Những tháng ngày xa xưa với những lời hiệu triệu làm nức lòng người
dân với bầu nhiệt huyết yêu Tổ Quốc, yêu đất nước, nhất là đồng bào miền
Bắc. Hồ Chí Minh cùng đám đồ đệ đã lợi dụng sự nhiệt tình của quần
chúng nhân dân này, đã rất khéo che đậy ý đồ làm tay sai cho cộng sản
quốc tế để bành trướng chủ nghĩa cực đoan và hoang tưởng ở Việt Nam và
Đông Dương, một khu vực có lượng dân số tuy đông nhưng hãy còn rất lạc
hậu về kinh tế, kỹ thuật lẫn trình độ dân trí. Sự hồ hỡi phấn khởi ấy đã
dần dà bị soi mòn, bị lột trần để phơi bày những sự thật của các thứ
gian dối mụ mị ra trước ánh sáng. Người cộng sản đã tự hại mình qua vô
vàn những lời nói trí trá nhưng hoàn toàn đi ngược lại với hành động
thực tế, điều đó đã làm cho đảng CSVN đi từ thất bại này đến thất bại
khác một cách ê chề nhục nhã khiến họ đã đánh mất đi niền tin từ nhân
dân. Ôi buổi vàng son của một thời tung hoành nay còn đâu!
Cổ nhân đã dạy: "Chiếm được thành đã khó, giữ được thành càng khó hơn". Trong Tôn Tử binh pháp cũng khẳng định "Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng".
Thái độ kiêu căng hung hãn là biểu hiện của kẻ thất phu, người cộng sản
VN được xem là thuộc hạng hữu dõng đa mưu, nhưng chỉ là mớ mưu cùn. Với
thái độ hãnh tiến, họ đã rất chủ quan và luôn say sưa trên thành tích
"chiến thắng", họ vô cùng ngạo mạn, xem trời bằng vung và coi thường tất
cả các tầng lớp nhân dân, kể cả giai cấp công nhân vô sản, cái tầng lớp
mà họ luôn đề cao và tôn vinh là giai cấp tiền phong lãnh đạo. Vì làm
dữ nên luôn lo xa, người cộng sản lúc nào cũng mang những ảo giác xem
mọi người chung quanh đều là phản động, từ nhận thức sai lầm này, họ đã
luôn nghi ngờ những mối quan tâm của cộng đồng thế giới nhất là các quốc
gia Dân hủ, Tự do, tiên tiến muốn giúp đỡ cho một xã hội tụt hậu, xuống
cấp, kém nhân quyền... như Anh, Pháp, Úc, Mỹ là những "thế lực thù địch
với âm mưu diễn biến hòa bình".
Từ não trạng không tự tin mà tận trong thầm kín họ mang đầy mặc cảm tự
ti cho nên họ đã chẳng những nghi ngờ các quốc gia có thiện chí mà nghi
ngờ cả khối dân tộc mà họ đang trực tiếp cầm nắm vận mệnh cùng sự cai
trị. Khi ngồi lại với nhau, họ luôn cường điệu để thổi phồng sự kiện, để
quan trọng hóa vấn đề rồi đưa ra những điều luật chứa đầy tính đao to
búa lớn như điều 4-HP, 79, 88, 258 trong Bộ luật hình sự cũng như những
điều luật vô lý khác.
Qua 40 năm dài sau khi chấm dứt chiến tranh, tuy trong hòa bình nhưng họ
đã không lập nên được thành tích gì đáng kể, chẳng những không phát
triển được khoa học kỹ thuật (vốn dĩ đã có cơ sở nền tảng trên đà phát
triển sẵn có của miền Nam, của "Hòn Ngọc Viễn Đông" mà ngay như Lý Quang
Diệu vào thời đó cũng đã từng mơ ước cho đất nước của ông ta) mà họ còm
phá nát cả một đất nước do những sai lầm triền miên, sai rồi sửa, sửa
vẫn sai, sửa đâu sai đấy. Họ phá banh kinh tế, họ hủy diệt đạo lý luân
thường, họ thui chột cả niềm tin, tạo ra một xã hội bát nháo, thiển cận,
dối gian, lừa đảo, dân trí thấp... trong một nhà nước cực kỳ tham nhũng
như một cơn dịch trầm kha.
Thái độ trịnh thượng, ác với dân hèn với giặc, coi dân như cỏ rác, muốn
bắt là bắt, muốn giết là giết từ bọn côn đồ côn an được mệnh danh là lực
lượng lá chắn bảo vệ đảng đã không ít gây vô vàn phẫn nộ từ mọi tầng
lớp trong xã hội, bất luận là dân thường, trí thức, tiểu doanh hay sinh
viên học sinh. Một chế độ không trọng dân, không xem dân ra gì là một
chế độ tự sát, đó là lô-gic. Thế mới biết giữ được lòng dân mới là
chuyện khó.
Dưới thể chế hiện hành, nguồn tài nguyên của quốc gia đang ngày càng cạn
kiệt, bao tiềm năng của cải vật chất đã bị các tham quan chuyển tải ra
nước ngoài nhằm mục đích phòng cho hậu sự. Bao tiềm năng về trí tuệ,
chất xám đã theo dòng trôi của con nước đục chảy ra các xứ sở khác, phục
vụ hữu hiệu cho các quốc gia khác. Những nhân tố thông minh, tài cán
còn lưu lại trong nước thì phải đối mặt với tù đày, nghi kỵ và dìm hãm
từ các những cái đầu đầy ích kỷ, ngu muội và hẹp hòi. Vận hành một đất
nước như vậy thì sự thất bại về mọi mặt là lẽ đương nhiên.
Sự mở rộng của thông tin toàn cầu, dần dà đã thức tỉnh được nhận thức
của khối dân mê muội sau bao năm đã bị đảng cố tình che mắt bịt mồm,
những sự thật được khám phá là những loại vũ khí ngấm ngầm mà đảng cùng
tổ chức của nó là guồng máy cầm quyền ví như là những con thuyền trên
đại dương bao la đang phải chực chờ đối diện với vô số cơn sóng ngầm sẵn
sàng trào dâng vây bủa để cuốn trôi đi những rác rưởi đang làm ô nhiễm
biển cả mà Thượng Đế đã dày công tạo ra.
Ngoài những khuyết điểm tệ hại xuyên suốt thời gian cầm nắm quyền hành
cai trị để rồi hôm nay lại lòi ra sự nham nhở của những bộ mặt phản quốc
từ một đảng nô Tàu, một nhà nước thuộc Hán, cái tê hại nhất của mọi sự
tệ hại. Đảng CSVN đã tự mình mê muội tách hẳn ra khỏi khối dân tộc bất
luận là quốc nội hay hải ngoại. Đảng CSVN chủ quan nghĩ rằng với sự bảo
kê của thiên triều đại Hán, họ sẽ là những Thái thú cùng đoàn quân
khuyển được trang bị tận răng những vũ khí đàn áp và nhà tù cùng khắp.
Nhưng vũ khí nào mạnh bằng bạo lực của toàn dân? Nhà tù vĩ đại nào có
thể nhốt được cả 90 triệu con người với lòng căm thù mất nước?
Với "Chiến dịch trật tự cho một thế giới mới" mang tính toàn cầu, bản
thân và vận mệnh "Thiên triều" đang trên đà bị lung lay, không còn cơ
may có đất sống thì sá chi bọn lục chốt lâu la hàng tôi tớ. Với tứ bề
thọ địch, đảng CSVN hôm nay cô đơn hơn bao giờ hết.
Tác giả xin mượn bài thơ "Nhớ rừng" nổi tiếng của thi nhân Thế Lữ để tạm kết thúc bài viết.
Nhớ rừng
Tặng Nguyễn Tường Tam
(Lời con Hổ ở vườn Bách thú)
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
1936
THẾ LỮ
26.05.2015
0 comments:
Post a Comment