Tóm
lược: Bài hát "Tám Nẻo Đường Thành" do nhạc sĩ Hoài Linh
viết vào năm 1968 là nhân chứng lịch sử cho cuộc tống công kích
do cộng sản Bắc Việt và Việt cộng tổ chức vào Tết Mậu Thân
tại Sài Gòn năm 1968. Qua lối diễn tả sống động và kỹ thuật
viết tài tình, Hoài Linh mô tả trung thực nỗi đau thương của
người dân vô tội trong cảnh binh lửa, tính chất tàn bạo của
cộng sản, và bản chất hiền hòa nhân bản của người miền Nam.
*
Bài hát "Tám Nẻo Đường Thành" ra đời năm 1968, nói về
cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968 tại Sài Gòn. Tác giả
của bài hát là nhạc sĩ Hoài Linh. Tuy nhiên, trên vài trang
mạng, có sai lầm quy gán tác giả là nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng.
Không rõ tại sao có sự sai lầm này, nhưng tờ nhạc nguyên gốc
ghi rõ tác giả là Hoài Linh (Xem, thí dụ như, Nhạc Việt trước
75).
Trong một bài trước đây, tôi trình bày vắn tắt tiểu sử tác
giả Hoài Linh (Cao-Đắc 2014a). nên sẽ không lập lại trong bài
này. Ngoài ra, như trong các bài viết về âm nhạc trước, tôi sẽ
chú trọng thảo luận chi tiết về các khía cạnh văn chương của
lời nhạc.
Ca khúc "Tám Nẻo Đường Thành" không phải là ca khúc
thịnh hành trong âm nhạc miền Nam trước 1975. Thực ra, ít người
biết đến bài này. Bài hát là lời kể chuyện về cảnh tang
tóc, nỗi đau thương của người dân, và tính chất tàn bạo của
cộng sản. Lời kể có giai điệu đều đều, chậm chạp và buồn
bã, và tuy có chút trầm bổng, âm tiết có thể không có tác
dụng mạnh trên khán giả khi mới nghe. (Tôi dùng khán giả để
chỉ người nghe, người đọc, và người xem.) Để có thể thưởng
thức bài hát, khán giả phải nghe đi nghe lại nhiều lần, và để
ý kỹ lời nhạc. Trong những bài hát về chiến tranh và nhất
là về Tết Mậu Thân, "Tám Nẻo Đường Thành" được coi là một trong những bài hát hay nhất và có giá trị lịch sử cao.
Nguyên văn lời bài hát như sau.
Bé thơ ơi! Bé thơ ơi! Nín đi đừng khóc.
Xót xa nhiều trào thêm nước mắt
Chiến tranh nào mà không tan nát
Khói lên cao trắng tay mau dân nghèo lơ láo.
Mẹ bồng con giờ về đâu
Nhìn vành tang, con quấn ngang đầu!
Xác ai đây chết hôm qua đến nay còn thấy
Vắt cơm gầy nằm trong gói giấy
Dưới chân tường nhà ai đang cháy.
Ðốt đêm đen, trái châu treo thay đèn lấp lánh
Cầu chữ Y, lộ Hàng Xanh
Lửa bạo thiêu tám nẻo đường thành
Ðầu Xuân súng nổ reo rắc tóc tang
Giờ đây nhúm lửa thiêu đốt phố phường
Súng nào giết trẻ đêm đen
Súng nào banh xác mẹ hiền
Một lần đêm vài tan biến mộ dầy thêm.
Khóc quê hương suốt hai mươi năm ngoài lửa khói
cũng do một bàn tay anh mãi,
nếu xa lạ thì không ai nói.
Ðếm đi anh, đếm đi anh
Bao hồn oan đó
Mồ chẳng xinh, cỏ chẳng xanh
Người nghìn sau nhắc chuyện đường thành.
Như đa số các bài hát khác, lời nhạc thường bị sửa đổi, vô tình hay cố ý, và nhiều khi làm giảm ý nghĩa của bài hát. Vài thí dụ: "trắng tay mau" thành "nắm tay nhau"; "Ðốt đêm đen" thành "Ðón đêm đen"; "Súng nào" thành "Xuân nào."
A. Bối cảnh lịch sử Tết Mậu Thân và ý nghĩa nhan đề "Tám Nẻo Đường Thành"
Như các thể loại văn chương khác, âm nhạc có nhiều tác dụng
trên nhiều khía cạnh, ngoài mục tiêu giải trí, như xã hội, văn
hóa, và lịch sử. Một trong những tác dụng quan trọng là sự
ghi nhận trung thực những biến cố hoặc sự kiện lịch sử. Nhiều
bài hát kể lể những câu chuyện đương thời hoặc những nhân vật
có thật, và đóng vai trò nhân chứng cho lịch sử. Ca khúc "Tám Nẻo Đường Thành"
là một thí dụ cho những bài hát chứng nhân lịch sử này. Bài
hát nói về cảnh thê lương và nỗi đau thương của người dân miền
Nam trong cuộc tổng công kích của cộng sản vào Tết Mậu Thân
năm 1968. Để có sự đánh giá thích đáng về bài hát, ta nên tìm
hiểu rõ cái bối cảnh lịch sử của bài hát và ý nghĩa của
nhan đề.
Cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân cho thấy tính chất tàn
bạo của VC qua vi phạm thỏa ước ngừng bắn và dẫn đến thảm
bại cho cộng sản
Vào ngày 17 tháng 11 năm 1967, Mặt trận giải phóng tuyên bố họ
sẽ tiến hành cuộc ngừng bắn trong dịp lễ sắp tới: ba ngày cho
Giáng Sinh; ba ngày cho Tết tây; và bảy ngày cho Tết ta, từ 27
tháng 12, 1967 cho tới 3 tháng 2, 1968 (Ford 1995, 101; Oberdorfer
2001, 70). Tuy hai phe không ký một thỏa hiệp ngừng bắn nào trên
giấy tờ, những tuyên bố trên đài phát thanh được coi là thỏa
ước ngừng bắn chính thức, và đã được thi hành nhiều lần
trước đó. Theo nguyên tắc quốc tế, ngưng bắn có thể được tuyên
bố chính thức bằng hiệp định, nhưng cũng đã từng coi là sự
hiểu biết không chính thức giữa hai phe đối nghịch (Wikipedia
2014b).
Thực ra, cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng (VC) không những không
có ý định ngừng bắn mà lại còn âm mưu một cuộc tổng công
kích trên toàn lãnh thổ miền Nam. Hăm hở tưởng rằng họ có thể
bắt chước chiến thuật của Quang Trung Nguyễn Huệ cho lính ăn
Tết trước khi đại phá giặc Thanh năm 1789, chính quyền Bắc Việt
cho dân ăn Tết sớm một ngày vào ngày 29 tháng 1, lấy cớ là
mặt trăng, mặt trời và trái đất ở vị trí khác thường năm đó
và ăn mừng một ngày sớm hơn thì may mắn hơn (Oberdorfer 2001,
73-74). Nhưng quả là thiên bất dung gian, ý định lập lại chiến
công hiển hách của Quang Trung lại tạo ra thất bại nặng nề. Vì
thay đổi ngày Tết vào phút chót, có những lẫn lộn trong các
thành phần tham gia cuộc tổng công kích. Cuộc tấn công không
được đồng bộ cùng lúc, và phối hợp bị trễ nãi một ngày,
khiến cho các đơn vị tấn công bị tiêu diệt dễ dàng. Tuy nhiên,
vì Hoa Kỳ và chính phủ miền Nam không nghĩ là cộng sản Bắc
Việt vi phạm thỏa ước ngừng bắn, phần lớn binh sĩ được cho
nghỉ phép về ăn Tết với gia đình. Do đó, quân cộng sản vẫn có
được yếu tố bất ngờ do sự vi phạm thỏa ước ngừng bắn và
chiếm đóng thành công trong những giờ đầu tiên tại nhiều vị
trí.
Vào sáng sớm ngày 31 tháng 1 năm 1968 (tức mùng 2 Tết trong
miền Nam và mùng 3 Tết trong miền Bắc), khoảng 80,000 quân chính
quy Bắc Việt và Việt cộng tấn công hơn 100 thành phố trên khắp
miền Nam Việt Nam (Berman 1996, 21). Hoa Kỳ và QLVNCH phản ứng
kịp thời và đẩy lui các cuộc tấn công trong những giờ đầu
tiên. Huế và Sài Gòn chứng kiến cảnh đánh nhau đẫm máu nhất.
Vào đầu tháng 3, 1968, mọi cuộc tấn công trên toàn lãnh thổ
miền Nam coi như bị dẹp tan.
Kết quả của cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân là thảm bại cho
cộng sản. Không những dân không hưởng ứng cộng sản, mà dân còn
bỏ chạy thoát cộng sản để về phía VNCH (Willbanks, 81). Thương
vong của hai phe như sau: cộng sản: ít nhất là 40.000 chết; Hoa
Kỳ: khoảng 1.100 chết; VNCH: khoảng 2.300 chết (Willbanks 2006,
81-82; Currey 1996, 84). Với số thương vong thảm não như vậy, ngay
chính phe cộng sản công nhận Tết Mậu Thân là một thất bại quân
sự nặng nề (Willbanks 2006, 81).
"Tám Nẻo Đường Thành" nói về cuộc chiến tại Sài Gòn. "Kế
hoạch tấn công Sài Gòn cần 35 tiểu đoàn đánh vào sáu mục
tiêu chính trong thủ đô. Các mục tiêu này gồm có bộ Tổng Tham
Mưu; dinh Độc Lập là văn phòng Tổng thống Thiệu; tòa đại sứ
Mỹ; phi trường Tân Sơn Nhất; bộ tư lệnh Hải quân, và đài phát
thanh quốc gia" (Willbanks 2007, 32). Cuộc tấn công bắt đầu
vào sáng sớm ngày 31 tháng 1 từ mọi hướng, nhắm vào trung tâm
đô thị. Quân VC được hướng dẫn bởi tiểu đoàn đặc công Sài Gòn
C-10 gồm 250 người quen thuộc với đường xá Sài Gòn, với kế
hoạch chiếm giữ các vị trí mục tiêu trong 48 tiếng đồng hồ để
chờ quân tăng viện đến. Trên thực tế, như trình bày ở trên, bộ
Chính Trị ra lệnh tấn công sớm hơn ngày dự tính theo ngày âm
lịch chỉnh sửa, khiến cho mọi nơi không tấn công đồng loạt. Vì
vậy, nhiều đơn vị VC chiếm vị trí ban đầu nhưng không có tăng
viện nên bị tiêu diệt dễ dàng (Ngô 1996, 103).
Một trong những hành động tàn bạo của VC trong Tết Mậu Thân là ám sát. "Ám
sát là thành phần chủ chốt của kế hoạch VC để làm tê liệt
chính quyền và phá rối phản ứng chính quyền trong Tết" (Robbins 2010, 148). "Các
toán ám sát đến nhà các viên chức, sĩ quan, và những người
khác đã bị ghi sổ, rồi giết họ và, nếu có thể, gia đình họ"
(sđd.) Có những toán VC tản mát trong thành phố và đi lùng
những người trên danh sách đen, thường là sĩ quan hoặc binh sĩ
QLVNCH và cảnh sát quốc gia, nhân viên dân sự hoặc những người
dính líu với chính quyền Sài Gòn. Toán VC tới tận từng nhà,
soát thẻ căn cước, bắn lính đi phép ngay tại chỗ (Willbanks
2006, 36). Dù có nhiều vụ ám sát không thành công, với chỉ thị
ám sát dã man, bất kẻ phụ nữ trẻ em, lính VC có sẵn cái
khái niệm coi thường sinh mạng người dân và sẵn sàng hy sinh dân
cho mục tiêu họ. Câu chuyện về Bẩy Lốp trình bày dưới đây cho
thấy bản chất dã man của VC. Ngoài ra, như đã được biết rộng
rãi, vụ thảm sát tại Huế là bằng chứng cụ thể không chối
cãi được về sự tàn bạo của VC.
Những trận đụng độ lớn ở Sải gòn gồm có vùng Chợ Lớn,
trường đua Phú Thọ. Lực lượng hai bên tại Sài Gòn như sau:
Cộng Sản: Khoảng 11-15 tiểu đoàn thuộc công trường (sư đoàn) 7
và 9, và các tiểu đoàn địa phương và các toán đặc công.
QLVNCH: Khoảng 10 tiểu đoàn: gồm các đơn vị Nhảy dù, Thủy quân
lục chiến (TQLC), Biệt động quân (BĐQ), và Cảnh sát quốc gia.
QLVNCH bị thất lợi vì không thể dùng hỏa lực mạnh mẽ trong
những giờ đầu tiên vì VC len lỏi vào khu dân chúng và kềm chế
dân. Ngoài ra, lính VNCH phải bảo vệ dân tị nạn và nhà cửa
tài sản dân chúng. Lính VNCH nỗ lực kêu gọi dân chạy ra khỏi
vùng lửa đạn. Chỉ đến khi dân di tản ra hết khỏi vùng đánh
nhau, QLVNCH mới có dịp tung toàn bộ hỏa lực tấn công VC. Các
trận đánh tạo nhiều khó khăn cho QLVNCH vì VC trà trộn trong dân
chúng và nhiều khi dùng dân làm bia đỡ đạn. Lính VNCH phải
tranh giành từng khu phố, truy đuổi VC qua từng căn nhà.
Để tấn công vào các mục tiêu chính, trong giờ phút đầu tiên, VC
tiến chiếm các vị trí dẫn vào Sài Gòn. Trong các vị trí
này, hai vị trí đặc biệt là cầu chữ Y và Hàng Xanh, được
nhắc tới trong bài hát. Trong những giờ đầu tiên, tiểu đoàn 30
Biệt Động Quân đụng độ với tiểu đoàn 3 Dĩ An cộng sản tại
Hàng Xanh, gần xa lộ Biên Hòa. Suốt đêm 30 tháng 1, 1968, hai bên
đánh nhau kịch liệt dưới ánh sáng hỏa châu rực sáng (Phạm
2012). Tại cầu chữ Y, cũng vào đêm 30 tháng 1, 1968, VC tấn công
chi cảnh sát Nguyễn Văn Liêng ở quận 8. Rồi bắt đầu từ rạng sáng hôm
sau, VC nổ súng đánh chiếm cầu chữ Y để vào sâu Sài Gòn (Nguyễn Ðạt
2012).
Hình 1 cho thấy các cánh tấn công của Việt Cộng vào Sài Gòn
(Willbanks 2006, xix). Các cánh này bao quanh Sài Gòn từ mọi
phương hướng trên khắp nẻo phố phường. Khi cuộc chiến gia tăng,
lính VC di chuyển vị trí và tản mát khắp nơi, nhưng các trận
đụng độ lớn xảy ra ở Hàng Xanh, vùng Chợ Lớn, và trường đua
Phú Thọ.
Cuộc tấn công vào Sài Gòn xảy ra hầu hết tại khắp nơi quanh
Sài Gòn, từ phi trường Tân Sơn Nhấ́t, trường đua Phú Thọ, Hàng
Xanh, cầu chữ Y, khu Chợ Lớn. Dân chúng bồng bế chạy tán loạn.
Súng đạn vang rền khắp nơi. Lửa cháy tại các khu nhà đông
đúc, trên khắp tám nẻo đường thành.
Nhóm chữ "Tám Nẻo Đường Thành" đặc biệt chỉ dành cho Sài Gòn:
Nghĩa ̣đen của "tám nẻo đường thành" là tám ngõ đường xá.
Mới thoạt nghe, ít ai để ý cái ý nghĩa của nhóm chữ đó và
cho là nó chỉ về đường xá phố phường trong thành phố. Đúng
vậy, nhóm chữ chỉ đường xá phố phường. Nhưng câu hỏi là tại
sao "tám"? Con số 8 đó có từ đâu ra? Câu hỏi kế tiếp là đường
xá phố phường đó có đặc biệt chỉ Sài Gòn, hay bất cứ thành
phố nào?
Về con số 8, có thể con số đó chỉ là một con số đặt ra để
nói đến số lượng chằng chịt của khu phố hoặc chỉ sự bao quanh
Sài Gòn từ tám hướng, và không có gì đặc biệt với nó hết.
Người miền Nam thường dùng số tám, có thể vì ảnh hưởng Tàu
cho rằng số 8 là số hên. Con số cũng thường được dùng trong
các câu thông thường như "bỏ đi tám." Tám cũng có thể coi là
tên thông thường trong gia đỉnh người miền Nam đông con. Ta thấy
cộng sản chế ra tên Lê Văn Tám cho liệt sĩ tưởng tượng của họ
với lý do Tám là tên thông dụng trong miền Nam.
Tuy nhiên, nếu "tám nẻo đường thành" chỉ có nghĩa là đường xá
bất kỳ thành phố nào thì cũng lạ là tác giả Hoài Linh dùng
nó để đặt tên cho bài hát nói về Sài Gòn. Bài hát có những
địa danh đặc biệt cho Sài Gòn như cầu chữ Y, Hàng Xanh. Do đó,
nhan đề bài hát cũng phải có gì đặc biệt cho Sài Gòn. Không
ai dùng một nhóm chữ tổng quát cho nhan đề một bài hát rõ
rệt cho một địa danh.
Theo tôi nghĩ, "tám nẻo đường thành" là nhóm chữ đặc biệt
dành cho phố xá Sài gòn mà thôi, giống như "36 phố phường" chỉ
đặc biệt dành cho Hà Nội. Ngoài ra, tôi nghĩ là chữ "thành"
trong "tám nẻo đường thành" không có ý chỉ "thành phố" (city)
mà là "thành trì/ lũy" (citadel/ fort/ fortress). Đó là vì sự
hiện hữu của thành Bát Quái tại Sài Gòn trong khoảng thời
gian 1790-1835.
Địa danh trong miền Nam vào khoảng thế kỷ 17-18 rất là hỗn độn
vì quy chế hành chánh chưa được tổ chức quy củ. Một phần lý
do là trong giai đoạn đó, triều đại nhà Nguyễn (chúa Nguyễn)
khai phá miền Nam, xáp nhập nhiều vùng và cho di dân vào cư
trú. Các địa danh như Đồng Nai, Gia Định thường bị lẫn lộn.
Sài Gòn có nhiều tên trong lịch sử. Trong thế kỷ 18-19, Sài
Gòn là địa danh cho vùng Chợ Lớn bây giờ, trong khi Bến Nghé
là địa danh cho vùng Sài Gòn bây giờ (Sơn 2006, 250, 446). Năm
1790, trong cuộc chiến với triều ̣đình Tây Sơn, Nguyễn Ánh chiếm
được vùng Gia Định (không phải là chỉ là Gia Định trong thế
kỷ thứ 20 mà là vùng bắc của miền Nam bấy giờ). Nguyễn Ánh
chọn Sài Gòn là kinh đô, và cho xây Gia Định Kinh, còn gọi là
Thành Bát Quái, hoặc Quy Thành (từ Long, Lân, Quy, Phụng), vì
có tám mặt hướng ra tám phía (Sơn 2006, 71, 244-245; Wikipedia
2013). Thành Bát Quái sau đó bị phá năm 1835 sau cuộc nổi loạn
thất bại của Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt. Thành Bát
Quái được thay bằng Phụng Thành (Phụng đi sau Quy), nhỏ hơn và
có bốn mặt. Phụng Thành sau đó bị phá hủy bởi Pháp vào năm
1859 (Wikipedia 2014a). Trong khoảng thời gian thành Bát Quái hiện
hữu từ năm 1790 đến năm 1835, Sài Gòn phát triển mau lẹ, dân cư
đông đảo, và đường xá, chợ búa được mở mang. Vì vậy, câu
"tám nẻo đường thành" có thể chỉ đường xá qua lại tám cửa
thành của thành Bát Quái, là trọng tâm sinh hoạt ở Sài Gòn.
Nhóm chữ "tám nẻo đường thành" do đó có thể được dân miền Nam
dùng để chỉ phố xá Sài Gòn từ đầu thế kỷ 19, và lối dùng
đó được duy trì cho đến nay.
B. Bài hát ghi
nhận những hình ảnh bi thương và khốc liệt tại Sài Gòn và
biểu hiện bản chất nhân bản của dân miền Nam đối với kẻ thù
Bài hát kể lể những tàn phá, tang tóc, và đau thương xảy ra
trong trận chiến vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Lời ca mô tả
cảnh tại Sài Gòn, nhưng ta có thể hiểu những cảnh tương tự
xảy ra ở các nơi khác, và có thể còn tệ hại hơn, như ở Huế.
Lời nhạc và giai điệu mang nỗi niềm tha thiết, buồn bã, gây
cảm xúc cho khán giả, nhất là với những người có kinh nghiệm
bản thân về Tết Mậu Thân. Với các khán giả không trải qua cuộc
chiến tranh hoặc không có những kinh nghiệm đau thương buồn thảm
về cuộc chiến, bài hát có thể không gây được nhiều xúc động.
Nhưng ít nhất bài hát cho khán giả hiểu được cảnh tang tóc,
nỗi niềm người dân miền Nam trong cuộc chiến và biết được sự
tàn bạo của cộng sản.
Mở đầu bài hát, Hoài Linh mô tả cảnh khốc liệt của cuộc chiến bằng tiếng khóc em bé, sợ hãi vì bom đạn ("Bé thơ ơi! Bé thơ ơi! Nín đi đừng khóc.")
Không có gì thê thảm bằng nghe tiếng trẻ con khóc trong cảnh
bom đạn mịt mù. Ai nghe tiếng khóc em bé trong cảnh chiến tranh
cũng không thể kềm lòng được, và xót xa cho những tàn phá chia
cách do chiến tranh tạo ra ("Xót xa nhiều trào thêm nước mắt/ Chiến tranh nào mà không tan nát.")
Như trong mọi cuộc chiến tranh, người bị thiệt thòi nhiều nhất
là dân chúng vô tội. Ngoài ra, khi hai phe đánh nhau trong thành
phố, chính những người dân nghèo là nạn nhân đầu tiên. Nhà cửa
bị thiêu đốt, người chết vì bom đạn, dân chạy tìm chỗ ẩn
náu. Tại Sài Gòn, nhà cửa bị cộng sản hoặc bom đạn thiêu đốt
tại các khu đông dân cư trong Chợ Lớn, Gia Định. Khi lửa khói
càng bốc lên cao, nhà cửa càng bị tiêu hủy mau lẹ, người dân
đã nghèo mà bây giờ lại còn trắng tay, mất nơi nương tựa, ngơ
ngác chạy loạn ("Khói lên cao trắng tay mau dân nghèo lơ láo.") Còn gì đau thương bằng người vợ mất chồng, trẻ thơ mất cha, lại lâm vào cảnh không nhà không cửa? ("Mẹ bồng con giờ về đâu/ Nhìn vành tang, con quấn ngang đầu!").
Hình 2 (VNAF) cho thấy cảnh các chiến sĩ Biệt Động Quân VNCH
đang chăm sóc một phụ nữ bị thương do Việt cộng bắn. Ta thấy
người dân chạy tị nạn gồng gánh đồ đạc tài sản. Phía xa, lửa
cháy trong một khu nhà.
Ta nên hiểu là trong cuộc tổng công kích Tế́t Mậu Thân tại Sài
Gòn, quân cộng sản tấn công thuộc Mặt trận giải phóng, thường
gọi là Việt cộng (VC). Cuộc chiến trong thành phố rất là khó
khăn cho quân đội VNCH vì VC núp trong nhà dân khiến cho lính VNCH
rất cực nhọc truy nã vì sợ gây tai họa cho sinh mạng và tài
sản dân chúng. Ngoài ra, VC thường trá hình là dân thường và
không mặc binh phục. Do đó, rất khó phân biệt dân và Việt cộng.
Thường thì khó mà biết được xác chết nằm trên đường phố là
dân hay giặc. trừ phi có những chứng cớ như vũ khí, súng đạn,
nhu liệu, hoặc thực phẩm cá nhân.
Trong một cảnh, xác một tên VC, vì có mang cơm gói trong giấy, nằm hai ngày bên một căn nhà đang bị cháy ("Xác ai đây chết hôm qua đến nay còn thấy/ Vắt cơm gầy nằm trong gói giấy/ Dưới chân tường nhà ai đang cháy.")
Ở đây, Hoài Linh dùng câu hỏi tu từ (rhetorical question) với câu
"Xác ai đây . . ." Với câu kế tiếp cho thấy kẻ chết mang cơm
trong gói giấy, ta hiểu ngay xác chết đó là xác của VC vì chỉ
có du kích VC mang cơm trong người khi tấn công theo lối du kích,
bắn và trốn chạy. Ta cũng thấy chuyện đó phù hợp với kế
hoạch cộng sản bắt lực lượng đặc công chiếm vị trí mục tiêu
và ráng giữ mục tiêu chiếm đóng trong một thời gian chờ quân
tăng viện. Do đó, lính đặc công thường mang lương thực trong
người phòng khi phải cố thủ một hai ngày chờ quân tăng viện.
Khi màn đêm rơi xuống, hỏa châu trái sáng thả rực trời như đèn chiếu sáng đường xá ("Ðốt đêm đen, trái châu treo thay đèn lấp lánh.")
Từ cầu chữ Y tới Hàng Xanh, bên xa lộ, lửa bạo tàn cháy khắp
nơi, hủy diệt nhà cửa dân, trên khắp tám nẻo đường thành ("Cầu chữ Y, lộ Hàng Xanh/ Lửa bạo thiêu tám nẻo đường thành.")
Trận chiến bùng nổ vào ngày Tết thiêng liêng của người Việt.
Quân cộng sản lừa đảo tuyên bố ngừng bắn, rồi vi phạm chính
lời tuyên bố của họ, tạo ra bao cảnh tang tóc cho dân lành ("Ðầu Xuân súng nổ reo rắc tóc tang.")
Những ngọn lửa trận chiến do bom đạn và nhiều khi do chính
hành động cố tình của cộng quân đã thiêu đốt phố xá thanh
bình ("Giờ đây nhúm lửa thiêu đốt phố phường.")
Ôi, đau thương sao khi những cây súng bắn chết trẻ thơ trong giấc ngủ hoặc làm tan xác những bà mẹ hiền ("Súng nào giết trẻ đêm đen/ Súng nào banh xác mẹ hiền.")
Hoài Linh không kết tội trực tiếp VC là những kẻ nổ súng
giết trẻ em và phụ nữ. Thay vì vậy ông hỏi, "Súng nào?" Ta
thấy Hoài Linh dùng câu hỏi tu từ lần nữa. Ông dùng "đêm đen"
không những cho thấy súng nổ vào ban đêm mà còn vẽ ra hình ảnh
thảm khốc của cảnh giết người vì trẻ em vào đêm thường ngủ
say. Hình ảnh trẻ em bị chết trong lúc đang ngủ giấc ngủ ngây
thơ là hình ảnh bi thương nhất trong chiến tranh. Với "banh xác,"
tác giả còn cho thấy sự tàn bạo của cộng sản. Không những
họ giết dân vô tội, họ còn giết trẻ em đang say ngủ và bắn
xối xả làm tan xác bà mẹ. Đây có thể là một cảnh tiêu biểu
cho công tác ám sát của cộng sản. Các chi tiết như súng nổ ban
đêm, bắn tan xác phụ nữ và trẻ em, hướng vào hành động ám
sát lén lút.
Đó không phải là tai nạn của chiến tranh. Chuyện cộng sản dùng
bạo lực giết dân lành, gia đình của sĩ quan, binh sĩ và nhân
viên chính quyền miền Nam, đầy rẫy. Nhắc đến Tết Mậu Thân, ít
người có thể quên được tấm ảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan hành
quyết một đặc công cộng sản, coi là Đại úy VC Bẩy Lốp Nguyễn
Văn Lém. (Cho tới nay, vẫn chưa có xác định rõ ràng tên VC trong
hình là Bẩy Lốp.) Câu chuyện của tướng Loan và Eddie Adams,
nhiếp ảnh gia chụp bức ảnh, đã được truyền bá rộng rãi (Xem,
thí dụ như, Nguyễn Ngọc Chính 2012; Robbins 2010, 151-163). Chuyện
tên VC bị hành quyết có phải là Bẩy Lốp hay không, hoặc tại
sao tướng Loan hành quyết hắn, không quan trọng trong mục tiêu
bài này. Cái đáng nói là những gì mà Bẩy Lốp làm. Theo nhân
chứng, Bẩy Lốp dùng trẻ em là bia đỡ đạn cho đồng bọn hắn
chạy thoát lúc đánh nhau; hắn bị bắt trong lúc đang giết 34
người trong gia đình các nhân viên cảnh sát và quẳng xác họ
vào rãnh; hắn giết trung tá Nguyễn Tuấn và cả gia đình ông,
kể cả bà mẹ 80 tuổi vì vị sĩ quan VNCH không chịu chỉ cho hắn
cách khởi động xe tăng (Robbins 2010,154-156). Bẩy Lốp không phải
là một trường hợp đặc biệt. Đã có hàng ngàn, hàng vạn
chứng tích quân cộng sản tàn nhẫn giết phụ nữ trẻ em, người
già, và dân vô tội, kể cả cuộc thảm sát Mậu Thân tại Huế.
Phương châm cộng sản là "Lấy cứu cánh biện minh phương tiện." Do
đó, họ không cần đếm xỉa gì đến cách thức họ dùng đề đạt
mục tiêu. Ta thấy ngay cái sai lầm của phương châm này. Cho dù
cứu cánh (mục tiêu) họ đúng, phương tiện họ dùng thường là sai
lầm và làm tiêu tan cái cứu cánh của họ. Đó là không kể đa
số mục tiêu họ là sai lầm, vì chúng dựa trên lý thuyết sai
lầm. Những lãnh tụ cộng sản còn dùng chiến thuật lừa đảo
gian trá để kích động những kẻ đi theo mình. Ngoài ra, những
người đi theo cộng sản quen với tuyên truyền và tẩy não nên họ
mất đi khả năng lý luận hoặc phân tích các lý thuyết cộng
sản. Họ trở nên mù quáng và không biết hoặc không dám thách
thức quyền lực.
Trong thời chiến, họ giết người dân vô tội không gớm tay vì họ
cho rằng cái cứu cánh thống nhất đất nước quan trọng nhất,
hoặc họ bị thuyết phục nghĩ rằng đánh cho "Mỹ cút ngụy nhào"
là mục tiêu tối thượng. Trong thời bình, các lãnh tụ cộng
sản chỉ muốn Đảng cộng sản tồn tại và làm đủ cách để giữ
gìn chuyện đó để phục vụ mục tiêu lợi ích cá nhân. Người dân
sống dưới chế độ cộng sản chịu sự áp bức, tuyên truyền, và
tẩy não để trở thành những con cừu non. Sự tàn phá trí tuệ
của hàng triệu thanh thiếu niên nam nữ ưu tú của Việt Nam thật
là ghê rợn, còn tàn bạo hơn giết người trong máu lạnh vì nó
tiêu hủy cả một dân tộc.
Do đó, trong khung cảnh cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, đối
với người cộng sản, chuyện giết vài người hàng đêm, bắt cóc
dân vô tội làm họ biến mất khỏi trái đất là chuyện bình
thường, chỉ làm thêm mồ mả ("Một lần đêm vài tan biến mộ dầy thêm.")
Người cộng sản đã gây ra tang tóc trên đất nước Việt Nam từ
ngày họ cướp đoạt chính quyển bất hợp pháp năm 1945 và đã
khiến quê hương than khóc cho cảnh binh đao máu lửa suốt hơn hai
mươi năm từ đó ("Khóc quê hương suốt hai mươi năm ngoài lửa khói.")
Với những tội ác không kể xiết này, người cộng sản ̣đáng bị
nguyền rủa. Nhưng, một cách kỳ lạ, Hoài Linh dùng lời lẽ
thật nhẹ nhàng ("cũng do một bàn tay anh mãi/ nếu xa lạ thì không ai nói.")
Tại sao Hoài Linh chỉ dùng lời lẽ trách móc nhẹ nhàng sau khi mô tả cảnh tượng hãi hùng của tội ác kẻ thù?
Đó là do bản chất nhân bản cố hữu của người miền Nam trước năm 1975.
Ta thấy tính chất nhân bản này xuất hiện trong hầu hết các
bản nhạc miền Nam trước 1975. Lời nhạc rất ít khi chửi rủa
quân thù, hoặc thúc giục quân dân chém giết kẻ thù. Ta đã thấy
chuyện đó trong bài "Một mai giã từ vũ khí" mà tôi có
dịp trình bày trước đây (Cao-Đắc 2014b). Hoài Linh làm nổi bật
tính chất đó khi gọi người cộng sản, kẻ thù mình, là "anh"
và lại còn cho thấy "anh" không phải là kẻ ngoại bang xa lạ
gì, mà anh cũng là người cùng giòng máu Lạc Hồng. Câu "nếu xa
lạ thì không ai nói" là lời nhắc nhở đến mối liên hệ thiêng liêng
đó. Với cách gọi "anh" và lời nhắc nhở "không xa lạ," Hoài
Linh bộc lộ tâm tình hiền hòa của người dân miền Nam.
Thực ra, câu "cũng do một bàn tay anh mãi/ nếu xa lạ thì không ai nói"
không hẳn là lời trách móc nhẹ nhàng. Tác giả trước đó mô
tả tội ác giết người tàn bạo của VC bằng lời lẽ giải phẫu
chính xác. Do đó, ông không trách móc họ. Ông kết tội họ bằng
cách nói, "Chính các anh là người tạo ra những tội ác này, mặc dù các anh và chúng tôi là anh em có cùng mẹ Việt Nam."
Lời kết tội của ông không có sự hận thù ghét bỏ, mà là lời
nghiêm khắc vạch ra cái sai lầm của người anh em cùng giòng
máu, và kêu gọi người anh em đó cải tà quy chánh để chấm dứt
cảnh đau thương trên đất nước. Đó là tính chất nhân bản của
người dân miền Nam.
Bằng lối nói tu từ, Hoài Linh thách thức người anh em coi lại
hành động tàn bạo của mình đã giết biết bao nhiêu người dân vô
tội ("Ðếm đi anh, đếm đi anh/ Bao hồn oan đó."). Một lần
nữa, ông không nguyền rủa kẻ thù mà chỉ kêu gọi họ hãy thức
tỉnh để nhận ra là họ đã giết chết biết bao nhiêu dân vô tội.
Những hành động tàn bạo đó không tốt đẹp gì vì mộ chôn người
là hình ảnh xấu xa, nhất là bên bãi cỏ úa vàng ("Mồ chẳng xinh, cỏ chẳng xanh.") Các tội ác đó sẽ được ghi vào sử sách qua bia miệng ngàn đời ("Người nghìn sau nhắc chuyện đường thành.")
"Tám Nẻo Đường Thành" là một nhân chứng lịch sử, ghi nhận
chính xác những gì xảy ra trong cuộc tổng công kích của cộng
sản vào ngày lễ thiêng liêng Tết Mậu Thân năm 1968, cảnh tàn
phá điêu linh, nỗi đau thương tang tóc của dân nghèo vô tội. Bài
hát cũng cho thấy tính chất nhân bản của người miền Nam trong
phản ứng về sự tàn bạo dã man của người cộng sản.
C. Lối diễn
tả chi tiết, tuy có vài chữ dùng khác thường, và cách dùng
mỹ từ vẽ ra hình ảnh tàn khốc đau thương
Hoài Linh có khả năng diễn tả ý tưởng thật tài tình. Tôi đã
trình bày tài viết của ông trong bài trước về bản nhạc "Về Đâu Mái Tóc Người Thương" (Cao-Đắc 2014a). Bài "Tám Nẻo Đường Thành" không sánh được với "Về Đâu Mái Tóc Người Thương" về khía cạnh văn chương của lời nhạc, nhưng cũng có nhiều điểm đặc sắc đáng ghi chú.
Trước hết, Hoài Linh áp dụng triệt để kỹ thuật "Cho Thấy,
Đừng Kể" khi tả những hậu quả bi thương của chiến tranh và sự
tàn ác của cộng sản. Những nhóm chữ "khói lên cao," "dân nghèo
lơ láo," "mẹ bồng con," "vành tang, con quấn ngang đầu," "nhà ai đang
cháy," "đốt đêm đen," "súng nổ," "nhúm lửa," "giết trẻ đêm đen," "banh
xác mẹ," là những mô tả cho thấy cái tàn khốc một cách cụ
thể. Với những mô tả đó, ai cũng có thể hình dung cảnh dân
lành chạy loạn khi nhà cháy và súng nổ vang trời.
Hoài Linh mô tả với những chi tiết rõ rệt và cụ thể, làm
hình ảnh trở nên sống động. Cách dùng chữ của ông cũng rất
độc đáo, làm tăng thêm nét đặc thù của cảnh tượng. Thí dụ "lơ
láo" là chữ rất hay, cho thấy hình ảnh lạc lõng, ngơ ngác
của người dân nghèo chợt nhận ra mình đã mất nhà cửa, và
phải đi tìm nơi trú ẩn. "Trái châu treo" cho thấy những hỏa châu
lơ lửng trên bầu trời. "Banh xác" có ý nghĩa mạnh bạo, tượng
hình, cho thấy xác người bị bắn tan nát. "Lửa bạo" là lối
dùng lạ nhưng hữu hiệu vì nó cho thấy ngọn lửa hung bạo thiêu
đốt phố phường.
Tuy nhiên, có vài từ ngữ dùng khác thường, có vẻ gượng ép,
và không tạo tác dụng hiệu quả vì lối dùng lạ, không thông
dụng. Không thông dụng không có nghĩa là dở. Thực ra nhiều khi
không thông dụng còn làm cách diễn tả độc đáo. Tuy nhiên, một
nguy hại của không thông dụng là không giúp cho khán giả tưởng
tượng ra được hình ảnh đang tả vì sự so sánh khác thường. Thí
dụ như "vắt cơm gầy," "mộ dầy thêm" là các nhóm chữ lạ. Ít ai
dùng "gầy" để tả sự ít oi của một nắm cơm và cũng ít ai
dùng "dầy" để tả sự đầy ắp của mộ, cho dù là mồ chôn tập
thể. "Mộ chẳng xinh" nghe hơi chướng vì ít ai dùng "xinh" để mô
tả mồ mả, và do đó "chẳng xinh" không nói lên được cái xấu xí
đó. Tương tự, "cỏ chẳng xanh" không vẽ ra ngay được hình ảnh
úa tàn của cỏ. Một cách tổng quát, cách dùng phủ định
(negation) để mô tả cảnh vật, người, sự việc thường thiếu hiệu
quả, vì nó không chính xác. Thí dụ "không đẹp" có nhiều
nghĩa: xấu, dễ thương, dễ nhìn, trung bình, v.v.
Phủ định chỉ nên dùng khi ta thực sự muốn cho thấy cái mơ hồ, thiếu chính xác. Sau đây là vài thí dụ:
1. Dũng bước ra khỏi tòa nhà. Một luổng gió không oi bức
thổi qua mặt anh → Dũng chưa kịp cảm nhận luồng gió mát hay
lạnh, mà chỉ biết là không oi bức có thể vì oi bức là cái
mà anh nghĩ là khí hậu ở ngoài.
2. Tia nhìn không hận thù của nàng làm hắn thở phào nhẹ
nhõm → Hắn đang sợ là nàng nhìn hắn bằng cặp mắt hận thù.
Do đó, không hận thù là điểm chính. Hắn không cần biết tia
nhìn đó có tò mò, ngạc nhiên, lo sợ, miễn là không hận thù
là được.
Thể phủ định do đó chỉ có hiệu quả nếu cái phủ định đó là
ý chính. Ở đây, "chẳng xinh" không nói được cái ý chính đó,
vì như trình bày ở trên, không ai nghĩ là mồ mả xinh xắn hết.
"Cỏ chẳng xanh" thiếu hiệu quả với lý do khác. Cỏ thường xanh.
Cỏ không xanh là khác thường. Do đó cái khác thường đó là ý
chính, cần phải được xác định rõ rệt: cỏ úa? tàn? bẹp dúm?
rải rác? xơ xác?
Tuy nhiên, vài chỗ diễn tả thiếu hiệu quả này không làm suy
giảm nhiều tác dụng kết hợp của các chi tiết sống động và
rõ rệt khác. Ngoài ra, tuy thiếu hiệu quả, những mô tả này
tạo sự chú ý của khán giả và khiến khán giả phải suy nghĩ.
Có thể đó là ý định của tác giả: dùng cách mô tả khác
thường để gây chú ý. Hơn nữa, những từ ngữ này không đến nỗi
tệ, vì khán giả hiểu được ý tưởng. Nhưng nếu lối dùng đó bị
lạm dụng qua cách so sánh khập khiễng hoặc không thích đáng,
sự thiếu hiệu quả sẽ có tác dụng tiêu cực và làm mất đi cái
chân thật và chính xác của cách diễn tả. Do đó, tôi không cổ
võ lối diễn tả này. Tôi không muốn sẽ có những diễn tả như
"giọng ca khúc khuỷu," "cây chẳng vui," "xe chẳng buồn," "nhà
chẳng ngơ ngác," "bầu trời chẳng ngạc nhiên," "giọt mưa thú
vị," "gió chẳng hoành tráng," "vũng nước béo phì," "hơi thở
gầy gò," v.v. Với khuynh hướng văn chương đoạt giải tại Việt Nam
hiện nay, cái hiểm họa này có vẻ sẽ thành sự thật.
Hoài Linh dùng động từ mạnh, có tác dụng hiệu quả: trào, lên,
bồng, quấn, đốt, treo, thiêu, banh. Nên để ý là động từ mạnh
cần phải có chủ từ hoặc túc từ thích đáng. Thí dụ như "đốt"
có chủ từ là nhóm chữ "trái châu treo thay đèn lấp lánh" và
túc từ là "đêm đen." Cả hai chủ từ và túc từ rất thích đáng
vì trái châu tạo ra lửa và đốt đêm làm sáng màn đêm.
Một đặc điểm trong "Tám Nẻo Đường Thành" là cách dùng câu hỏi
tu từ (rhetorical question). Ta thấy tác giả dùng kỹ thuật này
vài lần: "Xác ai đây chết hôm qua đến nay còn thấy," "Súng nào giết trẻ đêm đen/ Súng nào banh xác mẹ hiền," "Ðếm đi anh, đếm đi anh/ Bao hồn oan đó."
Câu hỏi tu từ là một mỹ từ (figure of speech) dưới dạng câu
hỏi để đặt vấn đề chứ không phải để kiếm câu trả lời. Mặc
dù là câu hỏi, câu hỏi tu từ có thể viết là lời tuyên bố với
câu hỏi ngầm và do đó không cần dấu hỏi ở cuối câu.
Với "Xác ai đây chết hôm qua đến nay còn thấy," tác gỉả không
thực sự hỏi ai là người chết, vì tác giả ngầm cho câu trả
lời đó là xác VC khi ông gợi ra lương thực gói trong người.
Bằng cách dùng câu hỏi tu từ và gợi ra câu trả lời, tác giả
lôi cuốn khán giả vào câu chuyện vì khán giả tham gia vào trả
lời câu hỏi. Tương tự, câu "Súng nào giết trẻ đêm đen/ Súng nào banh xác mẹ hiền" không thực sự hỏi súng nào, vì ai cũng biết đó là AK-47 của VC.
Trong "Ðếm đi anh, đếm đi anh/ Bao hồn oan đó," tác giả dùng
biến dạng của câu hỏi tu từ. Ông không đặt nó dưới dạng một
câu hỏi, mà đặt ra một sự việc rõ ràng. Bảo đếm một con số
quá nhiều không thể đếm được là một cách diễn tả tu từ. Lồng
câu đó trong một ngụ ý con số quá nhiều là cách dùng thậm
xưng. Bằng cách phối hợp cả hai lối dùng mỹ từ trong một câu,
Hoài Linh làm nổi bật ý tưởng một cách hiệu quả. Ta hãy xem
vài thí dụ sau đây.
"Tại sao anh giết em với thái độ im lặng như vậy?" (câu hỏi tu từ vì người hỏi không thực sự muốn biết câu trả lời, thậm xưng vì lối dùng "giết").
"Ai là người làm tiêu tan tài sản với mấy ví xách Louis Vuitton đó?" (Ông chồng than phiền bà vợ tiêu xài hoang phí mua sắm đồ đắt tiền.)
Câu hỏi tu từ rất thích hợp trong lối diễn tả về một sự kiện
đau thương vì nó tránh né những lời buộc tội khắt khe. Ngoài
ra, như đã trình bày ở trên, câu hỏi tu từ cho thấy bản chất
nhân bản của người miền Nam khi chất vấn kẻ đã gây ra cảnh đau
thương đó.
Nói tóm lại, tuy có vài từ ngữ thiếu hiệu quả trong việc
diễn tả cảnh tượng, toàn thể ca khúc "Tám Nẻo Đường Thành"
tạo được cảm xúc mạnh cho khán giả qua hình ảnh đau thương của
nạn nhân cuộc chiến trong Tết Mậu Thân tại Sài Gòn. Cách dùng
câu hỏi tu từ rất hiệu quả trong việc quy gán trách nhiệm cho
Việt cộng với lời buộc tội nghiêm khắc nhưng hàm chứa tính
chất nhân bản của người miền Nam.
D. Kết Luận
Ca khúc "Tám nẻo đường thành" là một bài hát ghi nhận biến
cố lịch sử của cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968 do
Việt cộng và cộng sản miền Bắc tổ chức. Bằng lối diễn tả
chi tiế̀t cụ thể, Hoài Linh mô tả sự đau thương tang tóc của
những người dân vô tội ở Sài Gòn, và những hành động dã man
của Việt cộng. Qua cách dùng câu hỏi tu từ, tác giả biểu hiện
bản chất hiền hòa nhân bản của dân miền Nam khi buộc tội Việt
cộng là kẻ tạo ra cảnh chiến tranh điêu tàn.
Tuy không phải là một tác phẩm lịch sử, "Tám Nẻo Đường Thành"
có giá trị lịch sử to lớn vì nó là lời ghi nhận của nhân
chứng đương thời về một sự việc xảy ra. Dưới hình thức là
một bài hát, câu chuyện lịch sử đó được duy trì lâu dài như
các bài dân ca, ca dao. Người ta có thể không nhớ chi tiết một
bài khảo cứu, nhưng lời nhạc thường được nhớ lâu hơn. "Tám Nẻo
Đường Thành" mô tả tính chất dã man tàn bạo của cộng sản
trong chiến tranh Việt Nam, và là bằng chứng hùng hồn cho thấy
lời biện hộ về đảng cộng sản "trước tốt sau xấu" của những
kẻ vỗ ngực là người cách mạng, hoặc những kẻ ăn cơm quốc gia
thờ ma cộng sản, chỉ là những lời chống chế cho bản ngã ngu
muội hoặc hung ác của họ.
CẢM TẠ
Tôi xin có lời cảm tạ các bạn trên trang mạng Dân Làm Báo, nhất là các bạn Sài gòn, daubetangthuong, Enq Dudq, Tieu Son, emSAIGON, mythanh, và bức xúc,
đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp
tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của bạn
bức xúc.
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Berman, Larry. 1996. The Tet Offensive, in "The Tet Offensive."
edited by Marc Jason Gilbert and William Head, Praeger, Connecticut,
U.S.A.
2. Cao-Đắc, Tuấn. 2014a. "Hồn lỡ sa vào đôi mắt em". 6-8-2014.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/08/hon-lo-sa-vao-oi-mat-em.html (truy cập 13-8-2014).
3. Cao-Đắc, Tuấn. 2014b. " Một mai giã từ vũ khí" . 22-8-2014.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/08/mot-mai-gia-tu-vu-khi.html (truy cập 5-9-2014).
4. Currey, Cecil. 1996. Giap and Tet Mau Than 1968: The Year of the
Monkey, in "The Tet Offensive." edited by Marc Jason Gilbert and William
Head, Praeger, Connecticut, U.S.A.
5. Ford, Ronnie E. 1995. Tet 1968: Understanding the Surprise. Frank Cass, New York, U.S.A.
6. Ngô Vinh Long. 1996. The Tet Offensive and Its Aftermath, in "The Tet
Offensive." edited by Marc Jason Gilbert and William Head, Praeger,
Connecticut, U.S.A.
7. Nguyễn Ðạt. 2012. Cầu chữ Y, cây cầu lịch sử. Đăng 16-5-2012.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=148853&zoneid=307#.VFV9Z8J0xLM (truy cập 1-11-2014).
8. Nguyễn Ngọc Chính. 2012. Tướng Nguyễn Ngọc Loan và bức ảnh hành quyết. Đăng 14-10-2012.
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/10/tuong-nguyen-ngoc-loan-va-buc-anh-hanh.html (truy cập 2-11-2014).
9. Nhạc Việt trước 75. Không rõ ngày. Tám Nẻo Đường Thành.
http://amnhacmiennam.blogspot.com/2013/06/tam-neo-uong-thanh-hoai-linh.html (truy cập 3-11-2014).
10. Oberdorfer, Don. 2001. Tet! The Johns Hopkins University Press, Maryland, U.S.A.
11. Phạm Văn Sơn. 2012. Trận chiến Tết Mậu Thân 1968 (phần 8). Đăng 18-11-2012.
http://buonvuidoilinh.wordpress.com/2012/11/18/pham-van-son-tran-chien-tet-mau-than-1968-phan-8/ (truy cập 1-11-2014).
12. Sơn Nam. 2006. Đất Gia Định - Bến Nghé Xưa & Người Sài Gòn. Trẻ, Việt Nam.
13. VNAF. Không rõ ngày. Rememberring ARVN. http://www.vnafmamn.com/ARVN_soldier.html (truy cập 3-11-2014).
14. Willbanks, James H. 2007. The Tet Offensive - A Concise History. Columbia University Press, New York, U.S.A.
15. Wikipedia. 2013. Thành Bát Quái. Sửa đổi chót: 12-7-2013.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh_B%C3%A1t_Qu%C3%A1i (truy cập 2-11-2014).
16. _____ . 2014a. Thành Gia Định (1836-1859). Thay đổi chót: 28-7-2014.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh_Gia_%C4%90%E1%BB%8Bnh_(1836-1859) (truy cập 4-11-2014).
17. _____. 2014b. Ceasefire. Thay đổi chót: 28-9-2014.
http://en.wikipedia.org/wiki/Ceasefire (truy cập 1-11-2014).
© 2014 Cao-Đắc Tuấn
0 comments:
Post a Comment