Xã luận bán
nguyệt san Tự do Ngôn luận số 170 (01-05-2013)
Chí minh (từ Hán Việt) có nghĩa là
rất sáng suốt. Oái oăm và mỉa mai thay, kẻ mang tên đó lại mở đầu cho một chuỗi
dài mù quáng (đến tận hôm nay) nơi bản thân ông, đồng đảng ông và nơi một số
thành phần trong Dân tộc.
1- Mù quáng vì cuồng tín
Quả thế, năm 1920, sau khi đọc “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”
của Lênin, chàng thanh niên ít học Nguyễn Ái Quốc (tên mạo nhận
của Nguyễn Tất Thành) đã hoàn toàn tin tưởng vào chủ
nghĩa cộng sản, nhất là
vào đường lối dùng bạo lực để giành lấy độc lập cho dân tộc. Anh ta không biết
rằng trước đó một năm, tại Hội Quốc Liên, tiền thân của Liên Hiệp Quốc, Tổng
thống Hoa Kỳ Wilson đã đề xướng quyền Dân tộc Tự quyết và khuyến cáo các Đế quốc
Tây Phương hãy từng bước trả tự trị và độc lập cho các nước Á Phi thuộc địa.
Hưởng ứng khuyến cáo này, cũng trong năm 1919, Anh Quốc đã trả độc lập cho
Canada và A Phú Hãn. Năm 1936, Pháp trao trả quyền tự trị cho Syria và Lebanon,
Từ 1946 đến 1949, các Đế quốc Tây Phương Mỹ, Pháp, Anh, Hà Lan đã lần lượt tự
giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa và bảo hộ tại châu Á (trong đó có
cả Việt Nam, qua hoàng đế Bảo Đại).
Tháng 6-1923, đến
Moskva theo học Đại học
Lao động CS Phương đông, Nguyễn Ái Quốc được đào
tạo chính quy về chủ nghĩa Marx, kỹ thuật tuyên truyền lẫn khởi nghĩa vũ trang,
và trở nên thành viên Đệ tam Quốc tế. Kể từ đó cho đến năm 1954, tay gián điệp
mạo danh “nhà cách mạng” này đã cùng với đồng đảng làm hao tổn xương máu của
hàng vạn đồng bào và tài nguyên vô số của tổ quốc để trả cái giá “giành lại độc
lập cho nước” (thực chất là giành lấy độc quyền cho đảng), đang khi các quốc gia
lân bang cũng đã đạt được điều đó mà hoàn toàn “miễn
phí”!
Nhưng độc lập ấy (cho miền Bắc) chỉ
là giả hiệu, vì Hồ Chí Minh ngay sau đó đã mù quáng tròng lên dân tộc hai cái
ách khác: Nga cộng và Tàu cộng. Coi Stalin và Mao là những vị thầy bất khả ngộ,
chủ nghĩa Mác-Lê là con đường tốt đẹp xây dựng đất nước, sự thống lĩnh tuyệt đối
của đảng CS trên phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa là điều tối thượng,
việc bành trướng chế độ xã hội chủ nghĩa cách mạng ra toàn thế giới là lý tưởng
sống, Hồ Chí Minh đã tiếp tục mở ra những cuộc chiến đẫm máu khác nhắm vào Dân
tộc: nào Cải cách ruộng đất giết nông gia giỏi và nhân sĩ uy tín, tàn phá đạo
đức gia đình và cơ cấu làng xã, để cướp mọi tài nguyên vào tay đảng, buộc mọi
nhân tâm quy về đảng; nào trấn áp hàng vạn trí thức, nghệ sĩ qua vụ “Nhân văn
Giai phẩm” để chủ nghĩa Mác, tư tưởng Mao thống trị trong tâm trí giới tinh hoa
của Dân tộc; nào “Giải phóng miền Nam” để chiến đấu cho LX và TQ, bành trướng
chế độ CS xuống Đông Nam Á, với cái giá của hàng triệu binh lính lẫn đồng bào
hai miền Bắc Nam và sự tan hoang của toàn thể đất nước. Đang khi những đồng chí
của HCM ở Bắc Hàn và Đông Đức đã không dại gì mà “giải phóng”, gây tổn hại cho
ruột thịt của họ tại nửa nước đang ở dưới “ách cai trị của tư bản chủ
nghĩa”!!
Sự mù quáng do cuồng tín vào chủ
nghĩa CS, vào tình quốc tế vô sản, nhất là vào đàn anh Tàu cộng đó -từng biểu lộ
qua việc ký công hàm bán nước năm 1958, việc im thin thít khi Hoàng Sa bị xâm
lăng năm 1974, một phần Trường Sa bị chiếm đoạt năm 1988 (nghĩ rằng anh em giữ
cho nhau và sẽ trả cho nhau)- vẫn còn tiếp tục đến hôm nay nơi hậu duệ của Hồ
qua hai hiệp định nhường đất và biển cho Tàu cộng năm 1999 rồi 2000, qua việc
tuân thủ triền miên khẩu hiệu “16 chữ vàng, 4 chữ tốt”, qua niềm xác tín “việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội tại nước ta sẽ thuận lợi nhờ cận kề đại quốc xã hội
chủ nghĩa” (lời Nguyễn Chí Vịnh)… đang khi kẻ thù truyền kiếp này chực chờ xâm
chiếm Việt Nam tự ngoài biển và ngay trong lãnh thổ.
2- Mù quáng vì thù
hận
Chiếm được miền Nam xong, nơi người
Cộng sản nổi rõ lên một sự mù quáng thứ hai, đó là mù quáng vì thù hận. Học đòi
quan niệm cuộc sống là “đấu tranh sinh tồn” (một quan niệm ngu xuẩn và tai hại
của Darwin -vì đúng ra là “tương trợ sinh tồn”), Lênin rồi các đồ đệ (trong đó
có HCM) đã chủ trương chính trị là “đấu tranh giai cấp”, là phải chia thế giới
thành hai phe sống mái: Tư bản và CS, là phải phân biệt loài người có hai hạng
đối đầu: anh em bạn bè là hạng lụy phục chế độ CS và người dưng thù địch là hạng
chống lại nó, dù họ đồng chủng. Thành ra sau biến cố tháng 4-1975, lòng thù hận
CS được thả lỏng. Thật ra trước đó nó đã được buông cương tại miền Nam rồi, qua
việc tàn sát các viên chức hành chánh, việc pháo kích các khu dân cư, gài mìn
đường sắt đường bộ, nhất là qua cuộc thảm sát dân lành tết Mậu Thân 1968. Nhưng
chính sau tháng 4 đen, người ta mới thấy thế nào là tâm địa của những kẻ tự vỗ
ngực là “quân giải phóng”: cướp tài sản và đuổi khỏi nhà hàng vạn gia đình “ngụy
quân ngụy quyền”, tập trung “cải tạo” gần một triệu quân cán chính VNCH bị chụp
mũ là “có nợ máu với Cách mạng”, chặn đường học hành, tiến thân và sinh sống của
thân nhân con cái họ. Lòng thù hận này còn tràn sang cả với người dân miền Nam
vốn sung túc hơn, văn hóa hơn, nhờ đã có hơn 20 hưởng một chế độ tự do dân chủ
dù còn non trẻ. Từ đó đã khiến hàng loạt người dân phải bỏ chạy khỏi quê hương
mình, đến nỗi Uwe Siemon-Netto, một nhà báo người Đức từng hoạt động tại Việt
Nam phải thốt lên: “Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954
đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không
những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000
đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối? Có phải là hành động giải
phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau
ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên
thắng cuộc bằng cách lùa từ 1 triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại
tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã
bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn...
Ðã có khoảng 164.000 thường dân miền Nam bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi
Cộng sản thời kỳ 1954-1975" (trích bài viết: Hậu quả của khủng bố và
đức hạnh của hy vọng).
Nào đã hết đâu. Lòng thù hận CS nay
trút lên thành phần mà họ gọi là "phản động". Hàng ngàn, thậm chí hàng vạn chiến
sĩ của tự do nhân quyền, từ phong trào phục quốc thế kỷ trước đến phong trào
tranh đấu thế kỷ nay, những tinh hoa thật sự của đất nước, đang cùng với gia
đình họ (tới tận con cháu) là đối tượng của những biện pháp trả thù đê hèn và
tàn bạo như sách nhiễu cuộc sống, phong tỏa kinh tế, bôi nhọ thanh danh, hành
hung thân thể và giam cầm tống ngục. Các tôn giáo cũng không nằm ngoài tầm ngắm
của cái chế độ vô thần, vốn luôn căm ghét những thực thể cao cả linh thiêng và
thù hận những thế lực tinh thần dám vạch trần những sai lầm và tội ác của nó.
Ngày trước chuyên dùng bạo lực vũ khí, nay nó sử dụng bạo lực hành chánh (Pháp
lệnh và Nghị định về tín ngưỡng tôn giáo) để làm cái rọ nhốt các Giáo hội, hầu
nó mặc sức tung hoành.
Lòng thù hận mù quáng đó tựu trung
chỉ làm tiêu hao sinh lực của giống nòi và đe dọa sinh mệnh của Tổ quốc. Nhưng
CS làm gì có Tổ quốc VN! Họ chỉ có Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
thôi!
3- Mù quáng vì tham
lam
Ở đây phải nói là tham quyền và tham
tiền. Tham quyền đương nhiên nằm trong máu di truyền của CS, bởi lẽ đó là một
chế độ độc tài, độc tôn, độc đảng. Từ năm 1917 (cách mạng Nga) đến nay, có khi
nào CS chia quyền, nhường ghế cho ai đâu, trừ khi bị dồn vào chân tường hay bị
hất khỏi ngai vàng thống trị (như các năm 1989-1991 bên Liên Xô và Đông Âu).
Bị mọi tầng lớp nhân dân VN ngày
càng đứng lên chất vấn và thậm chí đe dọa quyền lực độc tôn của mình, ngoài việc
trấn áp thô bạo các cá nhân, tổ chức và phong trào đấu tranh, nay CS muốn chính
danh hóa, hiến pháp hóa, luật lệ hóa mãi mãi sự thống trị của mình (qua điều 4
về đảng duy nhất lãnh đạo, điều 70 về quân đội tuyệt đối trung thành với
đảng...). Cuộc lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đang tiến hành thực
chất chỉ là một cuộc cưỡng bức toàn dân đồng thuận với cái Cương lĩnh đó của
đảng. Qua đủ thứ trò gian manh và lố bịch, hao sức và tốn thuế: nào là mạ lỵ hăm
dọa mọi công dân đấu tranh đòi biên soạn một Hiến pháp mới (Nhóm trí thức 72,
Các Công dân tự do, Hội đồng Giám mục, các Giáo hội Tin lành, Phật giáo, Hòa
hảo...) qua báo đài công cụ, dư luận viên chó săn, cán bộ đảng viên đầy tớ, trí
nô ký sinh trong các học viện và đại học... nào là đem cái đảng pháp (tức HP giả
hiệu) tới tận từng hộ dân bắt ký đồng thuận với lời hăm dọa.... nào là khước từ
đăng trên phương tiện thông tin đại chúng các ý kiến bất đồng với đảng... nào là
nói khống có tới 40-50 triệu ý kiến đồng thuận với HP của Quốc hội.
Việc tham tiền của thì nhân dân đã
thấy ngay từ Cải cách Ruộng đất thu điền thổ vào tay đảng, rồi sau cuộc "chiến
thắng" tháng 4-1975 với hiện tượng "vào vội vã vơ vét về". Lòng tham lam vô độ
này còn bộc lộ từ sau năm 1985, lúc đảng mở cửa kinh tế, cho đảng viên, công an,
quân đội được phép làm giàu (với quyền thế trong tay lẫn ưu thế nhờ đảng, ba
hạng này đã phất lên nhanh chóng, lấn lướt đè bẹp mọi doanh nghiệp tư). Với luật
đất đai 1993 tước mọi ruộng đất khỏi tay toàn dân để đảng trở thành địa chủ độc
nhất, lòng tham này lại bùng phát hơn nữa. Mới đây, hôm 24-04, cái gọi là
"Hội nghị tiếp thu ý kiến các đại
biểu Quốc hội VN về dự án sửa Luật Đất đai" vẫn kết luận cần
duy trì chế độ ‘sở hữu toàn dân’ do Nhà nước làm đại diện và chủ
động quyết định cách dùng quỹ đất. Đám gia nô mù quáng này đúng là đã làm
theo ý đảng bày tỏ trong Dự thảo HP điều 57. Chính sách quản lý thị trường vàng
hiện giờ (bị chỉ trích sau bài báo của Thanh Niên) và dư luận về một cuộc đổi
tiền sắp tới (vì siêu lạm phát, vì nguy cơ vỡ nợ của ngân hàng, vì ngân hàng
đang có nợ xấu cực khủng) chỉ bộc lộ thêm lòng tham lam vô độ của
đảng.
Mù quáng vì cuồng tín chủ nghĩa, vì
thù hận đối nghịch, vì tham quyền hám của, đó chính là bản chất bất biến, căn
bệnh khó lành của CS. Đó cũng là vấn đề khôn giải của đất nước nếu chủ nghĩa và
chế độ CS không bị loại khỏi lịch sử loài người và lịch sử dân tộc.
BAN BIÊN
TẬP
0 comments:
Post a Comment