22 tháng Năm năm 2015
Tác Giả: Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Sau
ngày đình chiến theo Hiệp định Geneve năm 1954, Đỗ Thị Tình kết hôn với
Phan Văn Anh, một Chính Trị Viên tiểu đoàn của bộ đội Việt Minh. Một
tháng sau, chồng đi tập kết ra Bắc để nàng ở lại trong Nam.
Tình
có nhan sắc mặn mà nên lắm người tán tỉnh. Vài anh thanh niên trong xã ,
dăm cán bộ Dân Sự Vụ năng lui tới nhà, khiến Tình lo ngại bỏ quê đến
đất Gia Ðịnh vào chùa lánh thân giữ mình. Nàng có hạnh nguyện ở chùa hai
năm, chồng về sẽ trở lại đời sống bình thường hưởng cảnh hạnh phúc trần
tục.
Thời
gian kéo dài, người chồng năm xưa vẫn biền biệt. Tình không ngờ nàng đã
chôn gíấu cuộc đời son trẻ của mình trong chiếc áo nâu sòng lại lê thê
vô vọng. Và từ một ni cô “Kệ kinh câu cũ thuộc lòng, hương đèn việc
trước, trai phòng quen tay.”(*) Ni cô Thích Tâm Ngọc (tục danh Đỗ
ThịTình) đã trở thành Sư trụ trì chùa D.Q. thay Sư Bà Thích Tâm Huệ viên
tịch.
Bà
Đỗ Thị Thân là chị ruột của Sư Trụ trì Thích Tâm Ngọc gởi con trai là
Bùi Hữu Thiệt vào chùa D. Q. tạm trú để theo học đại học tại Sài Gòn.
Thiệt chỉ lo ăn học, tính tình chất phát ,vô tư. Một hôm, Thiệt nhận
được một số sách tái bản của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn do một phật tử vô danh
gởi tặng. Các tác phẩm nổi tiếng ngày xưa mà Thiệt rất mê đọc như Gánh
Hàng Hoa, Ðọan Tuyệt… Thiệt giật mình bởi khoảng mười trang đầu là
truyện, còn những trang trong thì in toàn tài liệu tuyên truyền của Việt
cộng như “Những Mẫu Chuyện Trong Ðời Hồ Chủ tịch”, “Ba Mươi Năm Ðời Ta
Có Ðảng”…
Thiệt
bắt đầu lo ngại và nghi ngờ những hoạt động của chùa D. Q. , vì vậy,
hắn quyết định xin phép bà dì Trụ trì được vào ở khu nội trú sinh viên
với lý do dành thì giờ đến thư viện đọc sách tham khảo.
Vừa
tốt nghiệp đại học lại trúng đợt Tổng động viên, Bùi HữuThiệt không
chần chừ nhập ngũ khóa Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức. Bà Thân , Mẹ của Thiệt
bảo chạy giấy tờ hoãn dịch vì “hoàn cảnh con một” nhưng Thiệt từ chối.
Hắn khuyên mẹ yên tâm, sau khi mãn khóa hắn sẽ làm đơn xin phục vụ tại
đơn vị không tác chiến.
Qua
giai đoạn 2, Thiệt được chọn vào khóa sĩ quan kỹ thuật không quân. Sau
bốn năm phục vụ tại phi trường Biên Hòa, Trung úy Bùi Hữu Thiệt cưới vợ
và yêu cầu mẹ bán nhà vào ở với hắn nơi cư xá không quân. Bà Thân luyến
tiếc ngôi nhà, không nỡ dứt bỏ cái thị trấn mà bà đã gắn bó từ thời ấu
thơ, dù biết rằng nơi nầy không còn an ninh nữa.
Ðêm
24 tháng 3 năm 1975, Bộ Chỉ Huy Tiểu khu QN được lệnh rút quân về Chu
Lai, nơi đóng quân của BTL Sư đoàn 2 BB. Người người tranh nhau theo
chân quân đội rời thị trấn hướng về Chu Lai tìm nơi an toàn. Bà Thân mệt
mỏi, cô đơn chẳng màng chạy lánh nạn. Bà chỉ sốt ruột lo lắng cho gia
đình con trai ở Biên Hòa có mệnh hệ nào không. Bà hối hận đã không nghe
lời con. Tháng trước đây, Thiệt có đánh điện nhắn mẹ vào Biên Hòa gấp vì
tình hình bất ổn. Bà Thân cứ chần chừ mãi đến nay thì muộn rồi. Thôi
thì phó mặc cho số mạng. Ý nghĩ như thế, nhưng trước tình hình bất lợi
cho phía Quốc gia, trong thâm tâm bà Thân lại mừng thầm rằng bà có cơ
hội gặp lại ông Dinh chồng bà và đứa con trai út tên Bùi Văn Thà đã tập
kết ra ngoài miền Bắc đã gần hai mươi mốt năm. Niềm hy vọng đoàn tụ với
chồng con ngày càng gần giúp cho lòng bà yên ổn trở lại.
* * *
Chiếc
xe con kiểu Liên xô băng qua cổng vào chùa D. Q., theo sau là chiếc
Molotova chở đầy bộ đội cộng sản Bắc Việt, kéo theo một khẩu đại pháo.
Tất cả dừng trước sân chùa. Người chỉ huy và hai lính bảo vệ xuống xe
vào thẳng khu chánh điện.
A
Di Ðà Phật, giọng trầm trầm của một Ni cô vẳng lên từ trên điện thờ.
Trong bộ cà sa màu khói hương , Ni cô tiến đến trước mặt ba người bộ
đội:
- A di đà Phật, quý khách cần gì ?
Người chỉ huy lên tiếng :
- Tôi cần gặp chủ hộ ngôi chùa nầy.
-
A Di Ðà Phật, Ni cô quay mặt đi vào cửa hông chánh điện. Một lát sau,
sư Trụ Trì đến trứơc mặt ba người đang giương mắt nhìn những tượng phật
mạ vàng trên bàn thờ sáng trưng. Không biết trong đầu họ đang nghĩ gì
trước cảnh chùa lộng lẫy đến khi vị Sư Trụ Trì lên tiếng A Di Ðà Phật họ
mới giật mình hỏi :
- Bà đứng tên chủ hộ chùa nầy phải không ?
- A Di Ðà Phật, thưa phải .
-
Tôi là Thủ trưởng của trung đoàn pháo của Cách mạng, được cơ sở địa
phương chỉ dẩn đến đây thông báo cho bà rõ một đơn vị pháo của lực lượng
cách mạng sẽ đóng chốt tại vườn chùa nầy.
Nghe
giọng nói của người xứ Quảng pha giọng Bắc , vị sư Trụ trì ngước nhìn
gương mặt người chỉ huy, đột nhiên sư cúi xuống thầm thì: “Ôi, Anh …”
rồi ngã khuỵ xuống. Ba lính Bắc Việt quay lưng rời khỏi chánh điện. Các
ni cô bên sau điện thờ vội chạy ra dìu sư phụ mình vào trong.
Ðặt
sư nằm trên chiếc giường tại phòng tĩnh tâm, các đệ tử nhìn nhau lo
ngại. Lần đầu tiên họ thấy tâm tư thầy bất an dường như có điều gì đó
đang khuấy động đời sống tu hành . Họ nào biết khuôn mặt người chỉ huy
Trung đoàn pháo đã đánh thức ký ức của Sư Trù trì nhớ lại kỷ niệm của
hai mươi mốt năm về trước. Lòng rạo rực yêu đương của người con gái
trong tuổi xuân thì đã bị lừa dối làm con tin trong sách lược cài người
của CS Hà Nội chuẩn bị cho cuộc lấn chiếm Miền Nam sau này càng làm nhói
buốt tim bà. Khuôn mặt lạnh lùng khắc khổ của người chồng cũ khơi thêm
nỗi đau làm rối loạn Bồ Ðề Tâm của bậc tu hành. Sư trụ trì ngồi dậy,
chậm rãi đi về hướng chánh điện gióng hồi chuông đảnh lễ trước điện thờ
Phật rồi tọa thiền dưới chân Ðức Thế Tôn tụng tạng kinh Bát Nhã lấy lại
sự yên tĩnh tâm hồn.
* * *
Hai
mươi mốt năm sống ở miền Bắc, Bùi Mậu Thà được chế độ đào tạo thành một
bác sĩ. Đầu năm 1976, Thà về Nam gặp lại mẹ . Người anh cả Bùi Hữu
Thiệt sĩ quan miền Nam đang ở trong tù. Bà Đỗ thịThân mừng rỡ khi gặp
lại đứa con trai út sau bao năm trời xa cách. Bà đã ngoài sáu mươi tuổi,
dành dụm được một số vàng, thương đứa con xa cách lâu năm nên chia cho
Thà một nửa.
Năm
lượng vàng đối với một bác sĩ ở miền Bắc là cả một gia tài. Thế nhưng
vợ chồng hắn nghi ngờ số vàng mẹ chia có thể chỉ một phần mười hay một
phần hai mươi. Ba tháng sau do vợ hối thúc, Thà quay về đòi mẹ phải đưa
thêm vàng. Mẹ thực lòng nhưng con không tin, bà cảm thấy bị xúc phạm
nặng nề. Thương con, bà đã gom góp chút của cải cuối cùng chia đều cho
hai đứa, thế mà hắn vẫn ngờ vực tấm lòng rộng rãi của mẹ. Bà giận lắm,
bèn bảo :
-
Năm cây vàng đó là ân huệ của tao cho, mầy chẳng có quyền gì đòi hỏi.
Số còn lại là phần của thằng Thiệt, anh ruột mầy đang ở trong trại tù
cải tạo, và một ít của tao dành để dưỡng già.
Thà nói : - Bà quên rằng tên lính ngụy đó đã đi ngược lại truyền thống
cách mạng của gia đình ta, mượn bom Mỹ giết chết người cha suốt đời tận
tụy với Ðảng để lại những đứa con côi cút ở Hà Tỉnh.
Nhắc
đến người chồng phụ bạc, bà Thân không nén được cơn đau. Lão Dinh ra
Bắc chưa đầy ba năm là lấy người vợ khác, riêng bà vẫn chung thủy chờ
chồng. Sau ngày Ba Mươi tháng Tư 1975 bà Thân mới biết được tin chính
xác ông Dinh đã tử thương dưới chân súng phòng không đặt tại cầu Hàm
Rồng trong trận máy bay Mỹ ném bôm. Mối hận tình âm ĩ làm khô héo tim
bà. Giờ đây chính miệng thằng con trai út giở giọng chửi anh ruột mình
là ngụy lại còn bênh vực người cha đốn mạt , cơn giận ập đến như thác vỡ
bờ, bà hét lên :
- Cả lũ bay là đồ bất nghĩa, vô ơn. Cút ! cút ra khỏi nhà tao ngay !
Thà đứng lên, từng bước một đến sát bà mẹ, miệng gầm gừ :
- Không cần bà đuổi, tôi đi ngay bây giờ, nhưng hãy đưa hết vàng đây. Vừa nói hắn vừa chụp lấy cổ mẹ hăm dọa.
Bà
Thân cảm thấy bị xúc phạm, đưa cao hai tay dùng hết lực cấu vào mặt
hắn. Cơn giận sôi lên, Thà siết mạnh tay hơn. Hơi thở bà Thân khò khè,
chân tay giựt lên từng hồi rồi cả người bà rũ xuống. Thà hoảng hốt buông
tay. Hắn vội vàng vào buồng ngủ lục tìm được gói vàng giấu bên dưới đầu
giường rồi lên xe đò ra Bắc, trốn biệt từ ngày đó.
Sau
cơn ngất vì nghẹt thở, bà Thân dần dần hồi tỉnh. Khi nhớ ra hành động
của thằng con đòi thêm vàng, bà vội vàng vào xem lại số vàng đã cất giấu
thì hỡi ôi , thằng con khốn nạn đã lấy đi hết số vàng bà đã dành dụm,
gồm 5 cây vàng cho thằng con lớn và 5 cây bà để dành dưỡng già. Bà Thân
ngã vật trên giường rồi ngất đi, đến ngày hôm sau bà trút hơi thở cuối
cùng.
Ba
năm sau ra tù, Bùi Hữu Thiệt ôm mộ mẹ khóc suốt một ngày. Chàng vì mẹ
đã trễ chuyến bay cuối cùng ra hạm đội. Mẹ vì chàng quyết giữ năm cây
vàng để chàng có phương tiện vượt biên đoàn tụ với vợ con đang ở nước
ngoài. Thiệt giận em thì ít, nhưng căm thù cộng sản đã tạo cho con người
sống trong chế độ mang tính ác thú.
* * *
Người
chỉ huy của Trung đoàn pháo Bắc Việt có toán quân đóng chốt tại chùa D.
Q. trong những ngày đầu của 30 tháng Tư, bây giờ là Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân huyện . Ông vừa ký lệnh trưng dụng ngôi chùa D. Q. làm Trung
tâm thương nghiệp và ra lệnh trục xuất tất cả những ai cư trú bất hợp
pháp trong chùa. Sư Trụ trì Tâm Ngọc buông tờ công lệnh có chữ ký của
chủ tịch huyện Phan Văn Anh. Bà không tưởng tượng được lại có ngày oan
trái đến với bà. Ngôi chùa đã che chở bà những năm tháng còn trẻ trung
để tránh cạm bẫy trần tục, giữ trinh tiết chờ chồng. Ngôi chùa đã che
giấu cán bộ hoạt động nội thành mỗi khi cơ sở bị phá vỡ. Bà, các sư muội
cùng thiện nam tín nữ đã góp công góp của xây dựng, tu sửa ngôi chùa để
bây giờ “Cách mạng” gom vào tài sản nhà nước và tước đoạt quyền hành
đạo của nhân dân. Nỗi đau của bà là đã hi sinh cả một thời xuân sắc cho
chồng, ngược lại chồng đã quên hẵn bà, xem bà như không còn hiện hữu
trên cõi đời nầy !
Ðúng
giờ Ngọ ngày Rằm tháng Tư Âm lịch (1978) Ni Sư Thích Tâm Ngọc đã châm
lửa tự thiêu giữa sân chùa D. Q. để phản đối chính quyền cộng sản biến
ngôi chùa thành trung tâm thương nghiệp. Công an thành phố đã cướp xác
sư Trụ trì kín đáo mang đi. Trên cổng chùa, cửa chánh điện được dán đầy
những bản sao lệnh trưng dụng ngôi chùa có chữ ký của Chủ tịch huyện
Phan Văn Anh. Ngày hôm sau, Nhật báo “Sài Gòn Giải Phóng” đăng mẩu tin
ngắn : “Một phụ nữ quê quán miền Trung tên Ðỗ Thị Tình mắc bệnh tâm
thần, có lẽ vì trắc trở tình duyên nên đã tự thiêu tại sân chùa D. Q.
Thi thể đã được chính quyền địa phương an táng.
* * *
Chủ
tịch huyện Phan Văn Anh đọc lướt qua bản tin trên rồi bình thản đặt tờ
báo lên bàn. Cùng lúc, ban văn thư mang vào văn phòng một phong bì lớn,
ghi tên người nhận : Phan Văn Anh .
Khui
bao thư khác thường nầy, ông lấy ra một chiếc khăn trắng đã ố màu có
thêu hai đóa hoa hồng đan chéo với nhau, một lọn tóc đen dài và một lá
thư. Ông tái mặt, vội vàng lùa những món “tang tóc” ấy vào ngăn kéo rồi
thẫn thờ đọc lá thư : “Thưa ông Phan Văn Anh, Tôi viết thư nầy với tư
cách của một người phụ nữ mang tên Ðỗ Thị Tình. Trước tiên, tôi gởi lại
chiếc khăn tay mà ông đã tặng cho tôi trong ngày cưới, đó là món quà duy
nhất của cô dâu nhận được khi về làm vợ ông. Thứ hai là lọn tóc của tôi
đã cất giữ suốt hai mươi năm từ lúc vào chùa quy y. Tôi đã lặng người
và khóc hết nước mắt khi mái tóc dài óng mượt của tôi được mẹ bảo dưỡng
từ lúc còn bé thơ bị cắt đi. Người con gái mới hai mươi ba tuổi đời đã
chịu xuống tóc vào chùa là một quyết định hi sinh vô bờ bến cũng chỉ vì
muốn giữ lâý lòng trung trinh tiết nghĩa đối với chồng. Thế mà ông đã
nhẫn tâm quên hẳn người vợ ở lại trong Nam. Ngày tôi gặp lại ông sau hơn
hai mươi năm xa cách là lúc ông đưa đơn vị pháo đến giẵm nát cảnh chùa
mà tôi đã tu tịnh trong suốt thời gian qua. Hành động tiếp theo cuả ông
là ký lệnh biến chùa làm nơi buôn bán của nhà nước. Thần tượng “Cách
mạng” trong tôi hoàn toàn sụp đổ . Tài sản đồng bào miền Nam đã bị đảng
các ông cướp đọat một cách trắng trợn và chà đạp lên cả quyền sống con
người. Khi ông nhận được thư nầy, tôi với tư cách là Sư Trụ trì chùa D.
Q. đã tự thiêu để phản đối chính sách cướp chùa phá đạo của Cộng sản
Việt Nam. Tôi vì Ðạo pháp mà thắp sáng ngọn lửa Từ bi Vô úy trong tinh
thần Ðại ngã Tinh tấn của Phật Giáo để soi đường cho chúng sanh và hi
vọng soi sáng cả lương tri ông . A Di Ðà Phật. Ni Sư Thích Tâm Ngọc, trụ
trì chùa D.Q.”
Ðặt
bức thư trên bàn, Phan Văn Anh đưa mắt nhìn khu cây kiểng trước phòng
làm việc. Gương mặt ông tối sầm. Kéo chiếc hộc bàn ông nhìn lại lọn tóc
đen tuyền nằm khoanh tròn trong bao nylon. Chợt khuôn mặt của người vợ
trẻ ngày xưa như thoáng hiện chập chờn bên lọn tóc, ông trầm ngâm, nghĩ
ngợi. Một hồi lâu, ông cầm điện thoại gọi phòng công an bảo vệ chính trị
hỏi cái xác thiêu ở chùa D. Q. chôn ở nơi nào. Một tuần lễ sau, đích
thân ông lén lút đặt trên ngôi mộ người vợ cũ một bia có khắc hàng chữ :
“Nơi an nghỉ của Ðỗ Thị Tình, sinh ngày 18 tháng 4 năm 1931 tại Q. N.
Chết ngày 15 tháng 4 năm 1978 tại Gia Ðịnh, thọ 47 tuổi”. Ông âm thầm
thực hiện công việc nầy có lẽ để lương tâm ông đỡ cắn rứt. Nhưng ông
không ngờ cử chỉ đó lại càng xúc phạm đến linh hồn người tu sĩ đã dày
công tu luyện. Bởi vì trên bia ông đã cố ý giấu nhẹm Pháp danh “Sư Nữ
Trụ Trì Chùa D.Q. Thích Tâm Ngọc.”
* * *
Trước
khi thực hiện một chuyến vượt biển, Bùi Hữu Thiệt tìm đến mộ bà dì ruột
Ðỗ Thị Tình thắp hương từ biệt. Nhìn tấm bia mộ không tên người phụng
lập, lòng Thiệt quặn thắt. Thiệt chấp tay khấn nguyện : “ Dì đã hiến
thân cho Ðạo Pháp mang ý nghĩa vô cùng lớn lao. Ngọn lửa Bi Trí Dũng của
Phật pháp bùng lên từ thân xác Dì đã thắp sáng lương tri loài người và
soi đường cho chế độ này ra khỏi vòng mê lụy. Thưa Dì, ngày mai nầy con
sẽ ra đi, không may gặp hiễm nguy, thân con có thể chìm tan trong biển
cả mênh mông nhưng hồn con sẽ nhập cùng với hàng vạn linh hồn của những
người bỏ nước ra đi bị tử nạn làm nên những con sóng thần đánh động
lương tâm thế giới. Linh hồn Dì linh thiêng xin phò hộ cho con trong
chuyến đi này được bình yên đến được bến bờ Tự do . Con hứa với Dì, nơi
vùng đất mới, con sẽ ươm mầm hạt giống Tự do để chờ ngày mang về trồng
lại trên mảnh đất quê hương Việt Nam mà hiện nay đang tràn ngập cảnh khổ
đau đầy máu và nước mắt !”
0 comments:
Post a Comment