"Hãy giữ cho ba mẹ ba ngày giỗ lớn!"
Nàng
Tôn nữ xứ Huế có dáng vẻ quý phái sang trọng, khuôn mặt đẹp kín đáo
buồn buồn phảng phất nét đài các kiêu sa ấy sang định cư, sinh sống ở
Canada đã mấy chục năm rồi, nhưng vẫn chuyên cần đi chùa, và thờ cúng
ông bà rất nghiêm chỉnh. Hàng năm cô vẫn còn giữ được ba mùa cúng giỗ
lớn mà cô cho là thiêng liêng nhất, cả gia đình không ai được quên. Và
trước khi nhắm mắt, cô cũng nhiều lần yêu cầu, ghi di chúc lại bắt con
cháu trong nhà phải theo cô mà thực hiện, lúc còn sống cô cũng thường
dặn dò giảng giải...
Có
hai lễ cúng giỗ lớn mà nhiều người Huế cho đến nay vẫn còn lưu giữ và
thường xuyên thực hiện hàng năm, được lưu truyền qua nhiều đời người
Huế, ít nhiều ai cũng biết đó là Lễ cúng giỗ cô hồn và Lễ cúng giỗ Tết
Mậu Thân.
Cúng
Cô hồn ở Huế bắt đầu vào 23 tháng 5 Âm lịch, kéo dài đến 30/5 nhằm
tưởng niệm, cúng bái cầu nguyện chung cho linh hồn các Chiến sĩ trận
vong và dân thường đã chết trong ngày kinh đô thất thủ; khi vua Hàm Nghi
và Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường … mưu sự chống Pháp bất thành,
giặc Pháp phản công vào Thành Nội Huế gặp người Việt nào là giết người
đó; trong thành nội lúc đó còn có rất nhiều con cháu hoàng tộc cũng bị
chết oan, và trong số đó có nhiều người là tổ tiên thân thuộc dòng họ
của gia đình cô Tôn nữ… Và đó cũng chính là lý do vì sao mà sang đến Tây
rồi, nhưng cô Tôn nữ hàng năm vẫn thường xuyên duy trì cúng kiếng!
Cúng
giỗ Mậu Thân, cũng trùng hợp cho ngày Cố Đô thất thủ, thì được bắt đầu
từ mồng 3 tết và dân Huế thường nhang khói kéo dài hàng tháng sau Tết Âm
lịch hàng năm, kéo dài để cầu nguyện riêng cho từng người thân đã chết
được siêu độ, và cũng để cầu nguyện chung, để tưởng nhớ chung cho một
"giải khăn sô cho Huế". Dân Huế tùy nhà, cúng lễ ngoài hương hoa trái
cây bánh mứt còn có các phẩm vật chay, mặn…
Những
ngày đó, gần chục ngàn người dân Huế đã bị Việt cộng bắt đi và sát hại
sau khi chúng bị đánh bật ra khỏi Huế. Việt cộng nhẫn tâm giết hại họ
như một cách trả thù, trả thù bị quân đội VNCH dù bất ngờ bị VC vi phạm
thỏa ước đình chiến vẫn anh dũng chiến đấu đánh bại Việt cộng và tái
chiếm lại Huế, trả thù vì dân Huế đã không theo Việt cộng, không đồng
khởi vùng lên hưởng ứng lời kêu gọi của Việt cộng trong thời gian chúng
chiếm đóng Huế. Và Việt cộng giết chết họ cũng là để rút chạy cho nhanh,
để bảo tồn bí mật thương vong, cơ sở; đồng thời cũng là để khủng bố, đe
dọa người dân Huế không được làm việc, hợp tác với chính phủ VNCH trong
tương lai…
Hàng
chục ngàn người Huế là quân dân cán chính VNCH bị Việt cộng bắt đi rồi
giết chết này, trong đó có rất nhiều người chỉ là dân thường, là thầy
giáo, y bác sĩ… vô tội sau đó đã bị Việt cộng thủ tiêu; giết tập thể
bằng các hình thức vô cùng dã man như chôn sống, đập bể đầu, trói chùm
lại rồi thả trôi sông trôi suối… phi tang mất xác! Và dân Huế, ít có nhà
nào thoát được, nhà nào cũng có người thân hoặc bà con gần, xa chết oan
; có nhà còn có vài người thân cùng thương vong trong cái lễ tết đáng
nguyền rủa nầy. Cô Tôn nữ cũng vậy, cha và anh ruột cô đều bị Việt cộng
bắt đi rồi giết chết, cha cô là một giáo sư, sau này tìm được xác bị
chôn sống chung với nhiều người khác gần Lăng Tự Đức; còn anh cô là phi
công, bị thủ tiêu mất tăm mất tích, chết không tìm được xác!
Cũng
bởi vậy mà cho đến mãi tận sau này, ngày Tết năm nào nhà cô Tôn nữ cũng
không chỉ sắm hoa chơi Tết cho người sống, hoa kiểng chưng tết cho đẹp
nhà mà còn mua đầy hoa cúng dành cho cha cô và anh cô, những người đã bị
Việt cộng giết chết trong Tết Mậu Thân, và gần như suốt tháng Giêng,
nhà cô lúc nào cũng đều có hương khói, tưởng niệm, cúng vái… họ!
Còn
chuyện ngày 30 tháng 4, với nhiều người VN thì đó cũng là ngày mất nước
chung, nhưng với đa số Việt kiều thì 30 tháng 4 còn là tưởng niệm tháng
4 đen, tưởng niệm đến những người thân và quân dân cán chính đã hy sinh
trong giờ thứ 25 của cuộc chiến và cả sau đó, trên đường vượt thoát tìm
tự do… Nhưng riêng với gia đình cô Tôn nữ, thì đó còn chính là một ngày
cúng giỗ thật sự, là một phần cuộc đời của cô. Mà cô đã kể lại, ghi lại
trong những trang nhật ký nhạt nhòa vì nước mắt và sau nầy, phần nào
trong di chúc như dặn dò gởi gắm và cũng để giải thích vì sao cô lại
chọn ngày 30 tháng 4 làm ngày cúng giỗ …
Huế
thời cô Tôn nữ sống, trước 75, không còn có Vua nhưng vẫn là kinh đô
đạo đức phong kiến kiêu kỳ, đôi khi tàn nhẫn và cay nghiệt. Những ngày
đó, cô là cô gái Huế mới lớn thùy mỵ nết na đẹp kiêu sa nổi tiếng một
thời của trường Đồng Khánh. Năm 74, đang học Văn khoa, cô yêu chàng trai
hàng xóm cũng đang học năm cuối đại học. Hai bà mẹ nhà kế nhau vốn đã
kèn cựa sắc tài của nhau từ hồi son trẻ, thêm nữa một gia đình gốc gác
Hoàng tộc có truyền thống chống cộng còn một gia đình thuộc thành phần
thứ ba phản chiến, không “môn đăng hộ đối" nên hai người mẹ cùng hết sức
"hợp tác, đoàn kết" phá không cho cái đám cưới của đôi trẻ được hình
thành.
Dân
Huế nổi tiếng nặng hiếu mà cũng nặng tình, vừa đa tình lại vừa liều
mạng, dám chết vì tình nên… không biết họ tính toán sắp xếp thế nào mà
sau đó chàng trai bỏ nhà, bỏ trường đăng lính. Còn cô Tôn nữ cũng bỏ xứ
vào Nam, mang theo một mầm sống mới.
Một
năm sau, gần vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, trong sắc áo Thủy quân lục
chiến bảo vệ đèo Hải Vân cho dân quân Huế rút chạy về Nam, chàng sinh
viên trẻ ngày nào dính nguyên trái B40 bị thương nặng, bay mất đôi chân,
đồng đội tải thương cố đưa được về Huế nhưng không còn cứu được, một
thời gian sau, đúng ngay ngày 30 tháng 4 thì chàng mất... Và gần như
cùng lúc đó, rạng sáng 30 tháng 4-75, ở Saigon cô Tôn nữ cũng lên một
trong những chiếc máy bay trực thăng cuối cùng, bay ra biển, ôm theo đứa
con trai còn đỏ hỏn!
Gần
bốn mươi năm sau. Theo di chúc của cô Tôn nữ, một người đàn ông trí
thức rất đẹp trai, phong độ khuôn mặt đậm nét u buồn, nói tiếng Việt
không rành lắm tìm về đến Huế. Mang theo gia tài và tờ di chúc của mẹ.
Cái gia tài quá lớn cho tờ di chúc nhỏ. Di chúc căn dặn chàng trai giúp
sửa sang, xây lại nhà ở, nhà thờ họ cho cả hai gia đình, xây mồ mả cho
những người đã khuất. Rải tro tàn thân xác của một người lên mộ của một
người. Còn lại cúng dường vào một ngôi chùa mà hồi xưa cô Tôn nữ đã từng
vào đây quy y niệm Phật, rồi sau đó vào nguyện cầu, thề nguyền cùng với
chàng trai trẻ... Và sau hết, dặn lấy ngày 30 tháng 4 hàng năm, nhờ nhà
chùa làm ngày cúng giỗ, cầu nguyện chung cho vong linh của cô và chàng
trai trẻ!
Câu
chuyện trải dài theo lịch sử đau đớn của người dân xứ Huế nói chung, và
nói riêng về một cuộc tình của cô Tôn nữ với 40 năm dài đằng đẵng tuyệt
tích nuôi con, câm lặng chẳng sẻ chia được cùng ai trên xứ người đầy bi
thương. Và khao khát cuối cùng, ước nguyện cuối đời của một con người,
của cô Tôn nữ tuyệt vời một thời của xứ Huế ngày xưa, theo di chúc, gần
đây đã được cậu bé đỏ hỏn mà cô đã bế lên máy bay trong ngày 30 tháng 4
năm nào, quay về VN thực hiện. Anh đã rải chút nhúm tro tàn thân xác của
cô gái đẹp bạc phận ngày nào - mẹ anh, lên nấm mồ của người cha mà anh
chưa bao giờ biết mặt. Người mà cách đây hơn 40 năm, là chàng sinh viên
trẻ, đã quăng bỏ bút nghiêng để trở thành người lính trẻ đầy bất hạnh…
Đã
40 năm qua rồi, và bây giờ thì mọi sự bất hạnh đau thương nhất đối với
cô Tôn nữ và chàng trai trẻ ngày nào cũng đều đã được gió cuốn đi, nhưng
đối với con cháu họ thì vẫn còn đó những hoài niệm và nước mắt, vẫn còn
mãi những ngậm ngùi thương cảm mỗi khi nhớ đến họ, nhất là trong những
ngày 30 tháng 4 mà nhà họ luôn khói hương nghi ngút…
0 comments:
Post a Comment