Thursday, February 12, 2015

Theo Đảng mất Lương Tâm

P.J. Honey - Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch - ...Cả hai thượng tá đều tin hành vi của họ trong những năm quân ngũ rõ ràng đáng ghê sợ khi hồi tưởng lại, họ đã sống trong không khí hư ảo, ác mộng do Đảng tạo ra; nhưng cả hai đều khẳng định cương quyết họ lúc ấy vẫn không nhận thức được như thế. Cả hai cũng tuyên bố nếu họ thảm sát dân thường chăng nữa, tuy không cần thiết, họ cũng sẽ không bị cấp trên trừng phạt. Nếu sau này vụ đổ máu ấy xét thấy không cần thiết, hay cho dù gây tổn hại đến sự nghiệp Cộng sản, họ sẽ chỉ phải thừa nhận rằng họ đã phán đoán sai lầm, và hứa ra sức nâng cao sự hiểu biết của mình. Còn ngược lại, nếu họ tránh thảm sát dân thường vì những lý do nhân đạo, họ sẽ thậm chí chắc chắn bị tố cáo là “cảm tính”, là “thiếu nền tảng chính trị vững vàng”, là vô kỷ luật, và họ sẽ bị trừng phạt nặng nề...

*

1. Bi kịch Huế

Ta không thể nào phóng đại tầm quan trọng chuyện đã xảy ra ở Huế vì từ đấy ta có mô hình tỷ lệ về những gì sẽ diễn ra theo sau chiến thắng quyết định của Cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Hành vi của những người lính Cộng sản chiếm đóng thành phố bất hạnh ấy, quả thực, khác với những hành vi thường lệ của Cộng sản trước đây về khía cạnh không quan trọng. Nhưng ở Huế, ta có thể điều tra ngay lập tức sau đấy những hành động của họ sau khi những hành động này đã xảy ra và với đầy đủ chi tiết, cũng như hỏi những nhân chứng đã chứng kiến chúng từ đầu đến cuối. Người viết bài này có mặt ở Huế trong suốt tháng Chín 1970, và có thể xem xét những địa điểm nơi các sự kiện diễn ra và hỏi những nhân chứng về những sự kiện này. Đây là những gì đã xảy ra.

Lực lượng Cộng sản gồm mười hai ngàn binh lính, đa phần quân chính quy miền Bắc Việt Nam, tấn công và chiếm thành phố Huế vào tối ngày 30 tháng Giêng, 1968. Cộng sản ở trong thành phố 26 ngày trước khi cuối cùng bị đánh bật ra. Một số người miền Nam Việt Nam, cả lính và dân thường, bị giết chết trong lúc giao chiến, nên căn cứ vào vết thương hay hoàn cảnh lúc chết ta có thể xác định ngay rằng họ chết do chiến trận. Riêng những người khác bị cố ý sát hại theo lệnh của 150 cán bộ dân sự phụ trách về thường dân Huế trong khi lính cộng sản chú trọng về công tác quân sự. Vì không một viên chức Cộng sản nào nếu không được phép mà lại dám thực hiện một chiến dịch đã được kế hoạch từ trước và bài bản như thế, nên ta có thể hầu như chắc chắn rằng 150 người này thực hiện chương trình hành động đã được cấp trên Đảng Cộng sản của họ ra lệnh rất rõ ràng và cương quyết. Không phải tất cả các cán bộ dân sự này vào Huế cùng lúc với binh lính, vì nhiều người thuộc về hạ tầng cơ sở Cộng sản ở đấy đã ở sẵn trong thành phố. Đa số 150 người này sinh trưởng ở địa phương, quê ở tỉnh Thừa Thiên, biết tường tận thành phố và cư dân Huế.

Trong những ngày đầu tiên chiếm đóng, những cán bộ dân sự này lùng bắt những người dân có tên và địa chỉ trong những danh sách đã soạn sẵn trước khi Cộng sản tấn công, và giải họ ra trước các tòa án cuội. Mỗi “phiên tòa” diễn ra chỉ độ mười phút, và tất cả các bị cáo đều bị kết tội là “kẻ thù cách mạng”. Bản án- luôn luôn hành quyết-được thi hành ngay lập tức, và xác của họ hoặc là được chôn cất hay trả về cho gia đình. Nạn nhân là những công chức, sĩ quan và hạ sĩ quan quân đội Quốc gia, giáo chức, bác sĩ, và tu sĩ; những thành phần tinh hoa thực sự trong dân chúng Huế. Một khi giết xong những cá nhân đã bị ghi tên từng người này, cán bộ dân sự bắt đầu lùng bắt đợt hai, lần này bắt theo danh sách nghề nghiệp, việc làm, tổ chức, nhóm và giai cấp xã hội, chứ không theo tên từng người như trước. Đợt thanh trừng thứ hai này hiển nhiên dự định giết những ai thuộc về giai cấp xã hội, nghề nghiệp, hay hội đoàn mà, dưới mắt Cộng sản, sẽ trở thành đối lập tiềm tàng trong tương lai, vì thế rất nhiều người không dính dáng gì đến chính trị- ngay cả trẻ em và học sinh-cũng bị giết chết. Do tính chất cuộc thanh trừng, đợt thanh trừng lần thứ hai này cũng đã giết nhiều người vốn là những người ủng hộ tích cực sự nghiệp cộng sản ở Huế cho dù họ thuộc về những nhóm đáng nghi ngờ. Độ hai ngàn người đã bị giết chết trong chiến dịch này.

Trong suốt tuần lễ cuối cùng Cộng sản chiếm đóng Huế- họ đã bị đánh bật ra khỏi Huế vào ngày 24 tháng Hai- những cán bộ này đã bắt và giải đi hàng trăm công dân sau khi báo cho họ biết họ được đưa đi học tập chính trị. Đôi khi cán bộ biết những người bị bắt và xưng hô bằng tên với họ, nhưng nhiều lần khác các cuộc bắt bớ có vẻ không dự tính trước, như khi bốn trăm người trú ẩn trong nhà thờ công giáo Phủ Cam bị giải đi chung với nhau. Từ đấy người ta đã phỏng đoán những người bị bắt vào những ngày cuối cùng của cuộc chiếm đóng đã bị bắt vì họ sau này có thể nhận diện những cán bộ thuộc cơ sở hạ tầng Cộng sản địa phương, và vì thế họ phải bị giết. Nhưng đây cũng chỉ là phỏng đoán, và vài lý giải khả dĩ khác cũng sẽ đều hợp lý với hoàn cảnh lúc ấy. Dù thế nào đi nữa, những người này đã bị bắt đi và từ đấy biệt tăm biệt tích. Người thân và bạn hữu vẫn tiếp tục hy vọng họ bị Cộng san giam giữ và vẫn còn sống.

Hai ngày sau khi Cộng sản bị đánh bật ra khỏi Huế, người ta phát hiện bảy mươi xác trong khuôn viên trường Gia Hội. Trong những tháng sau đấy, thêm mười tám địa điểm chôn người khác với 1.030 xác. Năm sau, nhiều mồ chôn tập thể tình cờ được phát hiện ở Phú Thứ, cách thành phố Huế mấy cây số, và tìm thấy được 809 xác. Mãi cho đến cuối tháng Chín 1969 một mồ chôn tập thể khác được tìm thấy, lần này ở Khe Đá Mài khó đến, nhờ những người Cộng sản đào thoát cung cấp thông tin. Đến lúc ấy những xác chết đã bị phân hủy hoàn toàn đến mức không thể nào nhận ra được, nhưng phát hiện 250 sọ người. Tổng cộng, thành phố Huế mất 5.800 công dân chết hay mất tích trong các đợt thanh trừng liên tiếp. Tất cả những người này đều biến mất hoàn toàn, và nhiều nấm mồ có thể còn được phát hiện. Người ta bây giờ đã từ bỏ hy vọng rằng những người mất tích mà vẫn chưa tìm thấy có thể vẫn còn sống.

Những biến cố này diễn ra trong khoảng thời gian 26 ngày trong thành phố mà Cộng sản đã luôn luôn thừa biết họ sẽ bị đánh bật ra khỏi. Bắt bớ và tàn sát được thực hiện, một cách lạnh lùng và cố ý, từ lệnh của lãnh đạo Cộng sản, theo những kế hoạch đã được xếp đặt từ trước. Về sau chính những bình luận của báo đài Cộng sản Việt Nam về những sự kiện này cuối cùng đã làm tiêu tan bất kỳ khả năng nào cho rằng họ đã phạm sai lầm khủng khiếp, các cán bộ địa phương làm sai hay làm vượt quá mệnh lệnh cấp trên giao cho họ. Tiêu biểu cho những lời bình luận này là buổi phát thanh của Đài Giải phóng Cộng sản vào ngày 26 tháng Tư, 1968, trong lúc các mồ chôn tập thể đang được phát hiện. Đài tuyên bố những người bị giết là “bè lũ côn đồ tay sai mang nợ máu với đồng bào đã bị các lực lượng vũ trang và nhân dân Miền nam tiêu diệt vào đầu xuân.” Không một lời ân hận.

2. Quan điểm của cộng sản về Huế

Đói kém, dịch bệnh, và lũ lụt xảy ra thường xuyên tại nhiều nơi ở Châu Á khiến chuyện chết trẻ và đau đớn trở thành hiện tượng quá bình thường, rồi người dân đâm ra chấp nhận cam phận những điều không thể tránh được. Thuyết định mệnh của người Châu Á khi đối diện với những tai họa đáng sợ luôn luôn khiến người Phương Tây kinh ngạc. Nhưng bất chấp sự cam chịu nghịch cảnh bẩm sinh này, cuộc thảm sát rất nhiều thường dân Huế một cách tàn bạo và rất bài bản này đã làm cho nhân dân miền Nam Việt Nam rất kinh hoàng và ghê tởm. Thêm vào đấy, những công dân Huế mà người viết bài này đã hỏi đến đều bày tỏ sự khó hiểu; họ hoàn toàn không hiểu tại sao người Việt Nam lại có thể hành xử một cách tàn bạo đến như thế đối với đồng bào của mình. Theo họ, cuộc thảm sát đã tạo ra bằng chứng không thể nào tranh cãi là cuộc kháng chiến của Cộng sản đã phơi bày tất cả sự giả dối về chiêu bài giải phóng nhân dân miền Nam Việt Nam, và đang lộ liễu mưu tính thiết lập một chế độ chuyên chính Cộng sản độc tài và áp bức. Những người đào thoát từ phía Cộng sản chẳng cảm thấy khó hiểu như vậy, mặc dù họ rất vất vả khi giải thích những lý do của họ cho những ai đã không trải qua những năm tháng phải tồn tại dưới sự kiểm soát ngặt nghèo của chế độ Cộng sản, không được tiếp xúc với bên ngoài và phải chịu đựng hàng ngày những áp lực tâm lý của báo đài cộng sản. Hai người cựu Cộng sản sáng suốt nhất mà người viết bài này đã phỏng vấn là hai sĩ quan quân đội cấp cao, Thượng tá Trần Văn Đắc, người đào thoát sang phía Quốc gia vào tháng Tư 1968, và Thượng tá Nguyễn Thành, người đào thoát vào tháng Năm 1970. Cả hai đều không tham dự vào các biến cố ở Huế, nhưng cả hai đã tham gia vào cuộc tấn công vào Sài Gòn trong cuộc Tấn công Tết. Là quân nhân, họ chỉ có thể nói về nhận thức của họ mà đã bị tẩy não bởi kinh nghiệm đời lính Cộng sản của họ khi phục vụ ở miền Nam Việt Nam.

Cuộc sống trong quân ngũ nào cũng phải luôn luôn phục tùng kỷ luật-tuân theo điều lệnh, theo mệnh lệnh cấp trên, chấp hành những thủ tục đã quy định, huấn luyện, vân vân. Sau một thời gian phản xạ của ta trở thành phản xạ có điều kiện, và hành động của ta trở thành hành động bản năng, hầu như vô ý thức. Nhưng ở các lực lượng vũ trang Cộng sản Việt Nam còn có một phạm vi khác, một lĩnh vực mà quân đội Phương Tây hầu như không lưu tâm đến, tức học tập chính trị. Có lẽ ngành quan trọng nhất của Quân đội Cộng sản Việt Nam là ngành chính trị, những cán bộ ngành này đều tiến hành liên tục những đợt học tập chính trị, phê và tự phê. Những người lính Cộng sản phải thường xuyên thú nhận khuyết điểm của họ trước cuộc họp nhóm, và phải lắng nghe những lời thú nhận từ những người khác trong nhóm. Họ phải phê bình lẫn nhau về mọi khía cạnh hành vi. Trải nghiệm lâu dài những thủ tục này sẽ tạo ra trong não người, vì không thể tìm từ nào chính xác hơn, cái mà ta có thể gọi là sự tự kiểm duyệt. Vì sự chấp nhận phê bình luôn luôn đau đớn, và đôi khi khiến ta rất đau khổ và lo lắng, nên não sẽ tự hình thành cơ chế cảnh báo riêng của não về những lời nói hay hành động nào có thể tạo ra sự phê bình. Cuối cùng, theo bản năng, người lính tránh tất cả mọi thứ không hợp với những hành vi xã hội chuẩn mực mà luôn luôn do Đảng Cộng sản quyết định. Chính bản năng của họ chứ không phải sự hiện diện của cán bộ Đảng khiến họ làm điều này, vì chính tất cả các đồng đội của họ cũng bị tẩy não để báo cáo và chỉ trích bất kỳ sự vi phạm hành vi chuẩn mực thông thường nào. Vì những người lính Cộng sản ở miền Nam Việt Nam không sống trong dân chúng, mà đóng quân ở những căn cứ xa xôi nơi họ chỉ gặp gỡ đồng đội, nên chẳng bao lâu sau họ không còn nhận thức về hoạt động tự kiểm duyệt này. Do sống trong cộng đồng nơi mỗi thành viên đều chấp nhận và làm theo những hành vi chuẩn mực như thế, nên họ dễ dàng coi hành vi thường lệ của họ là bình thường, vì về mọi phương diện hành vi ấy phù hợp với hành vi của cộng đồng. Không tuân lệnh là lỗi lầm hầu như chắc chắn bị phê bình, cho nên chính ý nghĩ không tuân lệnh ấy không còn tồn tại. Vì vậy, nếu những người lính bị tẩy não như thế nhận lệnh đi tìm và giết những người có tên trong danh sách do cán bộ chính trị Đảng trao, hay nhận lệnh hành quyết những người mà cán bộ chính trị giao cho họ, họ sẽ chấp hành một cách vô ý thức và sẽ không bị những tình cảm thông thường của con người cản trở.

Cả hai thượng tá đều tin hành vi của họ trong những năm quân ngũ rõ ràng đáng ghê sợ khi hồi tưởng lại, họ đã sống trong không khí hư ảo, ác mộng do Đảng tạo ra; nhưng cả hai đều khẳng định cương quyết họ lúc ấy vẫn không nhận thức được như thế. Cả hai cũng tuyên bố nếu họ thảm sát dân thường chăng nữa, tuy không cần thiết, họ cũng sẽ không bị cấp trên trừng phạt. Nếu sau này vụ đổ máu ấy xét thấy không cần thiết, hay cho dù gây tổn hại đến sự nghiệp Cộng sản, họ sẽ chỉ phải thừa nhận rằng họ đã phán đoán sai lầm, và hứa ra sức nâng cao sự hiểu biết của mình. Còn ngược lại, nếu họ tránh thảm sát dân thường vì những lý do nhân đạo, họ sẽ thậm chí chắc chắn bị tố cáo là “cảm tính”, là “thiếu nền tảng chính trị vững vàng”, là vô kỷ luật, và họ sẽ bị trừng phạt nặng nề.

Về sau khi những lời giải thích này của hai sĩ quan được đưa ra trước một nhóm những người đào thoát từ miền Bắc Việt Nam đã sống qua nhiều năm ở dưới chế độ Cộng sản ở Bắc Việt Nam, nhiều người trong họ từng giữ những chức vụ cao cấp và nhiều trách nhiệm, họ đều tin ngay rằng tất cả những lời giải thích này đều đúng. Không một ai trong nhóm thừa nhận có ngạc nhiên gì về các sự kiện đã xảy ra ở Huế, coi chúng như là điềm báo trước cho những gì sẽ xảy ra theo sau chiến thắng của Cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Câu hỏi nữa về những gì họ đoán sẽ diễn ra ở miền Nam Việt Nam nếu Cộng sản chiếm được nước này đã tạo ra một sự thảo luận rất lâu. Tất cả những người đào thoát này- họ gồm có những người như Tiến sĩ Phạm Thành Tài; cựu giáo sư Khoa Chính trị ở Đại học Hà Nội; Võ Thanh Tòng, chuyên viên ngân hàng; Đại úy Lê Phát Nguyên, trước kia từng công tác ở Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội; Võ Ngọc Cơ, nhân viên tình báo; vân vân-đều nêu ra những tiền lệ và những lời tuyên bố chính thức của Cộng sản để đi đến kết luận nhất trí rằng thảm sát là tất yếu. Những thành viên của các chính phủ miền Nam Việt Nam nối tiếp, công chức, sĩ quan quân đội, cảnh sát, chức sắc tôn giáo, trí thức, nhà chính trị, những người hành nghề chuyên môn sẽ là trong số những người đầu tiên bị sát hại. Tất cả các đảng phái chính trị sẽ bị tiêu diệt, và những người giữ chức vụ trong các đảng này sẽ bị hành quyết. Cũng không có bất kỳ bất đồng ý kiến nào về sự thanh toán những người tỵ nạn đã chạy trốn khỏi miền Bắc Việt Nam, hay thanh toán những ai đã đào thoát khỏi các lực lượng vũ trang Cộng sản, tất nhiên, bao gồm chính những người phát biểu ý kiến này. Thực sự đã nảy sinh bất đồng ý kiến về số phận của giai cấp tư sản-thương gia, địa chủ, chủ cửa hàng, vân vân. Dù họ đều đồng ý tất cả những người này sẽ bị bắt, bị xét xử, và bị kết án tử hình, nhưng không phải mọi người đều đồng ý tất cả những người này nhất thiết sẽ bị giết ngay. Một số người phát biểu nghĩ rằng chỉ những người nổi bật trong số những người này, đặc biệt những người rất danh tiếng hay rất khét tiếng sẽ bị tử hình đầu tiên. Nhiều người nhớ lại trong các cuộc họp chính trị ở miền Bắc Việt Nam người ta đã khen ngợi cách Trung Quốc kết án tử hình người tù, nhưng rồi hoãn việc hành quyết chừng nào người tù còn làm việc cật lực trong các nhà máy hay nông trường. Họ tin có thể cách làm như thế sẽ được áp dụng ở miền Nam Việt Nam. Những người đã bị kết án tử hình sẽ được phép hoãn việc hành quyết bằng cách ra sức làm những công việc được phân công. Nếu họ tiếp tục làm việc cật lực, họ sẽ được để cho sống sót tới khi nào cái chết tự nhiên xảy đến với họ; nhưng nếu bất kỳ ai trong họ không còn làm việc siêng năng như trước, họ sẽ bị hành quyết để răn đe kẻ khác. Cách làm như thế có thể đóng góp rất nhiều vào sự sản xuất rất cần thiết.

Nhưng không chỉ chính những sĩ quan Quân đội Cộng sản và các viên chức cao cấp đã đào thoát sang miền Nam Việt Nam nói chiến thắng quyết định của Cộng sản sẽ gây ra cảnh tắm máu. Các phương tiện truyền thông bị kiểm soát chặt chẽ của miền Bắc Việt Nam trong vài năm qua đã thường nói về điều ấy. Xin nêu ra một trường hợp điển hình, Đài Hà Nội trong buổi phát thanh vào ngày 18 tháng Chín, 1969, đã dẫn lại những lời sau của ủy viên Bộ Chính trị Trường Chinh: “Nền chuyên chính dân chủ nhân dân phải tuyệt đối cần thiết sử dụng bạo lực để chống lại bọn phản cách mạng và bọn bóc lột không chịu cải tạo. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tập trung vào công tác củng cố bộ máy trấn áp của nhà nước dân chủ nhân dân, quân đội nhân dân, công an nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân, vân vân.” Cũng chính đài này, phát thanh vào ngày 21 tháng Ba, 1968, nói:” Tất cả các công dân phải có nghĩa vụ tham gia tích cực vào việc tố giác những phần tử phản cách mạng, cung cấp cho các cơ quan chuyên chính các bằng chứng và tài liệu, giám sát việc trừng trị... các phần tử phản cách mạng.” Báo đài miền Bắc Việt Nam đã gọi tất cả những người ở miền Nam Việt Nam chống lại cuộc kháng chiến Cộng sản là “côn đồ”, “tay sai”, “ bọn bóc lột”, “ bọn phản cách mạng”, và những từ tương tự như thế, và thường xuyên nhắc đến những “món nợ máu” mà những người này đã gây ra. Họ còn thường xuyên cam kết quyết liệt rằng những người này sẽ phải trả lại toàn bộ những món nợ máu ấy. Những tiền lệ lịch sử và trường hợp gần đây khiến ta không thể nào nghi ngờ những nhà lãnh đạo Cộng sản có ý định giữ lời hứa.

*

P.J. Honey (1922-2005) là học giả Anh chuyên nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam. Ông từng sống ở cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam, và rất thông thạo tiếng Việt. Ông đã dịch tác phẩm của học giả Trương Vĩnh Ký, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876), sang tiếng Anh.

Nguồn:

Trích dịch từ tạp chí Southeast Asian Perspectives số 2 tháng Sáu 1971, trang 19-25. Nguyên tác tiếng Anh “Vietnam: If The Communists Won”. Tựa đề của người dịch.


Bản tiếng Việt:

0 comments:

Powered By Blogger