang
vào Sài gòn học luật, rồi cùng di tản sang Mỹ vào đêm 29.4.1975. Hiện Hà
đang sống ở Columbia, SC.
Ba
má Lang là người Vạn Giã. vào Nha Trang làm ăn sinh sống từ thuở thiếu
thời, nối nghiệp xây cất của ông nội, rồi làm nghề thầu khoán. Sau này
ông trở thành nhà thầu nổi tiếng ở Nha Trang, từng xây nhà cho các tướng
Đỗ Mậu, Tôn Thất Đính, và nhiều ngôi biệt thự sang trọng khác trên
đường Biệt Thự, Duy Tân.
Cô
bé Lang lớn lên trong sự cưng chiều của cả gia đình, nhất là bà nội,
nên cô bé rất “hư”, nhõng nhẽo và lười học.Trong nhà, cô bé chỉ sợ có
mỗi anh Châu, vì lúc nào anh ấy cũng trầm tĩnh, nghiêm nghị, ít nói và
rất chăm học. Cô bé thường cố tình lẫn tránh, vì hễ mỗi lần bắt gặp cô
em gái, là anh bắt phải học, một điều mà lúc còn ở tiểu học, cô bé thấy
như là một cực hình.
Vì
lười học, nên năm lớp Nhì ở trường tiểu học Sinh Trung, cô bé bị ở lại
lớp. Cả một năm ở lại lớp Nhì ấy, cô bé thật ê chề và xấu hổ. Vì hễ có
một đứa học trò nào lười biếng là cô giáo lại đem Lang ra làm ví dụ. Nhờ
vậy mà từ đó, Lang quyết tâm học cho giỏi. Mùa hè đến, Lang theo anh
Châu về quê nội ở Vạn Giã, để được ông anh dạy kèm cùng với mấy đứa con
ông chú, bà cô, đặc biệt các môn toán đố, hình học..
Sau
hè, trở lại trường, Lang được lên lớp Nhất. Và suốt cả năm lớp Nhất,
tháng nào Lang cũng được lãnh Bảng Danh Dự, và cuối năm khi thi vào lớp
Đệ Thất trường Nữ Trung Học, cô bé đậu hạng thứ 10 trong số rất đông thí
sinh ở Nha Trang và từ các nơi khác về dự thí. Lang vào Đệ Thất năm 12
tuổi. Lên Đệ Tam chọn Ban C. Năm 1968, Lang đỗ Tú Tài I hạng Bình Thứ.
Anh Châu từ chiến trường xa xôi, nghe tin, vội vã xin phép về thăm gia
đình và chúc mừng cô em gái. Không ngờ đó lại là lần cuối cùng hai anh
em nhìn thấy mặt nhau. Anh Châu đã tử trận đúng một tuần sau khi trở về
đơn vị. Năm Đệ Nhất C, Lang phải chuyển sang học bên trường Võ Tánh, vì
trường Nữ Trung Học không đủ lớp. Sau khi đậu Tú Tài II năm 1969, Lang
là người đầu tiên trong đám bạn bè cùng lớp “theo chồng bỏ cuộc chơi”.
Anh Châu, người anh duy nhất và rất thương mến Lang, không còn nữa để dự
đám cưới của em mình. Đó là sự mất mát và hụt hẫng to lớn của Lang
trong ngày bước theo chồng.
Lang
gặp anh Diên, Phạm văn Diên, lần đầu tiên vào ngày mồng 6 Tết Âm Lịch,
lúc Lang chỉ mới tròn 13 tuổi, đang học lớp Đệ Lục. Hôm đó là ngày Thứ
Bảy, nên phố xá đầy dẫy những anh chàng SVSQ Hải Quân và Không Quân.
Không hiểu sao lúc ấy Lang “không ưa” Hải Quân, nên khi bị hai anh chàng
HQ đi kèm hai bên Lang và một cô bạn, trong lúc dạo phố mua hàng, tán
tỉnh, Lang vừa sợ vừa mắc cỡ, vừa ghét nữa, nên không mở miệng nói một
lời. Anh Diên đi bên cạnh, biết Lang sợ và e thẹn, nên ôn tồn nhỏ nhẹ
gợi chuyện. Anh Diên nói tiếng Bắc, gọi Lang bằng “bé”. Theo Lang về gần
đến nhà cô bạn cùng đi, cũng là một tiệm ăn, Diên đã hỏi Lang: “Bé ơi,
đường nào ra biển, hở bé”. Nghe hỏi, Lang bỗng phì cười. Hải Quân mà hỏi
đường nào ra biển. Nào ai có biết, đó lại là câu nói định mệnh của đời
Diên sau này.
Kể
từ hôm ấy, cứ mỗi lần “đi bờ” là anh Diên đến ngồi ở quán của cô bạn,
chờ bé Lang đạp xe đi qua. Vì quán ăn nằm ngay góc đường đến nhà Lang.
Cứ như thế cho mãi đến năm 1965, anh Diên tốt nghiệp Khóa 14 HQ/ Đệ Nhị
Kim Ngưu. Một hôm, Diên ngỏ ý xin phép Lang được đến nhà thăm ba má và
ông anh, làm cô bé Lang hoảng sợ đến muốn khóc, lắc đầu lia lịa, vì nghĩ
tới sự nghiêm khắc của cha mẹ, đặc biệt là anh Châu của mình, nên bảo
là “Anh mà tới nhà, chắc thế nào Lang cũng bị đòn, không được đâu!” Nghe
nói thế, Diên chỉ âu yếm nhìn Lang mỉm cười và bảo là “bé đừng sợ”.
Cuối tuần sau, Diên đến nhà thật, gặp ba má và anh Châu của Lang. Và
chẳng biết làm thế nào mà Diên thuyết phục được ông anh khó tính của
Lang, để được “chính thức” tới thăm gia đình Lang.
Dù
vậy, Diên cũng chỉ dám tới nhà mỗi tháng một lần và cũng hiếm khi được
ngồi riêng để nói chuyện với Lang. Hôm trước ngày tốt nghiệp ra trường,
Diên đến thăm để từ giã gia đình Lang. Sau khi nói chuyện với ba má và
anh Châu, Diên xin phép được lên lầu để từ giã Lang. Lúc ấy cô bé đang
ngồi đan áo trên sân thượng, dưới giàn nho đầy quả chín. Lần đầu tiên,
Diên nắm lấy tay Lang, nhìn thật sâu vào mắt Lang, dịu dàng nói “Bé ơi,
anh rất yêu bé và muốn cưới bé làm vợ, nhưng bé hãy còn nhỏ quá, nên anh
phải đợi cho bé lớn lên. Ngày mai anh đi rồi, không biết bao giờ mới về
thăm bé được, nhưng anh sẽ viết cho Bé mỗi ngày một lá thư. Bé ráng đợi
anh nghe!”. Nói xong, Diên cúi xuống, nhẹ nhàng hôn lên đôi bàn tay run
rẩy và ướt đẫm nước mắt của Lang.
Và
chàng đã giữ đúng lời hứa, mỗi ngày một lá thư gởi về cho Lang đều đặn,
và chờ Lang lớn lên. Họ đã làm đám cưới vào mùa Thu 1969, sau khi Lang
đỗ Tú Tài II. Lúc ấy Lang vừa 19 và Diên đã 27 tuổi đời. Hành trang về
nhà chồng của Lang, ngoài một số áo quần, còn lại là một vali chứa đầy
những lá thư của Diên.
Hơn
mười năm, sau ngày cả nhà di tản sang Mỹ, anh Diên mất đi trong một tai
nạn bi thảm, để lại cho Lang ba đứa con dại tuổi chỉ từ 11 đến 15. Lang
đã chọn ở lại quân đội để có điều kiện lo lắng cho các con. Sau này cả
ba cháu đều thành đạt. Cô gái út, ngày rời Việt Nam vừa đúng 1 năm 1
tháng tuổi. Năm 11 tuổi tận mắt chứng kiến cái chết đau đớn của cha
mình. Sau này được vào Stanford University, một đại học nổi tiếng của
Hoa Kỳ, và được bầu làm Chủ Tịch Hội Sinh Viên Việt Nam của trường. Sau
khi đậu bằng Thạc sĩ ngành Kinh Tế/Phát Triển Điều Luật Quốc Tế
(Economics/International Policy Development) năm 1997, cháu lấy thêm
bằng Thạc Sĩ Quản Trị Thương Mại (Master of Business Administration) ở
University of California at Berkeley (Haas School of Business). Hiện nay
là Senior Product Marketing Manager của Google.
Năm
2002, sau khi chu toàn trách nhiệm của một người mẹ với các con, một sĩ
quan cao cấp đối với Quân Lực Hoa kỳ, đúng một ngày sau khi về hưu,
Phạm Phan Lang làm đám cưới với người chồng mới. Anh là môt người Mỹ,
lớn hơn Lang 7 tuổi. Là một người hiền lành, thật thà và độ lương. Trước
kia là một Sĩ Quan Không Quân trong Quân Lực Hoa Kỳ. Rời quân ngũ, anh
đi học lại và lấy bằng Ph.D rồi dạy tại trường University of Hawaii, và
sau này đã làm việc cho US Navy/Submarine, Pearl Harbor Hawaii trong hơn
30 năm với chức vụ Oceanographer/ Technical Director cho đến ngày về
hưu, cách đây hai năm.
Phạm
Phan Lang cùng chồng đang sống những ngày tháng êm đềm ở thành phố
Kaneohe trên hòn đảo Oahu / Hawaii thần tiên. Mỗi ngày, trong nắng ấm,
nhìn biển trời, nghe sóng biển rì rào, Lang da diết nhớ về Nha Trang, về
những ngày tuổi thơ cùng với gia đình, thầy bạn, và hồi tưởng về một
quá khứ với biết bao thăng trầm biến đổi của quê hương, của gia đình và
của cả một đời người.
(Ghi chú của người viết:
Khi liên lạc với Phạm Phan Lang để viết bài này, bất ngờ người viết
nhận ra Lang chính là cô em gái của Phan Ngọc Châu, người bạn thân cùng
quê Vạn Giã, cùng lớp ở trường Văn Hóa Nha Trang, trong những năm đầu
trung học. Cứ mỗi mùa hè, người viết lại gặp hai anh em, dắt díu nhau về
thăm quê nội. Khi ấy Lang mới chỉ học lớp Nhì, nhưng đã là một cô bé
rất thông minh và thật xinh xắn dễ thương).
Phạm Tín An Ninh
(viết theo lời tâm tình của Phạm Phan Lang)
0 comments:
Post a Comment