Có
người bảo rằng, những đao phủ của nhà nước IS, của những nhóm khủng bố
quốc tế, xem ra còn e ngại chữ Công Lý và sợ bị lộ chân tướng nên lúc
nào cũng phải dấu mặt ở đằng sau tấm vải. Trong khi đó, những đao phủ
cộng sản VN từ Hồ Chí Minh, Đặng Xuân Khu cho đến những đồ tể hôm nay
đều không e dè công lý, không sợ người ta biết tên, nhìn mặt nên chẳng
cần phải che mặt khi làm điều gian ác. Cùng lắm là “che râu dấu mặt, đeo
kính râm đi dự đấu tố” thôi! Qủa nhiên, những kẻ đã kinh qua kiểm thảo
như Trần Đĩnh viết đều có những điểm khác người. Sự khác người mà Lưu
Cộng Hòa nhận định về tập thể này “phải nhận là con vật mới đúng” (Đèn
Cù 244) có lẽ chưa đúng. Nhưng có thể sẽ là một nhận xét khác: qủy...
nhập tràng”!
*
Thế giới xem ra càng ngày càng đi vào giấc ngủ với nhiều nỗi kinh hoàng
vì những bất ổn và bạo động. Hầu như không ngày nào trên báo chí, đài
truyền hình, các trang mạng xã hội mà không truyền đi những hình ảnh đầy
máu và nước mắt, trong đó có khá nhiều hình ảnh của nhà nước IS, và
những cuộc nổ bom “thánh chiến”. Việc khủng bố này, được đánh giá là
những hành động bạo tàn mang tính cách phô trương. Nó cố ý tạo ra sự sợ
hãi và giảm thiểu sức đề kháng cho đối phương.
Nếu tính từ ngày 19-8-2014, là ngày IS hành quyết nhà báo James Foley
đến này là 6 tháng. Trong sáu tháng này, IS còn đưa lên mạng nhiều hình
ảnh hành quyết tập thể khác nữa. Tuy nhiên, cho đến nay chẳng ai biết
rõ được số lượng các nạn nhân đã bị hành hình, bị giết là bao nhiêu.
Người ta chỉ ước đoán là số nạn nhân có thể lên đến hàng ngàn người. Nếu
như con số 1000 nạn nhân bị giết trong sáu tháng qua là đúng thì trung
bình mỗi tháng số người bị giết là từ 150 đến 200 người. Tính ra mỗi
ngày có từ 5 hay 6 người bị giết. Đây là một con số đủ làm cho mọi
người choáng váng, hoảng sợ.
Tuy nhiên, nếu đem con số ấy mà so sánh với con số nạn nhân là những
thường dân vô tội của Việt Nam bị Hồ Chí Minh, Đặng Xuân Khu... và tập
đoàn cộng sản chặt đầu, xử tử, giết hại trong cuộc đấu tố vào năm
1953-1956, thì chỉ là con số của trò chơi nhỏ bé, không đáng để nói tới.
Nó không đáng nói và không đáng nhắc đến bởi vì chỉ trong khoảng 1000
ngày (3 năm) 1953-1956, tập đoàn đồ tể này đã trảm sát vào khoảng 172
ngàn người Việt Nam trên tổng số dân là khoảng 12 triệu người. Nghĩa là
mỗi ngày chúng giết vào khoảng từ 120 đến 150 người! Đã man rợ như thế,
cuộc giết người máu đỏ loang trên khắp mọi cánh đồng của miền Bắc còn
được chúng tung hô là “một chiến thắng long trời lở đất”!
Trước tiên, con số từ 120 đến 150 người bị cộng sản sát hại trong một
ngày lấy ở đâu ra? Rất đơn giản, chỉ cần lấy con số 172000 người bị giết
chia đều cho khoảng hơn 1000 ngày (3 năm) là có. Như thế, xem ra con
số nạn nhân bị nhà nước IS hành quyết là 5 hay 6 người trong một ngày
không đáng được đem lên bàn cân, so sánh với con số do Hồ Chí Minh và
Đặng Xuân Khu đã thực hiện ở Việt Nam. Tuy nó không đáng để đem ra so
sánh với tập đoàn HCM, nhưng nó đang làm cho cả thế giới sợ hãi, hoảng
loạn. Theo đó, bạn nghĩ thử xem, sự sợ hãi, khiếp đảm đã đè nặng lên mỗi
người trên đất Bắc vào mùa đấu tố như thế nào? Chắc là vô cùng khủng
khiếp. Ở đâu cũng chỉ thấy máu với một chữ chết bên cạnh một chữ đấu bên
cái cờ đỏ đầy oanh liệt! Ai cũng phải rùng mình, hoảng sợ.
Chuyện giết người một cách man rợ, ai cũng lên án, riêng nhà nước CSVN
thì không. Tệ hơn thế, họ còn tung hô và tiếp nối câu chuyện man rợ ấy
một cách quyết liệt bằng cách tôn vinh Hồ Chí Minh lên hàng “cha già dân
tộc”, là “lãnh tụ vĩ đại”, là “đời đời sống trong quần chúng” để chúng
trở thành những cháu ngoan, học tập theo gương “bác” và tiếp tục hành
nghề của bác! Kết quả, sau hơn nửa thế kỷ tiếp nối nghề của HCM, tập
đoàn cộng sản đã vượt mặt HCM và ĐXK về con số những nạn nhân bị chúng
giết hại tại Việt Nam. Chúng đã giết chết sức sống của cả một dân tộc.
Giết chết con người bằng lối giáo dục triệt tiêu văn hóa, luân lý và đạo
đức xã hội và bằng khủng bố.
A. Giáo dục triệt hạ nền văn hóa đạo đức và luân lý trong xã hội Việt Nam
Có thể nói, chủ trương giết chết nền luân lý đạo đức và nền văn hóa nhân
bản của Việt Nam là một sách lược tàn bạo và thâm độc nhất của tập đoàn
cộng sản. Với sách lược này, khởi đầu nó mở ra một lối giáo dục đào tạo
đặc biệt trong nội bộ dành riêng cho các đoàn/đảng viên CS. Nó yêu cầu
các đoàn/đảng viên phải hoàn toàn ly khai với đời sống của gia đình. Sau
đó, tiến tới bước thứ hai, để chứng tỏ lòng trung thành tuyệt đối với
đảng, các học viên phải công khai tuyên bố “căm thù và đoạn tuyệt bố mẹ”
là những đấng sinh thành ra mình. Rồi từ đó, nhờ các đoàn đảng viên,
giáo điều này sẽ được đem vào đời sống của xã hội theo chỉ thị: “...phải
vạch ra mọi thủ đoạn đàn áp, bóc lột nông dân cùng tội ác của bố mẹ,
gia đình, họ hàng địa chủ, cường hào gian ác. Thứ ba trên cơ sở thành
khẩn khai báo kia mà tuyên bố là căm thù bố mẹ, tỏ ra đã dứt khoát lập
trường vô sản, đoạn tuyệt với kẻ thù giai cấp. Không đạt yêu cầu căm thù
bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ thì bản tổng kiểm thảo bị “phá sản,” học
viên đó phải ngồi học lại cho tới khi nào lập trường vô sản, lập trường
nông dân thắng, anh ta công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với
bố mẹ mình (mới thôi). Tố Hữu làm đúng lời Bác Hồ thôi”. (trang 74-75)
Chuyện nay mới viết, nhưng trong thực tế, cán cộng đã từng đem ra thực
tập và áp đặt vào đời sống của dân chúng ngay từ mùa đấu tố. Đây quả là
một lối giáo dục rất đáng khiếp sợ, bởi vì, một khi con người đã dám
căm thù bố mẹ là những người sinh thành dưỡng dục mình như Chu Văn
Biên, thứ trưởng nông nghiệp của nhà nước, ngồi trên ghế cao chỉ vào
mặt mẹ đẻ mà tuyên bố. “Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng
đất Nghệ - Tĩnh, bắc ghế ngồi trên thềm cao chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chắp
tay đứng ở dưới sân dằn giọng: -Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là
kẻ thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi… Bà mẹ cắn lưỡi
không chết. Ít lâu sau, nhảy giếng tự tử thành…” (Đèn Cù 109) thì hỏi xem. Còn một điều cực ác nào khác mà y không dám làm?
Rủi thay, xã hội Việt Nam dưới thời CS không phải chỉ có một Chu Văn
Biên. Trái lại có nhiều, rất nhiều. Nhiều đến nỗi chẳng còn mấy ai không
nghe biết đến những câu chuyện, đội “cải cách” về làng. Khi về đến
làng, thôn, chúng tìm cách đến sống với dân làng. Chúng lân la, tìm ra
những kẽ hở của dân làng. Từ đó, chúng đã len lỏi vào từng nhà, từng góc
tối của làng xóm để ngày đêm giáo dục cho nam nữ nhẹ dạ, sợ chết và
bọn bất hảo, đứng ra đấu tố những đấng sinh thành hay cha mẹ nuôi của
chính mình. Chúng dạy cho con gái đấu bố đẻ bằng cái tội hiếp dâm con
gái, hiếp dâm con dâu. Chúng dạy cho con trai học thuộc lòng bài đấu tố
“địa chủ ác ghê” do Hồ Chí Minh đã viết mà đấu tố bố đẻ là cường hào ác
bá, bóc lột sức lao động của con cái, của con dâu con rể của người làm
công, dù nhà chẳng bao giờ có người làm công!
Kết quả, dưới cái búa, lưỡi liềm của cộng sản, nền luân luý và đạo đức
của gia đình, xã hội đã bị cộng sản nhấn chìm. Nhấn chìm trong tang
thương tức tưởi. Tức tưởi đến uất nghẹn nên Giám Mục Lê Đắc Trọng đã
dùng nước mắt viết lại “cảnh sống”, trong những ngày này như sau: “một người phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha già chị chăm sóc hằng ngày. Chị nói với bố “Ông
có biết tôi là ai không?” người cha ngậm ngủi, trước nhìn đứa con dứt
ruột mình đẻ ra và nói: Thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ .” (tr393) (Chứng từ của một Giám Mục).
B. Sử dụng khủng bố dưới dạng xã hội đen để trấn áp con người
Phải khẳng định rằng tất cả mọi người, kể cả các đoàn đảng viên cộng
sản, khi sống dưới chế độ này đều biết rõ một điều: Con người không
thể hay không còn khả năng nói lên sự thật. Trái lại, “phải nói dối nhau mà sống” (Trần
Quốc Thuận). Ai đi trái với quy trình này là tự tìm cho mình những
gánh nặng, phiền hà, hoặc giả, nhà tù hay nghĩa địa! Nói cách khác, chưa
có một người nào sống dưới chế độ CS đi tìm Tự Do, tìm Công Lý, tìm
Nhân Quyền mà không vào tù. Và không bị nhà nước đấu tố, khủng bố bằng
cách sử dụng xã hội theo kiểu “nhân dân tự phát” để ném đá dấu tay.
Vào năm 2008, Tổng Giám Mục Hà Nội, Ngô Quang Kiệt, người được coi là đi
tiên phong trong một vị thế lớn, độc lập đã nêu cao ngọn cờ đòi lại
Công Lý cho người dân, dù trước đó đã có nhiều người bị đi tù vì đòi Tự
Do, Công Lý và Nhân Quyền cho Việt Nam. Việc Ngài đưa ra những văn bản
và lên tiếng về vấn đề đất đai của Tòa Khâm Sứ tại Hà Nội chỉ là một thí
dụ điển hình trong việc đưa người dân đi tìm Công Lý của Ngài. Nên
trong bài nói chuyện ứng khẩu trong cuộc họp với uỷ ban thành phố Hà
Nội, Ngài đã nêu lên những ý chính sau:
a. "Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là cái ân huệ 'xin cho'".
Đây là điều công ước quốc tế về nhân quyền, một điều mà chính luật
Pháp của Việt cộng cũng đã công nhận. Nhưng thực tế là nó chỉ có trên
giấy tờ, không có trong thực hành.
b. Về Pháp Lý và Công Lý. Ngài nói:
“Chúng ta phải sống theo pháp luật, thì phải có văn bản giấy tờ của
chính quyền. Thời chính quyền này có thể thay đổi, chính quyền sau có
thể thay đổi nhưng phải có giấy tờ văn bản rõ ràng. Trên mảnh đất 42
chúng tôi chưa được cái văn bản nào của nhà nước nói về sự thay đổi.
Không có đi vào cái diện cải tạo tư sản, không có đi vào diện cải tạo
nông nghiệp, cũng không có văn bản nói lên sự tịch thu hay là trưng
thu trao cho cơ quan nào quản lý… hoàn toàn không có. Theo đó, việc
quản lý của cơ quan nào đó là chưa có hợp pháp, (bởi vì) trên căn bản
là chúng ta phải có giấy tờ. Chứ bây giờ kẻ cướp vào nhà chúng tôi
rồi ngang nhiên ở đó, rồi không có giấy tờ gì hết và họ mạnh, chúng tôi
không đuổi ra được thì đương nhiên họ chiếm hay sao?! Theo đó (mọi
việc) Phải có giấy tờ, cần có văn bản pháp lý…”
c. Về xây dựng con người và xã hội nhân bản:
“Chúng tôi xin nhắc lại, chúng tôi rất mong muốn xây dựng một khối
đại đoàn kết dân tộc. Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất
là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, (do Việt cộng cấp phát) đi
đâu cũng bị soi xét. Chúng tôi buồn lắm chứ. Chúng tôi mong muốn đất
nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi
qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng
thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm
và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta
mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng…”.
Kết quả của khát vọng xây dựng xã hội trong Công Lý và Nhân Quyền của
người dân Việt Nam qua TGM Kiệt, được trả bằng những đòn thù đấu tố ở
trên tất cả mọi diện. Về thông tin tuyên truyền thì có không biết bao
nhiêu là bài viết của những bỉnh bút, văn thi nô của nhà nước thi nhau
cắt xén, xuyên tạc lời tuyên bố của Ngài với mục đích bôi nhọ uy tín cá
nhân và thanh danh của vị TGM này. Và nhằm chạy tội, đánh lạc hướng dư
luận về một cuộc cướp cạn bất thành của nhà nước nhằm vào khuôn viên Tòa
Khâm Sứ. Kế đến, Nguyễn Thế Thảo đã cho tổ chức rất nhiều đoàn được gọi
là “nhân dân tự phát”, với gậy gộc, vũ khí trong tay đến chung quanh
Tòa Giám Mục Hà Nội quấy rối suốt ngày đêm. Đã thế, còn hăm dọạ giết
Ngài. Đòi giết người ngay trước mắt công an!
Bấy nhiêu còn chưa hả dạ, Thảo đăng đàn phát biểu, phải “bứng ông Kiệt
ra khỏi Hà Nội bằng mọi giá”. Cái lý do thì Thảo không nói ra, nhưng ai
cũng biết vì chính vị Tổng Giám Mục này đã công bố trong cuộc họp là: “Trong
tờ kê khai của linh mục Nguyên Tùng Cương, lúc đó là quản lý tòa Tổng
Giám Mục, có 95 cơ sở. Chúng tôi có đòi cơ sở nào đâu, vì những cơ sở đó
thực sự dùng vào những lợi ích chung... Nhưng khách sạn Láng Hạ chúng
tôi sẽ nói tới, bởi vì sử dụng vào mục đích kinh doanh. Và Tòa Khâm Sứ
đã thành cái nơi sàn nhảy, đã thành cái nơi kinh doanh buôn bán, đã có
cái dấu hiệu buôn bán chia chác để làm cái trung tâm thương mại... Chúng
tôi không tranh chấp với nhà nước. Nhưng chúng tôi nói lên tiếng nói
của công lý”.
Thế đó, mà thua! Kẻ vô đạo đức thắng nhân nghĩa. Man rợ thắng Công Lý
và bạo lực giết chết Tự Do. TGM Kiệt rời Hà Nội, CS thênh thang trên
con đường cướp giựt thêm rất nhiều tài sản của Công Giáo và của tư nhân
để chia nhau. Toà khâm Sứ, miếng mồi ngon nuốt không lọt nên đành “ngậm
bồ hòn” biến thành thư viện? Nhưng linh địa Thài Hà, Tam Tòa, Đồng
Chiêm, Cồn Dầu, Mỹ Yên, Thủ Thiêm và nay là Đông Yên, rồi Văn Giảng,
Tiên Lãng, Vũng Áng... lần lượt tiền vào túi cán cộng. Phần người dân,
không có được một giấc ngủ yên! Cũng thế, những Lê thị Công Nhân,
Nguyễn Văn Đài, Tạ Phong Tần, Lê Công Định, Điếu Cày, Cù Huy Hà Vũ...
những người tranh đấu cho lý tưởng Nhân Quyền, Công Lý, Tự Do cho Việt
Nam, cũng được ăn no đòn thù của Cộng sản, trước cũng như sau khi bị
chúng cưỡng ép vào nhà tù bằng những tội danh phản nhân tính con người.
Tính đến nay, sau hơn nửa thế kỷ, được hấp thụ nền giáo dục vô nhân
tính, đảng và nhà nước cộng sản đã võ trang cho mình hai bộ mặt để diễn
xuất:
1. Bộ mặt ở trong nước
Hà Nội bỗng nhiên được chứng kiến hai câu chuyện do cùng một bộ mặt điên cuồng của nhà nước diễn. Diễn một, đưa phái đoàn "nhân dân tự phát"
đến trấn áp và phá rối buổi đặt vòng hoa và tưởng niệm những người đã
hy sinh vì tổ quốc ở Hoàng Sa, Trường Sa và Gạc Ma trước tượng đài Lý
Thái Tổ và Trần Hưng Đạo. Sở dĩ có sự kiện này là vì, người dân nhớ ơn
và vinh danh những người đã hy sinh cho tổ quốc như Thiếu tá VNCH Ngụy
Văn Thà và đồng đội của ông đã anh dũng chiến đấu với quân xâm lược bắc
phương. Kế đến là nhớ người chiến sỹ Việt Nam bị bán đứng ở Gạc Ma. Họ
bằng cách này hay cách khác đều là những anh hùng đã hy sinh để bảo vệ
sự vẹn toàn của đất nước. Nhưng trong tầm mắt của nhà cầm quyền cộng
sản, lại khác. Họ cho những cuộc tưởng niệm của thân nhân những người đã
hy sinh, hay của đồng bào dành cho người vì nước là phá rối trật tự, là
mất tình hữu nghị, là chống lại đường lối của đảng và của nhà nước nên
phải dẹp bỏ, triệt hạ. Kết qủa, họ đã dàn trận “nhân dân tự phát” để đối
phó! Đối phó bằng một cách vô liêm sỉ. Bởi lẽ việc làm ấy là một sự
phỉ báng người chết và chà đạp lên vong linh của tìền nhân Việt Nam.
Trò diễn thứ hai. 6700 cây xanh ở Hà Nội, có cây cả trăm tuổi đời, nuôi
sinh thái và vẻ đẹp cho thành phố, bỗng chốc được các nhà lãnh đạo đầy
“văn hóa” CS ra lệnh hạ sát tập thể. Cây không biết chạy, không biêt
chống, nên chỉ có mấy đêm cả ngàn cây đã phải lìa đời vì cái ngu dốt và
vô văn hóa của cấp lãnh đạo tại Hà Nội. Hỏi ra lại cũng là Nguyễn Thế
Thảo đứng đầu! Phen này, nhờ lệnh cắt mạng 6700 cây xanh, cán cộng Hà
Nội bỗng có được 73 tỷ đồng để chia nhau! Chỉ riêng việc dùng sơn
trắng, vẽ chéo, đánh dấu lên gốc cây sẽ bị hạ, thay cho bản án tử hình
Thảo đến đọc tại chỗ, cũng được trả 760,000 ngàn đồng/ một cây. Quan cán
nào được đề cử đi đánh dấu gốc cây trong một ngày thôi thì ít nhất
cũng bỏ túi 76 triệu đồng (đánh dấu 100 cây). Có đi ăn cướp cũng không
làm giàu nhanh như quan cán. Ấy là chưa kể đến số tiền bán gỗ cho nhà
thầu làm mộc cũng tự động vào túi riêng của lãnh đạo là những khuôn mặt
dày, búa tạ chém không đứt! khiếp!
2. Thái độ ở ngoài nước.
Với người dân, với cây xanh thì đảng ta dứt điểm đẹp như thế. Nhưng khi bước ra ngoài, với kế sách “thà mất lòng dân, được bụng Tàu”,
nên từ HCM cho đến những người kế thừa hôm nay không có một ai dám có,
dù chỉ là một lời... lỡ để làm mất bụng Tàu. Trái lại, một là im lặng
trong mọi hoàn cảnh. Hai là tích cực đàn áp người dân Việt Nam để được
bụng Tàu. Theo đó, câu chuyện làm chảy máu và chảy bao nưóc mắt của
người Việt Nam là chuyện Hoàng Sa, Trường Sa và cái đường lưỡi bò của
TC liếm sát vào thềm lục địa của Việt Nam đã không có một ai trong hàng
ngũ gọi là lãnh đạo của tập đoàn bán nước ấy nói đến. Thậm chí, không
dám lên tiếng ủng hộ Philippines trong việc nước này đưa Trung cộng ra
trước toà án Công Pháp Quốc Tế, nói chi đến việc tự đưa Trung cộng ra
tòa. Lý do:
1. Bản công hàm của Phạm Văn Đồng treo giữa phủ, theo nguyên
tắc là một bản văn có giá trị tuyệt đối giữa hai nhà nước đã có trao
đổi văn thư qua lại. Theo đó, khi nào cộng sản còn tồn tại trên đất nước
Việt Nam thì sẽ không bao giờ có một văn thư đồng cấp nào dám lên tiếng
phủ nhận cái công hàm của Phạm Văn Đồng và cái đường lưỡi bò của Trung
cộng.
2. Thứ hai. Với Trung cộng, tập thể đảng và nhà nước CSVN
thực ra chỉ là một đám nô tài bạc nhược. Không một kẻ nào trong số ấy có
lấy một chút liêm sỉ, văn hóa của tổ quốc Việt Nam. Dĩ nhiên, về
chuyện này, hàng ngũ cán cộng cũng biết rõ phận mình. Họ biết, muốn được
yên thân để rỉa rói, đục khoét thì phải biết đóng cái miệng lại. Đi
trái quy trình, quy hoạch đã được ấn định thì bỏ ăn! Theo đó, đảng ta đã
có đường lối nhất quán. Chuyện về đường lưỡi bò, về Trường Sa, Hoàng
Sa, chuyện ủng hộ Phillipines thì nhường cho bọn... phản động và thế lực
thù địch ở nước ngoài đánh! Riêng việc đưa Trung cộng ra tòa thì nhà
nước CSVN nhất trí xin... kiếu! Bởi lẽ, khi đưa TC ra tòa thì phải có
người đứng tên đại diện. Nhắc đến cái khoản ký tên đại diện nhà nước
CSVN đưa Trung cộng ra trước tòa án quốc tế như Phillípines thì các
quan cán ta lại rất khiêm nhường mà... nhường cho nhau. Bởi lẽ, ký vào
đấy có khác gì đi tự tử cả nhà!
Đó là lý do tại sao, đến hôm nay, cả một tuần sau ngày tòa án Quốc Tế tại Hague đưa ra phán quyết: Đường lưỡi Bò 9 đoạn của Trung Quốc là 'Vô giá trị',
mà tập thể gọi là lãnh đạo của CSVN đều bị câm và điếc. Một tiếng ho
khan, dù nhỏ cũng không có. Nhắc lại, phiên tòa duyệt, xử theo đơn kiện
của Philipines về cái đường lưỡi bò 9 đoạn đã kéo dài trong ba tháng.
Rồi vào ngày 10-3-2015 các thẩm phán của Tòa Án Quốc Tế Hague, trong đó
có thẩm phán Thomas A. Mensah (chủ tịch), thẩm phán Jean-pierre Cot,
thẳm phán Stnislaw Pawlak, giáo sư Alfred Ha Soons và thảm phán Rudige,
đã đưa ra ra Phán Quyết về Bản Đồ 9 đoạn mà Trung cộng đưa ra ở Biển
Đông là Vô giá trị đối với Luật Lệ Quốc Tế. Từ quyết định định này đã
truyền tải đi một ý nghĩa tích cực rất lớn. Hành động đơn phương của
Trung Cộng không có gía trị theo luật quốc tế. Theo đó, các nước trong
khu vực Biển Đông có đầy đủ quyền hạn để theo đuổi việc bảo vệ lợi ích
và quyền hạn của họ trên biển đông. Chuyện rõ là thế, nhưng “ta” hoàn
toàn câm!
Từ chuyện này, có người bảo rằng, những đao phủ của nhà nước IS, của
những nhóm khủng bố quốc tế, xem ra còn e ngại chữ Công Lý và sợ bị lộ
chân tướng nên lúc nào cũng phải dấu mặt ở đằng sau tấm vải. Trong khi
đó, những đao phủ CSVN từ Hồ Chí Minh, Đặng Xuân Khu cho đến những đồ
tể hôm nay đều không e dè công lý, không sợ người ta biết tên, nhìn mặt
nên chẳng cần phải che mặt khi làm điều gian ác. Cùng lắm là “che râu dấu mặt, đeo kính râm đi dự đấu tố”
thôi! Qủa nhiên, những kẻ đã kinh qua kiểm thảo như Trần Đĩnh viết đều
có những điểm khác người. Sự khác người mà Lưu cộng Hòa nhận định về
tập thể này “phải nhận là con vật mới đúng” (Đèn Cù 244) có lẽ chưa đúng. Nhưng có thể sẽ là một nhận xét khác: qủy... nhập tràng”!
3-2015
0 comments:
Post a Comment