Sunday, December 19, 2010

Chính Nghĩa Là Của Chúng Ta.


CHÍNH NGHĨA LÀ CỦA CHÚNG TA.

Nguồn : http://www.chinhnghia.com/chinhnghiacuachungta.htm

Lịch sử đã chứng minh không một đám ngoại nhân nào yêu thương đất nước, dân tộc của chúng ta nếu chính chúng ta không biết yêu thương lấy đất nước và dân tộc của mình. Dân tộc Việt Nam phải tự quyết định lấy vận mệnh của mình chứ không thể trở thành quân cờ phục vụ cho lợi ích của ngoại bang và những thế lực quốc tế.

Chính Nghĩa Quốc Gia thực sự là của chúng ta, mãi mãi vẫn là của chúng ta - Những người đã tận hiến cho Tổ Quốc - Dân Tộc.

Hỡi những con người Việt Nam chân chính ! Hãy nhớ rằng dòng máu còn luân lưu trong huyết quản chúng ta vẫn là dòng máu di truyền của tổ tiên từ thời lập quốc và xương thịt lưu lạc này vẫn là máu thịt Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam trường tồn gần 5000 năm lịch sử. Từ thuở lập quốc ven bờ Trường Giang, dân tộc Việt Nam đã phải luôn luôn chiến đấu chống lại bọn giặc ngoại xâm từ phương Bắc và từ chính những cuộc chiến đấu trường kỳ, ác liệt đó dân tộc Việt Nam đã viết nên vô vàn những trang lịch sử hào hùng, chói lọi chiến công. Trong cuộc đối đầu truyền kiếp này Hán tộc vốn mạnh đông nên chiếm ưu thế nhưng vì tinh thần bất khuất không chịu để Hán tộc đồng hóa nên tuy phải lui dần về phương Nam nhưng dù trải qua bao hưng phế, thịnh suy của các vương triều Việt tộc duy nhất chỉ có một lần Mạc Ðăng Dung hiến đất cho Trung Hoa vào năm 1540 để phải “lưu xú vạn niên”, ngoài ra chưa bao giờ có trường hợp ô nhục như việc bọn Cộng Sản Việt Nam đã và đang làm hiện nay là dâng đất - có nghĩa là bán nước - cho đám giặc phương Bắc nhiều lần.

Việc dùng lãnh thổ quốc gia hiến cho giặc để tranh đoạt thắng lợi của bọn Qủy Ðỏ ở Bắc Bộ Phủ ngày nay không phải là lần đầu tiên mà đã xảy ra từ năm 1958 qua văn thư ký Ngày 14-9-1958, của Phạm Văn-Ðồng tuân lệnh Hồ Chí-Minh, gửi cho Tổng-lý Quốc-vụ viện Trung-quốc (Thủ-tướng) là Chu Ân-Lai. Văn thư này thực chất là một văn kiện bán nước (nhượng lãnh hải) trắng trợn vì theo bản tuyên cáo Ngày 4-9-1958, của chính phủ Trung-quốc về lãnh hải gồm 12 hải lý kể từ đất liền và tấm bản đồ đính kèm bao gồm toàn bộ các đảo trong vịnh Bắc-Việt, toàn bộ các đảo ở biển Nam-hải như Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa). Như vậy nếu tính theo Công Pháp Quốc Tế lãnh hải dài 12 hải lý, tính từ các đảo này thì:

- lãnh hải Trung-quốc ở Nam-hải, phía Tây sẽ kéo sát tới bờ biển suốt miền Trung, Bắc Việt-Nam.

- Phía Ðông vươn sát tới lục địa Phi-luật-tân, Bruneị

- Phía Nam tiến sát tới Indonésia, Mã-lai.

Công nhận bản tuyên cáo này có nghĩa là đã công nhận những đường biên giới được Trung Cộng vẽ ra.

Năm 1974, dựa trên nền tảng pháp lý của tuyên cáo này và văn thư bán nước của Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã nói ở trên, Trung Cộng tiến đánh Hoàng Sa. Trận hải chiến Hoàng Sa bùng nổ và kết thúc nhanh chóng nhưng đi vào lịch sử, quân sử của dân tộc Việt Nam. Trong trận đánh này, những người đã quyết chiến để bảo vệ giang sơn gấm vóc của tiền nhân không ai khác hơn là những người lính Việt Nam Cộng Hòa mà bộ máy tuyên truyền của bọn Cộng Sản Bắc Việt luôn công kích là “Việt Gian, Bán Nước”. Do điều kiện và hoàn cảnh của chiến trường nên binh chủng hải quân được là đại diện, là lực lượng chủ công. Trận đánh oanh liệt này đã gây cho phía Trung Cộng thiệt hại gấp ba lần VNCH (về nhân mạng, và chiến hạm. Nhưng VNCH lúc đó lại đang phải đương đầu với Việt Cộng nên lực lượng tham chiến quá ít, vũ khí chỉ có đại bác, chiến hạm nhỏ. Phía Trung-quốc có hỏa tiễn địa địa, chiến hạm lớn đông, lực lượng tham chiến đông gấp nhiều lần vì vậy VNCH phải tạm bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng-sa. Vào thời kỳ đó dư luận thế giới đều rất ngạc nhiên vì Hoa-kỳ với VNCH vốn có hiệp ước hỗ tương an ninh và quân đội Hoa Kỳ đang tham chiến tại Việt-Nam; đệ thất hạm đội Hoa Kỳ với lực lượng hết sức hùng hậu thường xuyên tuần hành gần vùng biển hai bên giao chiến nhưng không hề can thiệp, không tiếp sức cho VNCH?

Nguyên nhân bí ẩn ngày đó sau này hoàn toàn sáng tỏ vì trong cuộc mật đàm giữa Kissinger và Mao Trạch Ðông, chính quyền Cộng Sản Trung-quốc đã trao cho ông Kissinger bản tuyên bố về lãnh hải “Ngày 4-9-1958” cùng bản đồ đính kèm. Nhà ngoại giao “đốn mạt nhất mọi thời đại” Kissinger đã công nhận bản tuyên bố đó như là một cách bật đèn xanh cho Trung Cộng chiếm lấy Hoàng Sa làm một món quà lót đường để đổi lấy cuộc rút quân ra khỏi Việt Nam.

Trải bao cuộc chiến tranh vệ quốc khi giặc đang thế mạnh, ta ở thế yếu việc tạm để giặc lấn chiếm một vùng đất của tổ quốc chỉ là chuyện chiến thuật để chuẩn bị cho những cuộc phản công chiến lược.

Việc tái chiếm và khôi phục lãnh thổ chỉ là vấn đề thời gian và cơ hội sẽ xảy ra khi lực lượng ta đủ sức mạnh đánh đuổi ngoại xâm. Món nợ Hoàng Sa là món nợ mà tất cả mọi người Việt Nam chân chính sẽ phải đòi vì Hoàng Sa chính là xương thịt của Việt Nam.

Nếu không có những âm mưu buôn bán của bọn tư bản cá mập và đệ tam quốc tế cộng sản, cục diện chiến trường tại Việt Nam không đảo ngược có lẽ ngày hôm nay Hoàng Sa đã trở lại với Việt Nam cho dù dân tộc ta phải trả giá bằng hy sinh và xương máu.

Nhưng sau năm 1975, dù được thừa hưởng một thắng lợi tạo thành nhờ canh bạc của quỷ dữ, đảng Cộng Sản Việt Nam đã khom lưng, quỳ gối cam phận chư hầu nghiễm nhiên xóa sổ địa danh Hoàng Sa trong lòng dân tộc.

Hoàng Sa là một quần đảo xa xôi. Vùng đảo san hô đó không hiển hiện trước tầm mắt quốc dân. Việc mất Hoàng Sa lại xảy ra trong thời kỳ chiến tranh và sau năm 1975 thì toàn quốc lại bị Cộng Sản đàn áp, đói khổ, cơ cực; đảng Cộng Sản độc quyền lãnh đạo tất cả từ thông tin, văn hóa, tuyên truyền v.v... nên tất cả những người cầm bút làm công trác truyền thông, văn hóa dưới lá cờ đảng chỉ là bọn bồi bút, người máy làm theo lệnh đảng đua nhau ra sức bưng bít sự thật. Ðảng buôn dân chúng cũng vỗ tay, đảng bán nước chúng cũng tán thưởng, không có ai đánh thức tinh thần ái quốc do đó việc mất Hoàng Sa vào tay Trung Cộng mau chóng tan loãng.

Trong một xã hội đứng đầu là một đảng thú vật. Tự do và sinh mệnh bản thân còn mong manh như ngọn đèn trước gió, mấy kẻ còn được chút tâm huyết mà nghĩ đến chuyện nước non.

Việc mất Hoàng Sa chìm đắm từ sau năm 1975 đến năm 1988 lại bùng lên khi quân Trung Cộng xả súng vào hải quân nhân dân Việt Cộng. Những tưởng cơ hội này là cơ hội “Quyết Tử cho Tổ Quốc Quyết Sinh” nhưng toàn “Ðảng anh hùng và quân đội nhân dân anh hùng” lộ hẳn bộ mặt hèn hạ, cam phận tôi đòi bỏ mặc con em cho giặc tập bắn bia....

Chưa thỏa giấc mộng bá quyền của Chủ Nghĩa Ðại Hán, chính quyền Trung Nam Hải tiếp tục áp lực và thi thố mưu sâu buộc Cộng Sản Việt Nam ký tiếp hai hiệp định (1)

Theo tinh thần bản hiệp định cắt đất ký ngày 30-12-1999, thì Việt-Nam nhường cho Trung-quốc 789 km2 dọc theo biên giới hai tỉnh Cao-bằng, Lạng-sơn. Nghiêm trọng nhất là nhượng cho Trung Cộng vùng đất địa đầu thuộc tỉnh Lạng-sơn nơi có cửa ải Nam-quan lấn sâu vào lãnh thổ quốc gia đến 0,5 km. Ðây không chỉ là một hành vi “bán nước” mà còn là một tội ác “trời không dung, đất không tha” xúc phạm đến Hồn Thiêng Sông Núi vì đã tiêu hủy biểu tượng hào hùng của dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ đất nước và nền độc lập của dân tộc qua mấy ngàn năm.

Ải Nam Quan vốn chỉ một cửa ải nhỏ bé nằm ngay một vùng đất bằng phẳng nơi địa đầu chịu đựng bao cuộc tấn công của quân xâm lăng nhưng không di dời và vẫn hiên ngang trấn giữ cả một trời Nam.

Hầu hết những sách vở viết về giang sơn cẩm tú của dân tộc Việt Nam đều khởi đi từ mấy chữ chỉ rõ địa đầu biên ải là Nam Quan và điểm tận cùng của đất nước là Cà Mau.

Chính cửa ải này đã bao lần chứng kiến bước chân của đám quân xâm lược phương Bắc ngạo nghễ tràn qua khi khởi chiến, rồi sau đó cũng chính nơi này lại ghi nhận những bước chân hối hả, cuống quýt của bọn tàn binh, bại tướng tháo chạy sau khi bị quân dân ta đánh cho tan tác.

Vùng biên địa thượng du Việt Bắc vốn là vùng đất lịch sử. Vùng đất của những huyền thoại từ thời dựng nước và cũng là vùng đất của những địa danh chói lọi chiến công. Trong thực tế, ải Chi Lăng mới chính là hiểm địa, là mồ chôn bao đạo hùng binh của những vương triều Tống, Nguyên, Minh, là nơi có núi Ðầu Quỷ thường dùng để bêu đầu bọn bại tướng xâm lược do đó được mệnh danh là Quỷ môn quan.

Tại đây khí hùng sông núi tích tụ mạnh đến nỗi những bọn giặc đời sau đều táng đởm, kinh tâm khi đặt chân đến nơi này. [Theo lời mẹ tôi kể lại, nơi đây có hai câu thơ tạc trên vách núi được lưu truyền trong dân gian:

“Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan

Thập nhân xuất khứ, nhất nhân hoàn....”

(tạm dịch: Cửa Ðầu Quỷ! Cửa Ðầu Quỷ!

Mười người đi qua chỉ có một người trở lại.)]

nhưng Ải Nam Quan vẫn là biểu tượng linh thiêng nhất về tinh thần quyết chiến cho nền độc lập và sự vẹn toàn của Tổ Quốc.

Ðau đớn thay, ngày nay Ải Nam Quan lại nằm trong phần lãnh thổ mà bọn Cộng Sản Việt Nam đã dâng cho Trung Cộng.

Trong suốt thời kỳ làm tay sai cho Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản thực hiện âm mưu nhuộm đỏ toàn cầu, tập đoàn bán nước, buôn dân do tên cáo già Hồ Chí Minh lãnh đạo luôn phỉ báng và phủ nhận Chính Nghĩa của Người Việt Quốc Gia và giương cao ngọn cờ cứu quốc để lòe bịp quốc dân. Chúng tự tô vẽ cho chúng một lớp vỏ chính nghĩa để che đậy bộ mặt Phi Nghĩa, Phi Nhân, Vô Tổ Quốc của chúng.

Vào hùa theo chúng là một số tên triết gia ngu xuẩn và bọn bồi bút phương Tây tiếp tay bôi nhọ và bóp méo lịch sử để xóa bỏ mọi chiến tích hào hùng của một đội quân bảo quốc an dân truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Qua hai mươi bảy năm thống trị toàn cõi Việt Nam, Tập Ðoàn Cộng Sản không có một kế hoạch “kinh bang tế thế, trị quốc, an dân; làm cho dân giàu nước mạnh” nào cả.

Sự tồn tại của chúng cho đến ngày hôm nay hầu hết chỉ nhờ vào độc quyền bóc lột, buôn dân hại nước, bán rẻ tài nguyên và đồng tiền mồ hôi, nước mắt của hơn ba triệu người Việt Quốc Gia Tị Nạn Cộng Sản gởi về cho gia tộc.

Bè lũ Cộng Sản Việt Nam thực chất chỉ là một bọn thừa hưởng lợi ích về việc điều chỉnh chiến lược giữa bọn Cộng Sản Quốc Tế và đám tư bản cá mập bán rao Dân Chủ, Tự Do, Công Lý vào thời “chiến tranh lạnh”.

Kết quả trong canh bạc của bọn Quỷ Ðỏ và đám tư bản cá mập đã khiến chúng trở thành kẻ chiến thắng và Người Việt Quốc Gia chúng ta là những nạn nhân.

Chính Nghĩa không phải lúc nào cũng chiến thắng nếu không đủ mạnh.

Trong cuộc chiến tranh giữa Chính Nghĩa và Phi Nghĩa ở Việt Nam “bọn xấu đã thắng”- như John Mc Cain đã phát biểu trong chuyến đi Việt Nam.

Lớp sơn chính nghĩa hào nhoáng, giả dối đã tróc. Mặt nạ yêu nước, thương nòi đã rơi xuống. Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã lộ nguyên hình là một bọn buôn dân, bán nước; táng tận lương tâm không sá kể gì đến quyền lợi, an ninh, tài sản, danh dự của quốc gia dân tộc. Chúng trắng trợn bán đứng công lao xương máu của tổ tiên, xúc phạm anh linh của tiền nhân, xem thường cả Hồn Thiêng Sông Núi.

Hành động của chúng lần này là một bằng chứng khách quan không thể chối cãi cho thấy Chính Nghĩa Quốc Gia vẫn mãi mãi là của chúng ta và thực sự là của chúng ta.

Tội Bán Nước là đại tội với dân tộc. Tập Ðoàn Cộng Sản Việt Nam là một bè, một lũ “thiên cổ tội nhân” mặc dù chúng hiện đang là kẻ thống trị nhưng dân tộc Việt Nam là một dân tộc có óc quật cường, biết nhục quốc sỉ là điều cần phải rửa nên không một vương triều hay thể chế phản dân, hại nước nào có thể trường tồn.

Sở dĩ Tập Ðoàn Cộng Sản Cộng Sản đắc thế là do vận nước trôi vào thời quốc mạt. Ngày nay trước những sự kiện ô nhục này Tập Ðoàn Cộng Sản ở Bắc Bộ Phủ chắc chắn sẽ phải tiêu vong. Toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ thức tỉnh và đứng lên tiêu diệt chúng. Quốc dân Việt Nam tại quốc nội cũng như hải ngoại không cần bàn tới những vở kịch sửa đổi Hiến Pháp hay hủy bỏ điều 4 nào cả mà chỉ có một việc cần phải suy nghĩ, phải bàn tới là hủy bỏ cả cái đảng Cộng Sản Việt Nam buôn dân, bán nước giành lại quyền vệ quốc và kiến quốc cho dân tộc.

Lịch sử đã chứng minh không một đám ngoại nhân nào yêu thương đất nước, dân tộc của chúng ta nếu chính chúng ta không biết yêu thương lấy đất nước và dân tộc của mình. Dân tộc Việt Nam phải tự quyết định lấy vận mệnh của mình chứ không thể trở thành quân cờ phục vụ cho lợi ích của ngoại bang và những thế lực quốc tế.

Chính Nghĩa Quốc Gia thực sự là của chúng ta, mãi mãi vẫn là của chúng ta - Những người đã tận hiến cho Tổ Quốc - Dân Tộc.

Hỡi những con người Việt Nam chân chính ! Hãy nhớ rằng dòng máu còn luân lưu trong huyết quản chúng ta vẫn là dòng máu di truyền của tổ tiên từ thời lập quốc và xương thịt lưu lạc này vẫn là máu thịt Việt Nam.

KIM ÂU

2002

Ghi chú (1)

* Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt-Nam, Trung-quốc ngày 30-12-1999.

* Hiệp định phân định lãnh hải Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000.

0 comments:

Powered By Blogger