Gần 400 năm kể từ ngày chữ quốc ngữ ra đời,
thử nhìn lại bước khởi đầu với bao khó khăn của những người tiên phong
trong việc chế tác ra chữ Việt mới bằng mẫu tự Latin du nhập.
Thuở ban đầu của chữ quốc ngữ
TT - Làm nên chữ quốc ngữ từ mẫu tự
Latin là một kỳ công khi tiếng Việt từ lâu được ký âm bằng chữ Hán và
tiếp theo là chữ Hán Nôm.
• Vấn đề chờ trông các nhà nghiên cứu xác
định: ai là người có công đầu, đâu là nơi ở nước ta mở ra sự hình thành
chữ quốc ngữ, một ngày kỷ niệm chữ quốc ngữ mỗi năm vốn đang được nhiều
người đặt ra...
Nơi đặt bia di tích cư sở Nước Mặn
(xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, Bình Định). Cư sở này được giáo sĩ
Francesco Buzomi xây dựng năm 1618 - Ảnh: H.V.M.
Từ nhu cầu cần thiết cho công việc, các giáo sĩ
dòng Tên của Công giáo từ phương Tây sang nước ta truyền đạo hồi đầu thế
kỷ 17 đã nghĩ đến việc dùng mẫu tự Latin ký âm tiếng Việt để tiện cho
đôi bên học hỏi ngôn ngữ của nhau. Phác lại bước đầu của việc sáng chế
chữ quốc ngữ - mà lâu nay được gọi là chữ Việt - quả là lý thú và cảm
động...
Kiên trì mò mẫm
Theo linh mục Đỗ Quang Chính, S.J. - tác giả
sách Lịch sử chữ quốc ngữ (1620-1659), từ đầu thế kỷ thứ 17 các giáo sĩ
dòng Tên đến Nhật Bản truyền đạo đã thành công trong việc dùng mẫu tự
Latin để ký âm và làm nên chữ Nhật mới romaji - chữ Nhật Latin hóa - hồi
cuối thế kỷ 16. Bởi vậy, khi đến Việt Nam, các giáo sĩ dòng Tên đã vận
dụng cách làm này để ký âm tiếng Việt và làm nên chữ Việt mới để thuận
lợi cho sứ vụ truyền giáo của mình.
Nhưng các giáo sĩ đến đây dù tất cả đều am hiểu
một số ngôn ngữ châu Âu, với họ lúc đầu tiếng Việt quả là rất khó học vì
đã đơn âm lại có thanh điệu, rất khó trong việc phát âm, một âm chỉ cần
đọc nặng - nhẹ một tí là sẽ có nghĩa hoàn toàn khác nhau. “Khi vừa đến
Đàng Trong, nghe người Việt nói chuyện với nhau, nhất là giữa nữ giới,
tôi có cảm tưởng như mình nghe chim hót và tôi đâm thất vọng vì nghĩ
rằng không bao giờ học được tiếng Việt” - giáo sĩ Alexandre de Rhodes
(gọi tắt là Đắc Lộ), người đến Hội An, Quảng Nam và ở lại cư sở Thanh
Chiêm (cách cảng thị Hội An chừng 7km về hướng tây) vào cuối năm 1624 để
truyền đạo, kể lại.
Nghe cũng như nói trọn một câu tiếng Việt có
nhiều từ hẳn là khó, nhưng với câu chỉ vài từ vẫn không dễ vì cách phát
âm theo đúng thanh điệu rất tế nhị. Vẫn giáo sĩ Đắc Lộ kể: một giáo sĩ ở
cùng với ông đã nhờ người giúp việc đi chợ mua cá về dùng bữa, nhưng vì
cách phát âm của vị giáo sĩ không chuẩn, bà giúp việc thay vì mua cá
lại mua về một thúng cà. Biết mình đã nói sai từ “cá” thành “cà”, vị
giáo sĩ liền xin lỗi người giúp việc. Còn một vị giáo sĩ khác thì lại
làm đám trẻ trong nhà mình hoảng sợ và bỏ chạy tán loạn khi ông nhờ
người trong nhà mình đi chém (chặt, đốn) tre nhưng ông lại đọc là đi
“chém trẻ”!
Nhưng, vượt qua khó khăn bước đầu, rồi khám phá
ra sự “du dương hòa điệu”, “giống như bản nhạc liên hồi” của tiếng Việt -
như các giáo sĩ Cristophoro Borri và Đắc Lộ nhận xét, ai có khiếu âm
nhạc thì việc học tiếng Việt không khó. Nhờ vậy, qua miệt mài học hỏi,
luyện tập, nhiều giáo sĩ - trong đó có Francisco de Pina (người Bồ Đào
Nha), C. Borri (người Ý) và Đắc Lộ (người Pháp) - đã nhanh học được
tiếng Việt.
Những giai đoạn mở đầu
Vạn sự khởi đầu nan. Và sự khởi đầu của một công
trình, một cuộc cách mạng ngôn ngữ càng rất khó khăn. Linh mục Đỗ Quang
Chính đã trân trọng chia lịch sử buổi đầu của việc hình thành chữ quốc
ngữ từ năm 1620-1648 thành hai giai đoạn: 1620-1626 và 1631-1648.
Quả là khá nhanh và sớm khi từ năm 1620-1626,
nền móng “ngôi nhà” quốc ngữ đã đặt được những viên đá tảng cơ bản, bởi
các giáo sĩ dòng Tên chỉ mới đặt chân đến đất Quảng Nam (thuộc xứ Đàng
Trong) vào đầu năm 1615, trải qua nhiều lao đao trong việc lập cư sở
truyền đạo. Từ cư sở Hội An - 1615, rồi đến các cư sở Nước Mặn (tỉnh
Bình Định) -1618 và cư sở Thanh Chiêm (Quảng Nam) - 1623, với nỗ lực học
tiếng Việt bền bỉ, các giáo sĩ ở đây đã từng bước Latin hóa được một số
từ tiếng Việt về tên đất, tên người cùng những danh từ bản xứ với chiều
hướng ngày càng tiến bộ.
Bằng chứng của tiến trình này được rút ra từ
những báo cáo thường niên của các giáo sĩ ở các cư sở Hội An, Nước Mặn,
Thanh Chiêm gửi về vị giám mục bề trên cả dòng Tên ở La Mã, hiện còn lưu
giữ ở các thư viện, văn khố các nước châu Âu. Đọc qua các từ quốc ngữ
được linh mục Đỗ Quang Chính rút ra từ bảy bản báo cáo thường niên
(1620-1626), thật xúc động trước công lao khó nhọc của những người tiên
phong làm ra loại chữ cực kỳ thông dụng và khoa học này.
Annam (An Nam), Sinoa, Sinuua (Xứ Hóa/tức Thuận
Hóa), Cacham, Cacciam (Ca Chàm/tức Kẻ Chàm hay Thanh Chiêm), Unsai (ông
sãi), Ungue, Ungué (ông nghè), Ontrũ (ông trùm), Oundelin (ông đề lĩnh),
Banco, Bancô, Bancò (Bàn Cổ), Nuocman (Nước Mặn), Ainam (Hải Nam),
Quanghia, Quamnguya (Quảng Nghĩa), Quignhin (Qui Nhơn), Bafu (Bà Phủ/tức
vợ quan phủ)... - những địa danh, những danh từ Việt được Latin hóa
tiên khởi ở những năm 1620-1621. Dễ nhận thấy là các từ luôn được viết
liền, hầu hết không có dấu thanh, thi thoảng các dấu thanh huyền, sắc,
ngã, ô được sử dụng.
Gia Định Báo - tờ báo đầu tiên được in bằng chữ quốc ngữ - Ảnh tư liệu
Bìa cuốn Tường trình về khu truyền
giáo Đàng Trong được viết năm 1621-1622 bằng tiếng Ý, trong đó có một số
từ quốc ngữ được viết rời - Ảnh tư liệu
Bắt đầu viết rời các từ
Cũng ở những năm tháng xây nền đặt móng này,
việc viết rời các từ đã lác đác xuất hiện. Sayc Kim (sách kinh), Sayc
Chiu (sách chữ); Da, an, nua (đã ăn nửa), Da, an, het (đã ăn hết) - nói
về hiện tượng nguyện thực; scin mocaij (xin một cái); Dàdèn, Lùt, Dàdèn
Lùt (đã đến lụt), Tuijciam, Biet (tui/tôi chẳng biết), Onsaij di Lay
(ông sãi đi lại/tức đi đi lại lại); Muon bau dau christiam chiam (muốn
vào đạo Christiang chăng?) được giáo sĩ C. Borri viết trong bản tường
trình về khu truyền giáo Đàng Trong (1621-1622) đệ lên đức giáo hoàng
Urbanô VII là những bước tiến quan trọng trong tạo lập chữ quốc ngữ, bởi
đây là bước khởi đầu việc viết rời các từ.
Từ tiến bộ này, ở giai đoạn hai (1631-1648)
trong các bản văn và sách của mình, giáo sĩ Đắc Lộ đã viết rời các từ và
nhóm từ Việt, phần lớn vẫn chưa có dấu, nhưng thi thoảng ông lại cũng
viết liền các từ về địa danh, nhân danh cũng như đánh dấu thanh cho một
vài từ. Đáng nói là việc đưa các dấu thanh Hi Lạp (huyền, sắc, ngã) vào
để tạo dần sự hoàn chỉnh âm vận cũng như thêm chữ “đ” vào bộ mẫu tự
Latin cho quốc ngữ của giáo sĩ Gaspar d’Amaral (người Bồ Đào Nha).
Đàng tlaõ (Đàng Trong), Đàng ngoày (Đàng Ngoài),
Đàng tlên (Đàng Trên), nhà thượng đày (nhà thượng đài), nhà huỵen (nhà
huyện), oũ Khỏũ (ông Khổng/Khổng Tử), đức vương (đức vương), tế kỳ đạo
(tế kỳ đạo), chuá tũ, chuá dũ, chuá quành (chúa Tung, chúa Dũng, chúa
Quỳnh/tên các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài), Thíc ca (Thích Ca), chợ thũi
(chợ Thủy), Sãy (sãi/sư sãi), thầy (thầy/thầy giảng), đôủ thành (Đông
Thành/tên một tu sinh)... Một ít trong số những từ được linh mục Đỗ
Quang Chính trích từ các tường trình về hoạt động truyền giáo ở Đàng
Ngoài của giáo sĩ G. d’Amaral viết vào những năm 1632, 1637 cho thấy vị
giáo sĩ này đã đưa việc chế tác chữ quốc ngữ tiến một bước rất dài chỉ
trong thời gian rất ngắn.
HUỲNH VĂN MỸ
0 comments:
Post a Comment