Người Trung Hoa có một câu châm ngôn: “Thất trận rồi người ta mới đếm xác chết và mới đi tìm người trách nhiệm.”
Phản ứng của người dân, thường hay trút hết trách nhiệm cho người
lãnh đạo hoặc cho người lính chiến. Tại Việt Nam thì cả hai đều có phần
trách nhiệm của mình, nhưng cả hai đều không thể làm gì hơn được với hai
bàn tay trắng vì đã bị người ta tước hết khí giới từ lâu!
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên không thể sản xuất vũ khí được,
do đó trong cuộc chiến, cả hai bên miền Nam và miền Bắc đều bắt buộc
phải nhận sự viện trợ quân sự từ bên ngoài. Do vậy, người ta thường nói
rằng chỉ cần chấm dứt viện trợ ngoại quốc cho cả hai bên Nam và Bắc thì
ngọn lửa chiến tranh ở Việt Nam sẽ yếu dần và đi đến chỗ tàn lụi ngay,
cuộc chiến đương nhiên phải chấm dứt. Nhưng
cũng có người chỉ đứng về một phía, đã khẳng định quá đơn phương, và
khiếm diện rằng chỉ cần người Mỹ, hay đúng hơn là đế quốc Mỹ như người
ta đã cáo buộc, chấm dứt mọi viện trợ kinh tế và quân sự cho miền Nam
Việt Nam, là miền Bắc sẽ chấm dứt cuộc chiến tranh nầy trong chiến
thắng. Và đó là những điều đã xảy ra trên thật tế.
Người ta đã từng cho rằng chiến tranh ở Việt Nam không phải là một
cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc, vì nếu giữa người Việt với
nhau thì không chóng thì chầy họ đã có thể đạt được một sự thỏa thuận
nào đó với nhau rồi. “Nhưng đây là một cuộc chiến tranh giữa các siêu
cường”
Nhưng đây là một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường quốc, mượn tay
người Việt Nam (hay sinh mạng người Việt Nam cũng thế) và ngay trên lãnh
thổ Việt Nam, để so tài hơn thua cao thấp với nhau, ngăn chặn nhau
không cho bên nào bành trướng thêm ra hơn nữa, vì hai bên không thể trực
tiếp đối đầu với nhau được, tránh bị tổn thất nặng có thể đi đến chỗ
tiêu diệt lẫn nhau. Có điều là cả hai bên đều nuôi dưỡng một mối thù hằn
mà nguyên nhân không phải xuất phát từ nước Việt Nam và nước Việt Nam
cũng không có gì để mà thiết tha quan tâm đến.
Hoa Kỳ thì “ngăn chận”,Khối Cộng Sản thì “xâm chiếm, bành trướng”
Người ta có thể thấy được rất rõ là Nga và Trung Quốc vẫn không bao
giờ che dấu tham vọng xâm chiếm toàn cầu của họ theo đúng hướng chiến
lược đã hoạch định trước rất rõ ràng, và nếu Hoa Thịnh Đốn chỉ bo bo
theo sách lược “tạo uy tín và bành trướng kinh tế” thì chiến lược đó của
Hoa Kỳ hoàn toàn nằm trong thế thủ, bị động. Đặc biệt là ở Á Châu, Hoa
kỳ nhất nhất theo thuyết “ngăn chận” các bước tiến của Cộng Sản. Do vậy
mà trên mảnh đất đầy hình ảnh đau thương và tàn khốc của cuộc chiến,
người ta đã “đóng khuôn” cho miền Nam Việt Nam trong nhiệm vụ phòng thủ
thụ động, và các đồng minh lớn của họ không bao giờ muốn cho họ đi ra
ngoài khuôn khổ nhiệm vụ đó, trong khi bộ đội Bắc Việt thì được tung ra
trên khắp cả 3 nước Đông Dương, từ Lào, Cam Bốt đến Miền Nam Việt Nam,
ẩn hình dưới danh nghĩa của lực lượng cách mạng Pathet Lào, Khmer đỏ, và
Việt Cộng, để rồi cuối cùng họ cũng phải bỏ cái mặt nạ của họ ra, hiện
“nguyên hình” là quân xăm lăng Bắc Việt, là kẻ chiến thắng, để tiến vào
Sài Gòn.
Tuy trận tấn công vào tỉnh lỵ Phước Long vào tháng 1-75
của bộ đội Bắc Việt là một cuộc tấn công có giới hạn mà phía Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa một phần vì sợ bị nhử vào bẫy, có thể bị hao quân và
mất thêm chiến cụ, một phần cũng không có đủ lực lượng để đối phó được
với một loại tấn công qui mô như vậy, nên không có phản ứng đối kháng
mạnh, nhưng họ cũng thu lượm được quá đủ bằng cớ để chứng minh với những
ai còn chút nghi ngờ, là “Hoa Kỳ không còn can thiệp vào chiến cuộc
nữa”. Và như vậy là Bắc Việt cho tiến hành ngay cuộc tổng tấn công mùa
xuân với đầy đủ bảo đảm trong một sự an toàn tuyệt đối.
Rõ ràng là Hoa Kỳ đã khuyến khích Bắc Việt bằng thái độ im lặng và
quá thụ động của họ sau vụ tấn công quan trọng vi phạm rất nặng và rất
trắng trợn “Hiệp Định Paris 1973 về Ngừng Bắn và Tái Lập Hòa Bình ở Việt
Nam”. Thật ra, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã được báo động về thái độ
“bất can thiệp” nầy của Hoa Kỳ từ lâu rồi. Trong những tháng 1, 2, và
3-75, đã có nhiều nghị sĩ dân biểu Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam và đã từng
xác nhận với Tổng Thống Thiệu là “viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng
Hòa trong những ngày sắp tới sẽ rất là mong manh trong may rủi”. Mỉa mai
thay, viện trợ nầy trước đó đã được Tổng Thống Hoa Kỳ là ông Nixon long
trọng tuyên hứa với Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa!!!
Những cuộc vận động của Hoa Kỳ
Tại Guam, Tổng Thống Nixon đã công bố kế hoạch 5 điểm trong sách lược
yểm trợ Thế Giới Tự Do của Hoa Kỳ, chính yếu là “cây dù nguyên tử” và
viện trợ đầy đủ vô điều kiện cho tất cả mọi quốc gia dân tộc nào chứng
minh có quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của mình.
Hiệp Định Paris 1973, cuối cùng rồi cũng được Tổng Thống Thiệu bằng
lòng ký tên vào, vì ông không còn có khả năng từ chối thêm lần thứ hai,
dù đó chỉ là trong cung cách ngoại giao thôi, nhưng với những lý lẽ vững
chắc mà ông đưa ra trước khi ký, Tổng Thống Nixon đã phải đích thân
nhận chịu trách nhiệm chẳng những bằng lời nói mà còn cả trên giấy trắng
mực đen nữa:
“Hoa Kỳ sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt
Nam Cộng Hòa để giúp Việt Nam Cộng Hòa đương đầu với mọi biến cố mà vì
không có thiện ý, Bắc Việt sẽ có thể không ngớt tạo ra sau nầy.”
Nếu
trước kia Tổng Thống Nixon đã thật lòng đưa ra lời hứa chắc chắn như
vậy, không có một hậu ý quanh co ngoằn ngoèo nào, thì sau đó với một anh
chàng Kissinger mà ông chưa từng quen biết nhưng vì áp lực từ sự vận
động của cánh Do Thái sau khi ông đắc cử, ông đã trở nên bớt nhiệt tình
hơn nhiều đối với những gì mà ông đã long trọng cam kết với ông Thiệu.
Nhiều cuộc tranh luận gay gắt đã xảy ra trong những cuộc thăm viếng
sau đó, và ông Thiệu đã phải can thiệp thẳng với Nixon để cho thơ từ
công văn của ông, thường không được hồi âm, nay phải được tới tay ông
Nixon mà không đi qua sự kiểm duyệt của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Dã tâm của
Kissinger, một con người mà ai cũng cho là “bạn”, là “tri kỷ”, sau đó
được phát giác tiết lộ ra là: xuyên qua một đệ tam nhân, ông đã có những
lời hứa hẹn cũng như thi hành những cam kết không đồng nhứt với từng
nhân vật cùng có trách nhiệm trong công tác ngăn chận bước tiến của Cộng
Sản Bắc Việt trên bán đảo Đông Dương, như Hoàng Thân Souphana Phouma,
Thống Chế Lon Nol và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Thế nhưng, vụ việc gây nhiều tai tiếng “Watergate” đã đưa
Nixon ra khỏi Nhà Trắng đồng thời giết chết cả thân thế và sự nghiệp
chính trị của ông ta, dẫn đến hậu quả tai hại là những gì ông Nixon đã
cam kết, dù là trên giấy trắng mực đen, đã không còn một chút giá trị
nào nửa. Và sau đó, vào tháng 8-1973, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ
phiếu thuận cho tu chính án “Case-Church” nhằm cắt hết ngân khoản dành
cho mọi viện trợ quân sự cho các quốc gia Đông Nam Á.
Cộng Sản tiến chiếm miền Nam qua hai cửa ngỏ chính: Cam Bốt và Lào
Do vậy, việc Mỹ chánh thức hứa giúp thành lập và trang bị quân đội
Cam Bốt với quân số 205,000 người phải được hủy bỏ. Hình thành được việc
nầy sẽ giúp cho Cam Bốt chẳng những có thừa khả năng dẹp được lực lượng
Khmer Đỏ (tất cả cán bộ khung đều là bộ đội Bắc Việt) mà còn lập lại
được trật tự trong nước, đuổi các sư đoàn Bắc Việt ra khỏi lãnh thổ Cam
Bốt nữa, vì chính các đơn vị xăm lăng Bắc Việt nầy đã tạo ra không khí
cách mạng bất ổn ở nông thôn Cam Bốt, sau đó Hoàng Thân Shianouk đã phải
thoái vị và nước Cộng Hòa Khmer ra đời.
Điều đáng tiếc là ở Cam Bốt cao trào của giới trẻ mà người ta gọi là
“những anh lính chiến giờ thứ 24” đang lên vùn vụt, trong số nầy có
những sinh viên và học sinh lớp 5 lớp 6, tình nguyện ra mặt trận, chiến
đấu rất anh dũng bằng vũ khí tịch thu được của quân ngoại xâm Bắc Việt.
Những người “Khmer Tự Do” nầy (Khmer Krom) đã học và tiêm nhiễm lịch sử
Pháp, rất tự tin và đặt hết lòng tin vào lời hứa của Hoa Kỳ, đã nhất tề
đứng dậy khi tổ quốc lâm nguy, y như người Pháp chúng ta trong những
biến cố cách mạng trong lịch sử vậy. Trong lúc đó tại Thượng Viện Hoa
Kỳ, nghị sĩ Fulright lại tuyên bố là cuộc chiến ở Cam Bốt là một “cuộc
chiến vô đạo đức!” Với một ít ngân khoản vụn vặt du di được đâu đó,
chánh phủ Hoa Kỳ “nhỏ từng giọt” giúp cho Cam Bốt, trong khi những sư
đoàn Bắc Việt ồ ạt viện trợ đúng mức cho các đơn vị “Khmer Đỏ” đang
thành lập, càng ngày càng lớn mạnh thêm lên. Do đó quân lực Cộng Hòa
Khmer bị tiêu hao lần lần để đi đến sụp đổ, và ngày 1-4-75, Thống Chế
Lon Nol phải “chạy” khỏi thủ đô Cam Bốt, sau đó Phnom Penh bị thất thủ
vào ngày 10-4-75. Cũng trong thời gian nầy, nỗ lực thành lập một chánh
phủ “liên hiệp 3 thành phần” tại Vương Quốc Lào bị thất bại và Cộng Sản
Pathet Lào lên nắm chánh quyền, tuyên bố không chấp nhận sự có mặt của
người Mỹ tại đây.
Người ta thường hay nói chiến tranh ở Việt Nam chỉ là một cuộc nội
chiến, rất hạn chế giữa người Việt và người Việt mà thôi. Nhưng đến cuối
cùng sự thật cho thấy không phải như vậy. Cam Bốt là mục tiêu chủ yếu,
là bàn đạp quan trọng hàng đầu để từ đó Cộng Sản tiến chiếm miền Nam
Việt Nam, và theo quan điểm từ đầu của Hà Nội thì mục tiêu không phải
chỉ có miền Nam Việt Nam mà phải là toàn bộ bán đảo Đông Dương, vì đó
mới là giấc mơ thật sự từ lâu của Hồ Chí Minh.
Việc chiếm giữ các tỉnh miền Đông của cả hai quốc gia Lào và Cam Bốt
là chỉ nhằm dọn đường cho công tác tiếp vận của quân đội Bắc Việt. Sau
khi Hiệp Định Paris 1973 được ký kết, trong thời gian hơn một tháng, hệ
thống đường mòn thường gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” được họ cải tiến,
mở rộng và trải đá suốt cả tuyến đường, để từ Hà Nội, Bắc Việt có thể
đưa quân lính, chiến cụ, đạn dược cũng như xăng nhớt, đến một nơi chỉ
còn cách Sài Gòn dưới 100 cây số (Lộc Ninh) mà chỉ mất trên dưới có 5
ngày đường. Các sư đoàn Bắc Việt đóng quân thường xuyên dọc theo biên
giới Lào và Cam Bốt, trên các cao điểm từ Bắc xuống Nam, từ đó lúc nào
cũng sẵn sàng tấn công xuống Miền Nam Việt Nam, một lãnh thổ quá dài mà
bề ngang quá hẹp, có đoạn dưới 100 cây số tính từ miền núi xuống đến
biển, nên thủ đô Việt Nam Cộng Hòa luôn bị đe dọa vì Sài Gòn chỉ cách
biên giới Lào-Khmer không quá 100 cây số ngàn, cũng giống y như hiệp ước
đình chiến 1919 của nước Pháp chúng ta đã “bị” để cho các đơn vị Đức
đóng quân ở vùng Aisne và La Marne vậy.
Ngày 10-4 thủ đô Phnom Penh bị thất thủ, ở Vientiane thì một chánh
phủ Cộng Sản đã lên cầm quyền, trong khi Vùng I và Vùng II của Việt Nam
Cộng Hòa cũng đã bị rơi vào tay Bắc Việt, như vậy Hà Nội được quá rảnh
tay để sẵn sàng đưa quân tràn xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Hoa Kỳ sẽ không can thiệp nữa
Nhưng vẫn còn một yếu tố chưa biết rõ được: đó là phản ứng của Hoa
Kỳ. Trước đó, ngày 21-3-75, chánh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc
Việt), trong một bản tuyên bố, đã yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ chấm dứt tất
cả mọi dính líu quân sự và mọi hành động can thiệp vào việc nội bộ của
Miền Nam Việt Nam. Ngày 25-3-75, Tổng Thống Ford gởi đến Sài Gòn tướng
Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ. Tướng Weyand có vẻ thuận cho
một hành động tiếp ứng tuy hơi muộn nhưng hữu hiệu bằng cách cho lệnh
thiết lập hai cầu không vận Bangkok-Saigon và Manila-Saigon, để kịp tiếp
vận cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 3-4-75, trong một cuộc
họp báo, Tổng Thống Ford tuyên bố là ông sẽ không bỏ rơi Đông Nam Á.
Ông nói không nhất thiết ông Thiệu phải rời khỏi chánh quyền, nhưng ông
cũng bảo đảm thêm rằng cho dù có một sự thay đổi nào đó của cấp lãnh đạo
Việt Nam Cộng Hòa thì sự việc đó cũng không thay đổi được nỗ lực của
Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Ngày 10-4-75, ngay lúc Phnom Penh thất thủ, trong bài diễn văn đọc
trước Quốc Hội, Ông cho biết là ông có ý định tiếp tục cuộc chiến ở Việt
Nam, và tiếp tục ủng hộ chánh phủ Thiệu. Ông đề nghị với Quốc
Hội một ngân khoản viện trợ quân sự 722 triệu đô la, và một ngân khoản
viện trợ kinh tế là 250 triệu. Các nghị sĩ Stevenson, Humphrey, Jackson,
Mc Govern và Kennedy đều chống lại đề nghị nầy. Gần như Quốc Hội Hoa Kỳ
đã mặc nhiên bỏ rơi cả ông Ford. Thế là hết ! Hoa Kỳ sẽ không can
thiệp, và những quốc gia đã từng ký tên bảo đảm cho việc thi hành Hiệp
Định Paris 1973 cũng giữ một sự im lặng hoàn toàn! Còn nước
Pháp thì xuyên qua lời tuyên bố của Tổng Trưởng Ngoại Giao tại Dublin,
trước một số ngoại trưởng phần đông đều không muốn chen sâu vào việc nội
bộ của một nước khác, thì lại tỏ ý muốn thấy Tướng Thiệu rút lui, một
điều rất trùng hợp với sự mong muốn của Cộng Sản Bắc Việt, vì dưới con
mắt của họ Tướng Thiệu là biểu tượng của một tinh thần chống Cộng cực
đoan, chống đến giọt máu cuối cùng.
Như vậy là thật sự Bắc Việt nay đã được rảnh tay trong hành động rồi.
Họ đã được bảo đảm là Hoa Kỳ sẽ không còn can thiệp được nữa. Họ cũng
đã thấy một sự tán thành ngấm ngầm của các nước khác, không những trong
khối Cộng Sản mà còn có cả các quốc gia cấp tiến, tự do nữa, trong đó dĩ
nhiên là có cả nước Pháp. Với tất cả mọi điều kiện thuận lợi chánh trị
và quân sự như thế, Bắc Việt quyết định cho tiến hành ngay “chiến dịch
Hồ Chí Minh”, không cần phải mất thêm thời gian chờ thành lập một “chánh
phủ ba thành phần”, để nhanh chóng thôn tính cả bán đảo Đông Dương trên
cả hai phương diện quân sự và chánh trị.
Đúng như họ tuyên bố đây là một cơ hội ngàn năm mới chỉ có một lần !
Vậy liệu người ta có nghi ngờ là người Mỹ đã phản bội đồng minh ? Nhân
vật chính yếu liên can trong nội vụ là Tổng Thống Thiệu, người biết rõ
nhiều về những lời hứa hẹn, cam kết, và thi hành. Ông đã công khai nêu
rõ trước dư luận mà Hoa Kỳ không dám có một tiếng trả lời, có chăng chỉ
là những lời an ủi cam kết quá muộn màng của một mối tình bạn bè, một
mối tình loại “qua đường!”
Ông
Thiệu là người không muốn chơi trò người hùng, cũng không thích biểu
tình hoan hô rầm rộ, nhưng rất nhạy cảm với lòng tin tưởng sâu đậm của
đồng bào miền Nam, bây giờ ván bài đã ngã ngũ, ông đã thua cả về chánh
trị lẫn quân sự, nên ông quyết định phải rời quê hương mà ông đã từng
hiến dâng tất cả. Với một tâm hồn chết lặng ông nói lên những lời từ
biệt cuối cùng. Những lời lẽ thật cảm động của ông được truyền đi trên
đài phát thanh làm cho những người dù cứng lòng đến đâu cũng phải nhỏ
lệ, ngay những người đã từng muốn ông phải từ chức cũng vậy. Ông ra đi,
mang theo sự tin yêu và lòng mến phục của dân chúng miền Nam mà từ đây
không có ông, họ sẽ cảm thấy mất mát một cái gì … Đối với người Mỹ,
ông đã có những sỉ vả thật dữ dội và nặng nề:
- Tôi đã nói với họ (Hoa Kỳ) rằng: Các ông muốn rút chân
ra khỏi cuộc chiến ở Việt Nam trong danh dự, mà các ông đòi hỏi chúng
tôi những điều thật vô lý không thể làm được chút nào. Đánh giặc mà viện
trợ quân sự cứ nay bị cắt mai bị xén mốt bị cúp mãi như thế, thì có
khác nào chỉ cho tôi mỗi ngày có 3 đồng mà bảo tôi phải ăn tiêu như một
ông hoàng hay một người khách du lịch sang trọng! Các ông muốn chúng tôi
hôm nay với một “xu ăn mày” phải làm được những gì mà ngày hôm qua các
ông không sao làm được với ngân khoản 6 tỷ đô la …! Tôi đã nói với họ
rằng câu hỏi duy nhất hiện giờ là liệu Hoa Kỳ có quyết định giữ những gì
mà Hoa Kỳ đã cam kết với Việt Nam Cộng Hòa hay không? Và liệu những lời
nói và chữ ký của Tổng Thống Hoa Kỳ còn có chút giá trị gì nữa hay
không!
Thế là quá rõ, Hoa Kỳ thật sự đã phản bội…..
Ngạo mạn và ngu xuẩn, lưỡng viện Hoa Kỳ đã nói lên sự vui mừng của họ
về sự từ chức của ông Thiệu, vì họ nghĩ nhờ đó sẽ có khả năng “đạt được
một nền hòa bình nào đó trong thương lượng” với Cộng Sản, trong giới
hạn một thời gian nào đó, “với đường lối chánh trị mềm dẻo hơn, để làm
giảm đi những chết chóc vô ích, và nhất là để bảo vệ cho những người Mỹ
hiện còn tại miền Nam Việt Nam”. Nước Pháp cũng có một thái độ tương tự,
vì hoàn toàn không nắm vững được tình hình và cũng vì quyền lợi của
chính nước Pháp. Đối với Hoa Kỳ, trên thế giới nầy tất cả đều có thể bị
mất hết, chỉ riêng có người công dân Mỹ, được coi như thần thánh, là
không thể mất được.
Ngũ Giác Đài không chấp nhận như vậy
Các cấp chỉ huy quân sự của Ngũ Giác Đài cũng như các cấp quân nhân
đã từng tham chiến bên cạnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không đồng ý về
những hành động của Hoa Kỳ, vì tình cảm gắn bó với người chiến hữu Việt
Nam cũng như gắn bó với quốc gia nầy, giống như người Pháp chúng ta vậy.
Họ có cố gắng thử giúp đỡ cho Việt Nam một cái gì đó, nhưng người ta đã
ngăn cấm họ. Họ chỉ còn có một cách là càu nhàu, và sự hằn thù trong
căm lặng nầy mãi mãi sẽ là một yếu tố của tình trạng phân hóa tại Hoa
Kỳ.
Bốn năm trước đó, dựa theo bản tuyên ngôn Guam của Tổng Thống Nixon,
Ngũ Giác Đài đã soạn thảo một quan niệm mới cho chiến lược ở Á Châu. Bây
giờ thì bắt buộc họ phải duyệt xét lại để giảm bớt khả năng tiềm lực
quân sự của Hoa Kỳ: đó là bỏ cả các căn cứ ở lục địa Á Châu và các quốc
gia đồng minh “nhược tiểu”, dùng Nhật Bản và Úc Châu như những pháo đài
phòng thủ cho lục địa Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương. Dầu sao, theo họ nói,
đó là một quyết định cấp quốc gia mà họ là những người chịu trách nhiệm,
không thể cưỡng lại được: “quân nhân chúng tôi trước quyết định như vậy
không thể làm gì hơn là phải thi hành, dù dư luận Mỹ có cho rằng Hoa Kỳ
không nên sửa đổi chiến lược như vậy.” Hoa Kỳ đã không làm đúng lời
hứa của họ. Họ đã phản bội những người mà chính họ đã đưa vào cuộc
chiến, một cuộc chiến mà họ chẳng những phải tốn quá nhiều đô la mà còn
phải hy sinh gần 60 ngàn quân nhân các cấp (chưa tính thương binh) để
chỉ đem về một “con số không” to tướng. Nói như thế có gì quá đáng lắm
không?
Tướng Westmoreland, cựu chỉ huy trưởng lực lượng Mỹ tại Việt Nam thì
phát biểu có phần nào nhẹ lời hơn cho Hoa Kỳ, nhưng cũng đã quy trách
nặng nề cho giới chánh trị về hành động làm mất hết danh dự của Mỹ:
“Miền Nam Việt Nam phải chăng không thể tránh được một sự chiến bại?
Vâng, đúng như vậy. Nhưng chúng ta phải xét lại tình hình: Bắc Việt đã
vi phạm hoàn toàn Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ hoàn toàn bất lực trên
phương diện chánh trị, và các quốc gia có nhiệm vụ bảo đảm việc thi hành
Hiệp Định thì hoàn toàn im lặng không nhúc nhích.”
Người ta phải nhìn những cảnh cướp xe, hôi của, dọn sạch nhà cửa,
phòng ốc hay kho tàng của người Mỹ tại Sài Gòn, thì mới thật sự thấy
được mức độ thù ghét Hoa Kỳ của cả một dân tộc. Người ta phải nhìn cảnh
ông Martin, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc rời khỏi Việt Nam sau khi cho
di tản xong xuôi người Mỹ cuối cùng, thì mới thấy được cả một sự thẹn
thùng nhục nhã của Hoa Kỳ trên nét mặt xanh xao như người chết của ông.
Và người ta cũng phải nhìn thấy cảnh một người Việt Nam kéo lê bằng hai
ngón tay lá cờ Mỹ to lớn của tòa Đại Sứ Mỹ để dìm xuống rạch những “50
sao và 13 vạch” mà người Mỹ thường hãnh diện.
Tổng Thống Hoa Kỳ, Ông Ford, đã từng nói: “Chúng tôi không thể bỏ được những người bạn của chúng tôi.”
Nhưng nói là nói như vậy, mà họ lại không làm đúng như vậy!
Tổng thống Nixon từng đe dọa “cắt đầu” Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (Nguồn: BBCVietnamese.com)
‘Tôi không rõ đe dọa đó có đủ hay không, nhưng tôi sẵn sàng làm bất
cứ điều gì, kể cả cắt đầu của y nếu cần thiết’. (Lời Tổng thống Nixon đe
dọa Tổng thống Thiệu).
***
Các cuốn băng ghi âm từ năm 1973 được giải mật cho thấy Tổng thống
Richard Nixon đã muốn đạt được thỏa thuận tại Hòa đàm Paris với Hà Nội
bằng mọi giá và gây sức ép rất lớn đối với Sài Gòn.
Một đoạn băng trong số 150 giờ thu âm và 30 nghìn trang tài liệu được
Thư viện Nixon công bố hôm thứ Ba vừa qua có lời của Tổng thống Nixon
nói với Cố vấn An ninh Henry A. Kissinger về Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu.
Nixon nói để bắt Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ký vào hòa đàm, ông sẵn
sàng ‘cắt đầu y nếu cần thiết’ (cut off his head if necessary).
Bài của Shaun Tandon trên AFP hôm 23 tháng 06 thì mô tả ông Nixon đã
yêu cầu ông Kissinger nói với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa rằng Quốc hội
Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Sài Gòn không đồng ý với kết quả hòa đàm.
Nhưng có vẻ như ông Nixon sẵn sàng làm mạnh hơn nếu lời đe dọa cắt viện trợ không đạt mục đích.
Các đoạn băng cũng cho thấy một thứ ngôn ngữ rất “Kissinger” mà Cố vấn An ninh của Tổng thống Hoa Kỳ dùng để nói về đồng minh.
Ông Kissinger nói với Tổng thống về Ngoại trưởng Trần Văn Lắm của Nam Việt Nam, người có mặt khi đó tại Paris để dự họp.
Dùng từ tục để gọi ông Lắm là “an ass”, ông Kissinger nói: “Y cũng chẳng làm được gì cả đâu”.
Cũng chỉ tháng trước, ông Nixon đã tiếp Ngoại trưởng Nam Việt Nam và
hứa sẽ “làm tất cả để giúp Nam Việt Nam” và “nền độc lập” của nước này.
Ông Nixon còn nói: “Điều chính yếu là cần phải nhớ: chúng tôi biết ai là những người bạn thực thụ”.
Nhà nghiên cứu về Nixon, ông Ken Hughes từ đại học Virginia nói ông
bị chấn động khi nghe đoạn ghi âm mà ông Nixon nói về ông Thiệu.
Báo New York Times 23/06/2009 trích lời ông Hughes, người nghiên cứu
các băng ghi âm của nhiều tổng thống Mỹ, nói cuộc đàm thoại trên càng
làm ông tin tưởng vào quan điểm rằng cả ông Nixon, ông Thiệu và ông
Kissinger đều biết trước rằng cuộc ngưng bắn không thể duy trì nổi.
Đó cũng chẳng phải là “hòa bình trong danh dự” như ông Nixon mô tả,
mà chẳng qua chỉ là cách để Hoa Kỳ rút khỏi cuộc chiến mà ‘không mất
mặt’.
Vẫn các báo Mỹ trích lời Ken Hughes tin rằng các nhân vật trong cuộc
biết rằng Bắc Việt Nam sẽ vi phạm thỏa thuận ngưng bắn và tiến chiếm
miền Nam.
Các đoạn băng được ghi bằng các microphone mật đặt trong Phòng Bầu Dục từ tháng 1 đến tháng 2/1973.
Theo New York Times, các cuốn băng rọi thêm ánh sáng vào một giai
đoạn quan trọng trong lịch sử Mỹ, gồm cả lễ đăng quang lần thứ nhì của
Tổng thống Nixon, cuộc ngưng bắn tại Việt Nam, vụ xử bảy người đột nhập
vào trụ sở đảng Dân chủ tại khu nhà Watergate.
Thoi Su Ky Nguyen 2000
Thứ Năm, 04 Tháng 2 Năm 2010
0 comments:
Post a Comment