Vào ngày 29 tháng 5, một viên chức Mỹ cho CNN biết các giàn pháo của
Trung Cộng được tiết lộ trong bài báo của Wall Street Journal đã không
còn thấy trên không ảnh nữa, có thể đã được tháo gỡ hay che giấu.
Nhắc lại, một bài báo trên Wall Street Journal ngày trước đó trích dẫn
lời của một viên chức Mỹ tố cáo Trung Cộng đặt hai giàn pháo trên một
trong hai đảo nhân tạo thuộc khu vực biển đang tranh chấp ở Trường Sa.
Khám phá trên tờ Wall Street Journal có kèm theo không ảnh cho thấy hàng
trăm tàu bè Trung Cộng đang hoạt động trong vùng. Sau đó, hàng loạt các
hãng tin và báo lớn của Mỹ đồng loạt đưa tin về sự hiện diện quân sự
của Trung Cộng.
Nguồn ảnh: WSJ
Điều này xác định sự nghi ngờ của Mỹ về việc Trung Cộng xây dựng các đảo
nhân tạo cho các mục đích quân sự là đúng. Cũng theo tờ Wall Street
Journal, các giàn pháo Trung Cộng không đe dọa trực tiếp đối với các phi
cơ hay tàu bè của Mỹ nhưng có khả năng bắn đến các quốc gia láng giềng
đang tranh chấp với Trung Cộng. Trung Cộng không bình luận gì về những
tố cáo do phía Mỹ đưa ra.
Hành động của Trung Cộng cho thấy “Giấc mơ Trung Hoa” để làm chủ Á Châu
của Tập Cận Bình và lãnh đạo CSTQ đang chuyển một giai đoạn mới.
Tham vọng Tập Cận Bình
Tập Cận Bình sinh ngày 15 tháng 6, 1953 trong một gia đình cộng sản
truyền thống. Họ Tập là con út của Tập Trọng Huân, nguyên là Trưởng ban
Tuyên Truyền Trung Ương Đảng kiêm Phó Thủ tướng Trung Cộng. Trong thời
kỳ Cách Mạng Văn Hóa, Tập Trọng Huân bị thanh trừng xuống làm phó giám
đốc một công ty sản xuất máy cày. Sau Cách Mạng Văn Hóa y được phục hồi
và đảm nhiệm chức vụ Bí thư tỉnh Quảng Đông từ 1979 đến 1981.
Tập Cận Bình gia nhập đoàn thanh niên CS Trung Quốc năm 18 tuổi tại một
nhà máy ở tỉnh Thiểm Tây và cũng tại nơi này y được kết nạp vào đảng
cộng sản Tàu năm 21 tuổi. Chức vụ cuối cùng của Tập Cận Bình tại nhà máy
là Bí thư Đảng bộ Khu sản xuất. Khi Tập Cận Bình rời nhà máy ở Thiểm
Tây năm 22 tuổi, y được trao bằng khen Cá Nhân Xuất Sắc Về Nghiên Cứu Tư
Tưởng Mao Trạch Đông.
Suốt thời gian trước khi gia nhập đảng CSTQ vào tháng Giêng 1974 đến cho
khi nắm quyền chủ tịch đảng, Tập Cận Bình được trui rèn trong lý luận
Mác Xít. Hầu hết hoạt động chính trị của y đều gắn liền với hệ thống
đảng, từ chức vụ bí thư huyện ủy huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc năm 1982
cho đến Chủ tịch Quân Ủy Trung Ương Đảng cộng sản. Bằng tốt nghiệp đại
học đầu tiên của y cũng về Tư tưởng và Lý luận Mác. Căn bản giáo dục Tập
Cận Bình thừa hưởng từ gia đình cho đến xã hội đều được xây dựng trên
nền tảng lý luận Cộng Sản. Trước khi đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch đảng và
nhà nước Trung Cộng Tập Cận Bình là Hiệu trưởng Trường Đảng Trung Ương.
Do đó, không lạ gì khi quan điểm chính trị tư tưởng họ Tập gần với Mao
hơn là gần với Đặng.
Không giống như Giang Trạch Dân hay Hồ Cẩm Đào, những kẻ được Đặng Tiểu
Bình chọn lựa và rèn luyện, Tập Cận Bình không muốn núp dưới bóng họ
Đặng. Bằng chứng tham vọng chỉ đứng sau Mao của Tập Cận Bình thể hiện
trong ngày kỷ niệm sinh nhật Đặng Tiểu Bình. Ngày sinh nhật của các lãnh
đạo tối cao Trung Cộng thường được xem như là một ngày lễ lớn. Nhất là
sinh nhật của họ Đặng, ngày 22 tháng 8 2014, càng quan trọng hơn vì đó
là ngày kỷ niệm tròn 110 năm y ra đời tại Tứ Xuyên. Tháng trước đó báo
chí Trung Cộng chuẩn bị lên khuôn các bài viết ca ngợi Đặng, lãnh đạo
các cấp chuẩn bị các chương trình kỷ niệm rầm rộ để tưởng nhớ Đặng. Tuy
nhiên, chỉ vài tuần trước ngày sinh nhật của Đặng, ngoại trừ trong nội
bộ trung ương đảng, các chương trình kỷ niệm ngoài công chúng đều bị hủy
bỏ. Tập Cận Bình, dĩ nhiên chưa dám phê bình hay chỉ trích các chính
sách của Đặng Tiểu Bình nhưng trong các phát biểu cho thấy y muốn nhấn
mạnh Đặng dù tài ba thao lược cũng chỉ là con người của một giai đoạn,
một thời đại. Với y, họ Đặng thuộc về một giai đoạn của quá khứ và trong
thời đại Trung Cộng ngày nay chỉ có Tập Cận Bình sau Mao Trạch Đông.
Nhưng cũng giống như Mao trong xung đột Đài Loan, Tập Cận Bình đang phải
đối phó với chính sách ngăn chận (Containment) của Mỹ không chỉ trong
lãnh vực chính trị, kinh tế mà cả quân sự như đã từng áp dụng đối với
Liên Xô trong Chiến Tranh Lạnh. Để thoát ra khỏi vòng vây, Tập Cận Bình
chủ trương quân sự hóa Biển Đông.
Tham vọng Tập Cận Bình qua bài học Hitler
Tham vọng của họ Tập là bản sao chủ trương của Hitler đã thực hiện tại châu Âu trong những năm đầu thập niên 1930.
Học bài học Hitler để đương đầu với Trung Cộng là một điều cần thiết.
Các điều kiện chính trị và phương tiện giúp Hitler nắm lấy quyền lực
trong thập niên 1930 tại Đức và sự lớn mạnh của Trung Cộng hiện nay, có
nhiều điểm giống nhau. Hai nguyên nhân đã được người viết trình bày
trong nhiều bài trước, tham vọng bành trướng trên phạm vi thế giới của
Hitler về căn bản không khác nhiều so với tham vọng của lãnh đạo Trung
Cộng và chính sách nhân nhượng mà cố Thủ tướng Anh Neville Chamberlain
đã áp dụng trong đàm phán với Hitler cũng tương tự như không khí chủ hòa
trong nhiệm kỳ đầu của TT Obama là cơ hội tốt cho Trung Cộng gia tăng
khả năng quân sự trong vùng Á Châu.
Mục đích của Hitler khi đưa quân vào vùng Rhineland năm 1936 là để thăm
dò phản ứng của Anh và Pháp. Trước khi ra quân, Hitler chỉ thị các tướng
lãnh Đức nếu quân đội Pháp can thiệp, không được đánh trả mà phải lập
tức rút quân về. Quân Pháp không ngăn chận, và thử nghiệm của Hitler
thành công. Sau đó y tiếp tục thử nghiệm Áo, rồi Tiệp cho đến khi Thế
chiến thứ hai bùng nổ ngày 1 tháng 9, 1939.
Câu hỏi mà nhiều sử gia, nhiều nhà phân tích đặt ra rằng Thế chiến thứ
hai có thể đã tránh được không? Phần lớn các nhà phân tích cho rằng có
thể tránh được nếu các lãnh đạo thế giới thời đó kịp thời ngăn chận tham
vọng của Hitler. Các lãnh đạo châu Âu đã không ngăn chận Hitler nên sau
đó phần lớn châu Âu bị tàn phá và khoảng 80 triệu người bị giết. Và
tương tự, Trung Cộng sẽ thiêu đốt Á châu nếu tham vọng bành trướng của
Tập Cận Bình và lãnh đạo CSTQ không kịp thời bị ngăn chận.
Thay đổi trong chính sách ngoại giao hai mặt của Mỹ đối với Trung Cộng (Dual-Track Policy)
Giáo sư Aaron L. Friedberg, thuộc đại học Princeton và nguyên Phụ tá An
ninh Quốc gia tại văn phòng Phó Tổng Thống vào năm 2005, giải thích
chính sách này gồm hai mặt: vừa hợp tác xuyên qua ngoại giao, mậu dịch,
khoa học kỹ thuật và văn hóa giáo dục nhưng đồng thời cũng tăng cường
quân sự để đáp ứng với sự gia tăng quân sự của Trung Cộng trong vùng
Đông Á qua các hợp tác quân sự với Úc, Nhật, Nam Hàn và Philippines.
Chính sách này bị phê bình vì trong giai đoạn đầu TT Barack Obama tỏ ra
mềm dẻo, nghiêng nặng về phía đàm phán, thương thuyết trong khi Trung
Cộng không hành xử với tư cách một cường quốc có trách nhiệm, cụ thể qua
việc Bắc Hàn thử nghiệm hỏa tiễn tầm xa và việc Iran thí nghiệm nguyên
tử. Ngoài ra, trong lúc Mỹ cắt giảm ngân sách quốc phòng, Trung Cộng
lại gia tăng với mục đích nắm phần ưu thế, nhất là tại Á Châu. Trong
thời gian qua, Mỹ đã điều chỉnh sách sách ngoại giao hai mặt và nghiêng
về phần quân sự.
Tại đại học Queensland, Brisbane, Úc trong dịp họp Thượng Đỉnh G20 tháng
11 năm ngoái, TT Obama cam kết “Mỹ sẽ tiếp tục sự can thiệp bằng mọi
phương tiện trong quyền lực Mỹ, ngoại giao, quân sự, kinh tế, phát
triển, sức mạnh về giá trị lý tưởng Mỹ”.
Sự kiện đưa máy bay thám thính tối tân nhất của Mỹ US P8-A Poseidon bay
trên khu vực Trung Cộng đang xây đảo nhân tạo trên Biển Đông, bất chấp
việc hải quân Trung Cộng khám phá và phát tín hiệu cảnh cáo 8 lần là một
bằng chứng. Ngoài phi cơ thám thính, mới đây Khu trục hạm chiến đấu USS
Forth Worth cũng tiến vào khu vực Trung Cộng cho rằng thuộc chủ quyền
của họ. Mặc dù lên tiếng tố cáo Mỹ “khiêu khích”, Trung Cộng đã thấy Mỹ
có sự chuyển hướng trong chính sách đối ngoại của Mỹ qua các biện pháp
cứng rắn và cụ thể trước chính sách bành trướng thô bạo của Trung Cộng
trên Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ashton Carter cam kết Mỹ sẽ không giảm bớt các
hoạt động quân sự chung quanh khu vực đảo nhân tạo thuộc phạm vi 600 dặm
từ bờ biển Trung Quốc. Carter cũng nhấn mạnh Mỹ chẳng những tiếp tục
hiện diện quân sự trong khu vực mà còn ủng hộ các quốc gia Đông Nam Á
trong đó có đồng minh Philippines của Mỹ và Việt Nam.
Phản ứng trước những tuyên bố cứng rắn của Ashton Carter, phát ngôn viên
Bộ Ngoại Giao Trung Cộng Hoa Xuân Oánh (Hua Chunying) cũng chỉ trả đũa
bằng những lời quen thuộc: “Trung Quốc kêu gọi Mỹ nghĩ ba lần trước khi
hành động, chấm dứt các phát biểu và hành động có tính khiêu khích và
làm việc nhiều hơn cho lợi ích của hòa bình và ổn định khu vực thay vì
làm ngược lại”.
Tập Cận Bình lo ngại TPP
Nỗi lo lớn nhất trong nhận thức của các lãnh đạo Trung Cộng từ Mao Trạch
Đông đến Tập Cận Bình là nỗi lo sợ bị bao vây, cả về quân sự lẫn kinh
tế. Nỗi lo đó đã chi phối toàn bộ chính sách đối ngoại của Trung Cộng,
không chỉ về chính trị, về kinh tế thương mại mà cả trong xung đột lãnh
thổ, lãnh hải. Trung Cộng tố cáo Mỹ đang sử dụng TPP (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement) như là phương tiện để áp dụng
chính sách “Sức mạnh mềm” (Soft power) tại Á Châu. Shi Yinhong, giáo sư
đại học Renmin University tại Bắc Kinh thừa nhận “quan hệ giữa hai nước
chưa bao giờ căng thẳng hơn lúc này”.
Khác với các hiệp ước kinh tế quốc tế khác, TPP không chỉ giới hạn trong
lãnh vực hàng hóa và dịch vụ mà còn bao gồm quyền tài sản trí tuệ, định
chế chung về môi trường, tiêu chuẩn lao động và cơ sở kinh tế quốc
doanh. Những điều khoản trong hiến chương sau khi được đàm phán và ký
kết có thể làm thay đổi cấu trúc nền kinh tế của một số quốc gia thành
viên. TPP giúp cho các quốc gia thành viên tăng khả năng cạnh tranh
chống lại hàng hóa Trung Cộng và cũng giúp cho Mỹ tái cân bằng liên minh
an ninh trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương một cách chủ động. Những
đặc điểm chính trị và an ninh đó của TPP là mối lo ngại hàng đầu cho Tập
Cận Bình và lãnh đạo Trung Cộng. Trung Cộng vẫn có quyền tham gia nhưng
Tập Cận Bình biết đã quá trễ để có thể thay đổi mục đích của TPP khi
các cuộc đàm phán đã diễn ra quá nhiều vòng và nội dung đã được thỏa
thuận quá sâu về chi tiết.
Tập Cận Bình và các lãnh đạo Trung Cộng cho rằng Mỹ sử dụng TPP như là
một vũ khí nhắm thẳng vào Trung Cộng, đe dọa nghiêm trọng đến các chính
sách kinh tế của Trung Cộng. Trung Cộng thiệt hại không chỉ về giá cả
hàng hóa, tiêu chuẩn hàng hóa, chính sách đầu tư, xuất nhập cảng mà còn
có nguy cơ ảnh hưởng đến cả vai trò lãnh đạo của đảng CS. TT Obama không
giấu diếm điều nay khi tuyên bố “Nếu Mỹ không tiến hành tự do mậu dịch
với Á Châu, rồi Trung Quốc sẽ chế ngự khu vực này”.
Tranh chấp Biển Đông là cuộc tranh chấp vô cùng phức tạp. Mỗi quốc gia
trong cuộc đều có những khó khăn riêng. Quan hệ kinh tế rất lớn giữa Mỹ
và Trung Cộng mang đặc tính phụ thuộc vào nhau sâu sắc, khác với quan hệ
giữa Mỹ và Nhật hay giữa Mỹ và Đức trong thế chiến thứ hai. Đồng ý rằng
nước nào cũng có khó khăn nhưng Trung Cộng là nước đương đầu với nhiều
khó khăn nhất, không phải chỉ đối ngoại mà quan trọng hơn là khó khăn
nội bộ. Nếu có xung đột quân sự, các quốc gia dân chủ dù thiệt hại bao
nhiêu vẫn có cơ hội phục hồi nhưng Trung Cộng thì khác, cơ chế chính trị
Trung Cộng sẽ sụp đổ và lục địa Trung Hoa có nguy cơ vỡ thành nhiều
mảnh nhỏ.
Trung Cộng theo đuổi chính sách đối ngoại chuột đồng
Để tiếp tục bành trướng nhưng tránh né các biện pháp cứng rắn của Mỹ,
Trung Cộng có thể sẽ phải trở lại với chính sách đối ngoại như cách loài
chuột đồng tàn phá mùa màng như họ đã áp dụng nhiều năm qua. Trung Cộng
không đánh chiếm những vùng lớn, phát động những trận đánh lớn như
trong chiến tranh biên giới 1979 mà chỉ từ từ gặm nhấm dần mòn lãnh thổ
và lãnh hải Việt Nam như cách đám chuột đồng gặm nhấm từng bụi lúa.
Một mặt Trung Cộng lớn tiếng với quốc tế là luôn theo đuổi chính sách
“hòa bình” và “ổn định” nhưng mặt khác lấn chiếm từng bãi san hô, từng
hòn đảo nhỏ trên Biển Đông, đặt những giàn khoan trong thềm lục địa Việt
Nam. Những hành vi ăn cắp vặt này không đủ va chạm quyền lợi nặng đến
mức các cường quốc phải đặt vấn đề và các biến cố do loài chuột đồng
Trung Cộng gây ra không đủ tác hại an ninh khu vực đến mức quốc tế phải
quan tâm.
Thật vội vã khi chỉ nhìn vài hành vi quân sự nhỏ như máy bay thám thính
của Mỹ US P8-A Poseidon bay trên khu vực đảo đang tranh chấp rồi kết
luận rằng chiến tranh sắp sửa xảy ra nhưng rõ ràng Mỹ đang áp dụng chính
sách ngăn chận và Trung Cộng sẽ phải làm tất cả những gì họ phải làm để
thoát khỏi vòng vây. Bài học Liên Xô vẫn còn rất mới, không thoát được
vòng vây, cơ chế chính trị sớm muộn cũng sẽ sụp đổ. Thế chiến thứ nhất
làm tan rã hàng loạt nhiều đế quốc và thế chiến thứ hai phân chia thế
giới thành hai cực. Thật khó có thể tiên đoán một thời điểm chính xác
cho sự bùng vỡ các mâu thuẫn đối kháng tại Á Châu nhưng nhiều nhà phân
tích đồng ý một trật tự mới đang hình thành.
“Việt Nam tôi đâu?”
Như người viết đã phân tích chính luận Tranh chấp Mỹ - Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước
đăng trên talawas 5 năm trước, nhìn vào bản đồ Á châu, chúng ta không
khỏi nghĩ đến chiến tranh Trung-Mỹ rồi sẽ phải xảy ra. Các nhà bình luận
có thể cho rằng quyền lợi của các siêu cường ngày nay đã phụ thuộc,
quyện lẫn vào nhau đến mức độ không thể có một bên thắng, một bên bại
nếu chiến tranh bùng nổ. Sau Thế chiến thứ nhất đã có nhiều người nói
như thế nhưng chưa đầy 20 năm sau, nhân loại lại phải lao vào cuộc chém
giết với hậu quả trầm trọng gấp nhiều lần hơn trước.
Cuộc Chiến tranh Lạnh Mỹ và Liên Xô vừa qua để lại nhiều bài học quý giá
về số phận của những sân sau, tiền đồn và vùng độn. Có những tiền đồn
chìm đắm trong chiến tranh hận thù nghèo đói như Cu Ba, Việt Nam, Bắc
Hàn, Afghanistan nhưng cũng có những tiền đồn nhờ xung đột đã trở nên
giàu có như Nam Hàn, Tây Đức, Đài Loan.
Đặc điểm chung rõ nét của những quốc gia vượt qua được số phận sân sau,
tiền đồn và vùng độn để trở nên thăng tiến giàu mạnh chính là dân chủ.
Dân chủ là đôi cánh thời đại đã giúp cho nhiều vượt qua những vị trí địa
lý chính trị khó khăn và trở thành những nước giàu mạnh, được kính
trọng, có tiếng nói độc lập trong bang giao quốc tế.
Không ai có thể tiên đoán một ngàn năm nữa Việt Nam sẽ ra sao. Nhưng dù
ra sao thì đó cũng là trách nhiệm của các thế hệ sau này. Trách nhiệm
của thế hệ hôm nay là giữ nguyên vẹn được mảnh đất mà tổ tiên để lại và
xây dựng trên đó một căn nhà thương yêu, đoàn kết, tự do, dân chủ và
giàu mạnh. Dân chủ sẽ là vũ khí hữu hiệu nhất để ngăn chận những đe dọa
từ Trung Cộng và đồng thời cũng là phương tiện giúp Việt Nam thăng tiến
cùng thế giới.
0 comments:
Post a Comment