Những sự thật cần phải biết - Việt Nam Cộng Hòa - Nạn nhân của chính sách “Ngậm máu phun người”
Đặng Chí Hùng
Thưa
các bạn, là một người trẻ tuổi, chưa một lần được biết đến ngôi trường
của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), cũng chưa từng được sống dưới chế độ tự do
non trẻ đó, tuy nhiên qua nhiều sách báo, tài liệu và nhân chứng sống,
cộng với những suy nghĩ của mình, tôi nhận thấy một điều đó là một chế
độ, một nhà nước khác hẳn với những lời tuyên truyền của cộng sản.
Có
một câu hỏi làm tôi day dứt gần 10 năm trời khiến tôi phải tự mình đi
tìm câu trả lời cho nó đó là: “Tại sao một chế độ thối nát, được quy
chụp là Ngụy quân, ngụy quyền lại được người dân thương nhớ, tiếc
nuối?”. Và cuối cùng tôi cũng tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đó trong
bài này đó là “Việt Nam Cộng Hòa chỉ là nạn nhân của một chính sách ngậm
máu phun người của đảng cộng sản Việt Nam”.
Vì
sao tôi nói vậy? Vì không có một chế độ xấu xa nào mà hàng triệu công
dân của nó ở Hải ngoại lẫn những người vẫn còn ở lại trong nước đã từng
sống trong chế độ đó và thân nhân họ, thậm chí những người miền Bắc có
tư duy đều thương tiếc. Con người ta có một tâm lý chung đó là luôn muốn
quên đi cái dĩ vãng xấu xa, không tốt đẹp. Vậy khi hàng triệu người dù
cho phải ly tán vẫn nhớ về nó thì đó không thể là điều xấu xa. Đó chính
là câu trả lời chính xác nhất.
Thật
ra bất cứ một xã hội nào cũng có mặt hạn chế, ngay cả nước Mỹ nhân bản
và dân chủ hiện nay cũng còn nhiều mặt cần sửa đổi. Việt Nam Cộng Hòa
không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên trong một chừng mực nhất định thì
những hạn chế đó sẽ dần khắc phục theo thời gian và trong cùng một thời
điểm lịch sử hay thậm chí ngay cả với xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện tại
thì VNCH xứng đáng dân chủ gấp vạn lần thật sự chứ không nói dối trơ
trẻn của bà Doan. Đó là lý do tôi viết bài này để chứng minh cho bạn đọc
những sự thật về một nhà nước dân chủ non trẻ nhưng đã phải chịu chính
sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản Việt Nam.
Tôi viết bài này xin giành tặng cho tất cả bạn đọc với mong muốn:
Với
những người yêu VNCH dù đã từng sống hay chỉ biết đến qua sách vở thì
như một lời khẳng định chắc chắn rằng những gì họ đã yêu mến không hề
nhầm lẫn.
Với
những người bị lừa dối hi sinh cho đảng cộng sản như thế hệ cha ông tôi
thì như một lời chân tình để giúp họ thật sự nhận ra bản chất của đảng
cộng sản VN và ông Hồ đã lừa dối họ bao lâu này.
Với
những người còn vì miếng ăn mà cố gắng lừa bịp dân tộc hãy tỉnh lại đi,
sự thật không thể bị bưng bít được mãi. Đừng tự lừa dối mình và lừa dối
nhân dân nữa, hãy để cho lương tâm con người lên tiếng trong tâm hồn
mình.
Phần 1: Những sự thật về Việt Nam Cộng Hòa
A. Mỹ không hề xâm lược Việt Nam:
Trong
bài “Những sự thật cần phải biết - Sự thật về Đại thắng mùa xuân 1975”
tôi đã chứng minh thất bại của VNCH không phải do hèn kém như cộng sản
bịa đặt. Họ bị đồng minh bỏ rơi và bị ép phải chết yểu trong bàn cờ
chính trị Mỹ-Trung cộng-Liên Xô. Mỹ cũng có lỗi của mình trong việc bỏ
rơi đồng minh nhưng cũng nên biết rằng nước Mỹ cần phải tự cứu mình
trong lĩnh vực kinh tế và cũng do chính sách nhân bản, không muốn lún
sâu chiến tranh, đồng thời phần nào đấy là việc họ để cho chính bản thân
những người dân Việt Nam nhận ra sự thật về cộng sản.
Tuy
nhiên có một điều rất quan trọng mà tôi phải khẳng định đó là Mỹ không
hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản Việt Nam vẫn tuyên truyền để
lừa bịp lòng yêu nước của nhân dân ta. Tại sao tôi có thể khẳng định
điều này? Xin được trình bày như sau.
Thứ
nhất, cho đến giờ phút này dù bất cứ ai cũng có thể thấy người Mỹ đến
Việt Nam không lấy của người Việt Nam dù chỉ là một mm đất đai, hải đảo.
Thậm chí họ còn giúp chúng ta xây dựng một Sài Gòn tự do và phồn vinh
mà ở thời điểm trước năm 1975 là Hòn Ngọc Viễn Đông, ngay cả Singapore
hay HongKong lúc ấy còn phải xếp hàng từ xa. Vậy thì người Mỹ xâm lược
gì ở Việt Nam? Đất không lấy, một giọt dầu cũng không? Trung cộng trong
khi đó thì sao? Trung cộng đã lấy Hoàng Sa - Trường Sa "nhờ" công hàm
bán nước 1958 của ông Chủ tịch nước Hồ Chí Minh và ông Thủ tướng Phạm
Văn Đồng (xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 2 - Hồ
Chí Minh và vai trò trong công hàm 1958”). Và còn hàng trăm km biên giới
ở Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, hay Boxit Tây Nguyên. Ai xâm lược đây?
Người Mỹ không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản vẫn rêu rao,
mà kẻ xâm lược nước ta chính là “Đồng chí 16 chữ vàng, 4 tốt, tri ân sâu
nặng” của đảng cộng sản Việt Nam. Đây cũng là điều cho thấy đảng cộng
sản ngậm máu phun người đối với người Mỹ.
Thứ
hai, nếu nói người Mỹ xâm lược Việt Nam thì có nghĩa là họ phải đổ quân
đội vào Việt Nam trước khi đảng cộng sản để lại quân du kích và cán bộ
tại VNCH để nằm vùng và khủng bố nhân dân miền Nam. Nhưng thực tế lại
trái ngược lại. Xin quay lại “Những sự thật không thể chối - phần 13 -
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!” bạn đọc sẽ thấy rõ.
Trong bộ môn lịch sử chương trình lớp 12, đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền:
“Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
“Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Nhưng
thực chất thì sao? Năm 1961 khi ông Ngô Đình Diệm ký Hiệp ước quân sự
với Mỹ, thì miền Nam lúc đó chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang
tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi
trường, cầu cống, đường sá...
Mỹ
chỉ bắt đầu đưa quân vào miền Nam từ năm 1965, sau khi ông Ngô Đình
Diệm qua đời do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp
quân sự. Điều này ai cũng biết cả. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam
sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 và để giúp VNCH chống lại cuộc chiến
đang ngày càng leo thang của cộng sản ở miền Nam. Cho đến năm 1964 cả về
quân số và trang bị quân sự của VNCH không thể bằng VNDCCH (đã chứng
minh trong “Những sự thật không thể chối - phần 3 - Bác, đảng đã bán
những gì và để làm gì?”). Vậy thì vào thời điểm 20.12.1960, làm gì có
bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm gì đã có ai xâm lược mà chống?
Đảng cộng sản phải chống ai, chống cái gì vào năm 1960? Chính sự mâu
thuẫn trong lời nói của cộng sản cũng cho ta thấy bản chất nói dối, lật
lọng trong việc kích động chiến tranh phi nghĩa tại Việt Nam và cho thấy
việc vu khống cho người Mỹ xâm lược Việt Nam là vô lý.
Thứ
ba, hãy nghe người Liên Xô nói về việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam để thấy
người anh cả của đảng cộng sản Việt Nam biết rõ người Mỹ không phải vào
Việt Nam “xâm lược” như cách tuyên truyền của đảng cộng sản Việt Nam.
Tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên “Một bước đi lớn” – bởi
nhóm tác giả đã từng hoạt động tại KGB và do NXB Quân đội Liên bang Nga
xuất bản năm 1999 nói về hoạt động tình báo của Liên Xô (đã giới thiệu ở
bài “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13 -Nướng dân đen trên ngọn
lửa hung tàn!” có đoạn ở 128:
“Người
Mỹ chắc chắn không xâm lược Việt Nam như cách người Pháp thực dân làm
trước năm 1945 nhưng Việt Nam phải là một trong những tiền đồn ngăn cản
chủ nghĩa tư bản ở Á Châu bao gồm Bắc Triều Tiên, Trung Hoa,
Afghanistan...”
Thì
ra người Liên Xô với những con mắt lão luyện của tình báo KGB đâu có
cho rằng người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như cách người Pháp thực
dân. Người Liên Xô chỉ lo ngại cho chủ nghĩa cộng sản của họ bị người Mỹ
đánh bại chứ họ không nói là người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như
cách cộng sản tuyên truyền. Đó là do chính sách ngậm máu phun người của
cộng sản nhằm lừa gạt hàng triệu thanh niên bỏ xác vì quyền lợi của chóp
bu cộng sản mà thôi. Đó chính là một trong những chiêu bài núp bóng
“Giải phóng dân tộc” mà ông Hồ cùng đảng cộng sản thực hiện để nhuộm đỏ
Việt Nam cho âm mưu của Trung cộng.
Thứ
tư, thật ra mong muốn người Mỹ vào Việt Nam đổ quân để tạo cớ người Mỹ
xâm lược Việt Nam cũng nằm trong âm mưu của Trung cộng chỉ đạo cho ông
Hồ và đảng cộng sản Việt Nam thực hiện. Trong cuốn sách “MAO: The
Unknown Story” của tác giả Jung Chang và Jon Halliday được phát hành năm
2005 do hai nhà xuất bản Anchor Books và Random House xuất bản, ở trang
470 có đoạn:
“Có
một nơi gần Trung Quốc, nơi đã có người Mỹ, đó là Việt Nam. Cuối năm
1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15,000 cố vấn quân sự Mỹ. Kế hoạch của
Mao là tạo tình huống làm cho Mỹ phải gởi thêm quân đội vào miền Nam…”
Thế
là đúng ra năm 1963, Trung cộng cũng nhận thấy người Mỹ chỉ có 15000 cố
vấn mà thôi. Và chính Mao muốn ông Hồ phải “tạo tình huống” để người Mỹ
phải đổ quân vào Việt Nam. Đó chính là việc cố tình tạo ra “kẻ thù” xâm
lược để có cớ đánh VNCH và đổ tội cho người Mỹ xâm lược Việt Nam của
Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh.
Thứ
năm, thêm một đồng minh của VNDCCH khẳng định người Mỹ không hề xâm
lược Việt Nam như cách đảng cộng sản tuyên truyền cho thấy những gì
chúng ta đã và đang được nghe đảng cộng sản chỉ là lừa bịp. Trong cuốn
sách có tên“Đối nghịch” của tác giả J. Leroy - một nhà hoạt động xã hội
người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp (giới thiệu ở bài
“Những sự thật không thể chối bỏ - phần 14 - Ai làm cho Huế đau
thương?”). Cuốn sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập của
đảng cộng sản và các đảng phái khác và dẫn chứng về cuộc chiến Việt nam
như là một sự đối nghịch đỉnh điểm về ý thức hệ. Trong trang 187 của
cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có nội dung trích như sau:
“Một
cuộc chiến tại Việt Nam là điều mà Hoa Kỳ không mong muốn, họ đến với
Việt Nam khác hẳn lũ người độc ác của chúng ta trước đây. Nhưng họ phải
đổ quân vào vì họ không muốn Liên Xô bành trướng tư tưởng của Mác, Lê
Nin…”
Tác
giả cộng sản Pháp này rất trung thực trong việc đánh giá người Mỹ không
xâm lược Việt Nam như chính thực dân Pháp trước năm 45 mà họ chỉ vào
Việt Nam trong tình thế bắt buộc chống lại sự bành trướng tư tưởng đỏ
của Liên Xô.
Kết
luận: Một kẻ đi xâm lược không thể là kẻ đổ quân vào sau khi đồng minh
của họ bị khủng bố. Người Mỹ chỉ đổ quân vào để giúp đồng minh chống lại
chủ nghĩa cộng sản bạo tàn và độc tài. Người Mỹ chỉ là một “kẻ thù”
được dựng lên với mục đích lừa dối dân tộc trong chiêu bài “Chống Mỹ cứu
nước” của đảng cộng sản. Việc tạo ra một kẻ “xâm lược” giả tưởng này
không khác gì việc người ta cố tình dựng lên một hình ảnh “thế lực thù
địch”để nói về đội ngũ đấu tranh dân chủ hiện nay ở Việt Nam hay bóng ma
“thế lực thù địch” đang làm đảng “tự diễn biến”. Một kẻ đi xâm lược
không thể không áp bức, bóc lột và lấy đất đai, tài nguyên của chúng ta.
Người Mỹ thì không làm điều đó, vậy họ không thể là kẻ xâm lược.
Người
Mỹ đến Việt Nam với mục đích chống lại sự bành trướng chủ nghĩa cộng
sản trên thế giới và giúp VNCH chống lại làn sóng khủng bố của đảng cộng
sản gieo rắc tại Miền Nam. Họ không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng
cộng sản Việt Nam tuyên truyền, họ cũng là nạn nhân của một chính sách
ngậm máu phun người của đảng cộng sản Việt Nam.
B. Việt Nam Cộng Hòa không phải là chế độ Ngụy Quân, Ngụy Quyền:
Nếu
không có kẻ xâm lược thì làm gì có kẻ làm tay sai “ngụy quân, ngụy
quyền”? Như phần A tôi đã chứng minh những tác giả trung lập và ngay cả
những người cộng sản Pháp, Liên Xô trong những nghiên cứu nghiêm túc của
mình đã công nhận người Mỹ không hề xâm lược Việt Nam đúng nghĩa. Vậy
thì những người đồng minh của họ là VNCH có phải là tay sai bán nước như
cộng sản nhồi nhét vào đầu chúng ta hay không? Không. Hoàn toàn không
phải. Đó là một chế độ dân chủ non trẻ nhưng mang trong mình những tư
tưởng và ý niệm tốt đẹp cho nhân dân. Tôi xin khẳng định thông qua phần B
này.
Nói như bà Dương Thu Hương một nữ văn sĩ miền Bắc theo đoàn quân của CS Bắc Việt vào Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975 thì “Đó
mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã
thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là
bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt nam phạm phải...”
Và chính ông Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng của CHXHCNVN cũng phải thốt lên
cái ngày 30/4 là ngày mà VNCH chính thức mất đi trên danh nghĩa nhưng
còn mãi tồn tại trong lòng người yêu dân chủ, tự do“Ngày của triệu người
buồn.”
1. VNCH có nền kinh tế phát triển hơn hẳn VNDCCH:
Tại
miền Nam dưới sự lãnh đạo của ông Ngô Đình Diệm, cùng sự hỗ trợ của Hoa
Kỳ nhằm khôi phục kinh tế và nâng cao dân trí, trong thời điểm miền Bắc
có cải cách ruộng đất gây tai họa thì miền Nam cũng có Cải cách điền
địa và “Người cày có ruộng” mang lại niềm vui cho nhân dân. Chính vì có
những chính sách hợp lý, chế độ dân chủ nên nửa trong của Việt Nam đã
phát triển nhanh chóng. Bằng chứng là Sài Gòn được coi là “Hòn Ngọc Viễn
Đông”.
Ngay
sau khi ông Diệm bị giết hại thì nền Đệ nhị Cộng hòa cũng đã có những
nối tiếp nền Đệ nhất Cộng hòa để đem lại đời sống no ấm cho nhân dân
miền Nam. Dù có khó khăn do chiến tranh liên miên, đảng cộng sản cho
quân du kích nằm vùng đặt bom, phá đường, tài sát dân lành thì nền kinh
tế vẫn được duy trì một đời sống hơn hẳn so với VNDCCH. Bạn đọc hãy cùng
tôi điểm lại những tài liệu để thấy sự thật này.
- Giai đoạn 1954-1956: Công nghiệp khá nghèo nàn với số lượng nhà máy ít ỏi có từ thời Pháp thuộc.
- Giai đoạn 1957-1967: là giai đoạn bùng nổ của công nghiệp nhờ chính sách công nghiệp tích cực của chính quyền và nhờ các biện pháp bảo hộ nền công nghiệp trong nước.
- Giai đoạn 1967-1972: có sự phân hóa rõ rệt giữa các phân ngành. Những phân ngành như sản xuất đường và dệt không được bảo vệ nữa nên bị hàng ngoại tràn ngập bóp chết. Trong khi đó, những ngành như chế biến thực phẩm phục vụ quân nhu, chế biến gỗ, vật liệu xây dựng lại phát triển mạnh. Đặc biệt, ngành luyện kim phát triển rất nhanh mặc dù miền Nam Việt Nam không có những mỏ kim loại. Chính phế thải kim loại của chiến tranh mới là nguồn nguyên liệu dồi dào và rẻ cho ngành luyện kim. Trên cơ sở sự phát triển của ngành luyện kim, ngành gia công kim loại cũng phát triển vượt bậc.
- Giai đoạn sau 1972: Các ngành luyện kim và điện vẫn phát triển với nhiều nhà máy mới được xây dựng. Còn các ngành sản xuất vật liệu xây dựng là những ngành suy giảm mạnh. Cơ cấu công nghiệp của Việt Nam Cộng Hòa tại thời điểm 1973 cho thấy công nghiệp của Việt Nam Cộng Hòa chủ yếu là công nghiệp nhẹ. Công nghiệp nặng và hóa chất mới ở trình độ sơ khai. Nguyên liệu cho ngành chế tạo chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài.
- Năm 1973, chính phủ đã tổ chức 2 vòng đấu thầu khai thác dầu lửa ngoài khơi thềm lục địa. Nhiều công ty khai thác dầu lửa nước ngoài đã tham gia, bất chấp là tình hình an ninh chưa ổn định. Chính phủ cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 km² mới chỉ là 16% của thềm lục địa. Tới tháng 10, 1974 hãng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ, tại lô 04-TLD, tìm được dầu dưới độ sâu trên 2,7 km. Ước tính là vào cuối 1975, sẽ có ít nhất 20 giàn khoan. Sản xuất một lượng dầu khả quan sắp được bắt đầu muộn lắm là vào cuối năm 1977. Các Công ty dầu đề nghị Chính phủ hai điểm: thứ nhất, cho công ty đào ngay mà không phải qua thủ tục đấu thầu, hành chánh; thứ hai, khi khai thác được dầu sẽ chia đôi, một nửa cho công ty, một nửa cho Chính phủ. Sau 1975, các mỏ dầu này do Liên doanh Vietsopetro của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quản lý và khai thác.
- Giai đoạn 1954-1956: Công nghiệp khá nghèo nàn với số lượng nhà máy ít ỏi có từ thời Pháp thuộc.
- Giai đoạn 1957-1967: là giai đoạn bùng nổ của công nghiệp nhờ chính sách công nghiệp tích cực của chính quyền và nhờ các biện pháp bảo hộ nền công nghiệp trong nước.
- Giai đoạn 1967-1972: có sự phân hóa rõ rệt giữa các phân ngành. Những phân ngành như sản xuất đường và dệt không được bảo vệ nữa nên bị hàng ngoại tràn ngập bóp chết. Trong khi đó, những ngành như chế biến thực phẩm phục vụ quân nhu, chế biến gỗ, vật liệu xây dựng lại phát triển mạnh. Đặc biệt, ngành luyện kim phát triển rất nhanh mặc dù miền Nam Việt Nam không có những mỏ kim loại. Chính phế thải kim loại của chiến tranh mới là nguồn nguyên liệu dồi dào và rẻ cho ngành luyện kim. Trên cơ sở sự phát triển của ngành luyện kim, ngành gia công kim loại cũng phát triển vượt bậc.
- Giai đoạn sau 1972: Các ngành luyện kim và điện vẫn phát triển với nhiều nhà máy mới được xây dựng. Còn các ngành sản xuất vật liệu xây dựng là những ngành suy giảm mạnh. Cơ cấu công nghiệp của Việt Nam Cộng Hòa tại thời điểm 1973 cho thấy công nghiệp của Việt Nam Cộng Hòa chủ yếu là công nghiệp nhẹ. Công nghiệp nặng và hóa chất mới ở trình độ sơ khai. Nguyên liệu cho ngành chế tạo chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài.
- Năm 1973, chính phủ đã tổ chức 2 vòng đấu thầu khai thác dầu lửa ngoài khơi thềm lục địa. Nhiều công ty khai thác dầu lửa nước ngoài đã tham gia, bất chấp là tình hình an ninh chưa ổn định. Chính phủ cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 km² mới chỉ là 16% của thềm lục địa. Tới tháng 10, 1974 hãng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ, tại lô 04-TLD, tìm được dầu dưới độ sâu trên 2,7 km. Ước tính là vào cuối 1975, sẽ có ít nhất 20 giàn khoan. Sản xuất một lượng dầu khả quan sắp được bắt đầu muộn lắm là vào cuối năm 1977. Các Công ty dầu đề nghị Chính phủ hai điểm: thứ nhất, cho công ty đào ngay mà không phải qua thủ tục đấu thầu, hành chánh; thứ hai, khi khai thác được dầu sẽ chia đôi, một nửa cho công ty, một nửa cho Chính phủ. Sau 1975, các mỏ dầu này do Liên doanh Vietsopetro của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quản lý và khai thác.
Thứ nhất, số liệu và nhận xét trên wiki có links sau:
http://vi. wikipedia. org/wiki/Kinh_tế_Việt_Nam_Cộng_hòa:
“Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã tích cực triển khai chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dựng lên để bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ. Kết quả phải kể đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên hòa, thỏa mãn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy trong nước [4]; hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên, một ở Thủ Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961 [5]. Đồng thời, các loại máy móc, kim loại - những đầu vào cho các ngành được bảo hộ - được ưu tiên nhập khẩu. Trong khi hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được khuyến khích. Một số mặt hàng xuất khẩu còn được chính quyền trợ cấp. Ngay cả tỷ giá hối đoái cũng được điều chỉnh thuận lợi cho xuất khẩu (thông qua trừ đi một mức phụ đảm).
http://vi. wikipedia. org/wiki/Kinh_tế_Việt_Nam_Cộng_hòa:
“Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã tích cực triển khai chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dựng lên để bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ. Kết quả phải kể đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên hòa, thỏa mãn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy trong nước [4]; hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên, một ở Thủ Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961 [5]. Đồng thời, các loại máy móc, kim loại - những đầu vào cho các ngành được bảo hộ - được ưu tiên nhập khẩu. Trong khi hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được khuyến khích. Một số mặt hàng xuất khẩu còn được chính quyền trợ cấp. Ngay cả tỷ giá hối đoái cũng được điều chỉnh thuận lợi cho xuất khẩu (thông qua trừ đi một mức phụ đảm).
Ở
nông thôn thì Cải cách ruộng đất (lúc đó gọi là "Cải cách điền địa")
được triển khai từ năm 1955 và kéo dài tới cuối năm 1960. Những ruộng
đất của địa chủ bỏ hoang sẽ bị thu hồi và cấp cho tá điền. Địa chủ không
được phép sở hữu quá 100 hecta đất (riêng các đồn điền dù hơn 100 ha
vẫn được phép). Số dư ngoài 100 ha sẽ bị buộc phải bán cho chính quyền
để bán lại cho tá điền. Tá điền được yêu cầu lập hợp đồng khai thác
ruộng đất với địa chủ, gọi là khế ước tá điền trong đó có ghi mức địa tô
mà tá điền phải trả cho địa chủ. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái ký.
Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng.”
Về
thu nhập bình quân, theo “số liệu kinh tế - GDP” bình quân, ở miền Nam
vào thời trước 1975 là 190USD. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó,
nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan. Trong
khi đó 36 năm sau, GDP bình quân đầu người của Việt nam là khoảng 1100
USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD).
Như
vậy rõ ràng sau khi nắm đất nước thì nền kinh tế VNCH đã có những bước
phát triển vượt bậc và bước đầu tạo ra dấu ấn cho nhân dân Việt Nam.
Một thời Hòn ngọc Viễn Đông
Thứ
hai, năm 1950 nền kinh tế của Đài Loan gần như không có gì đáng kể. Năm
1960 lợi tức đầu người USD170 thua miền Nam lúc đó (190 USD). Năm 2010
Đài Loan có GDP khoảng US$37.000/năm. Dự trữ ngoại tệ 400 tỉ USD. Năm
1954 kinh tế Hàn quốc thua xa miền Nam lúc đó. Năm 2010 Hàn quốc có GDP
khoảng US$20.757/năm. Dự trữ ngoại tệ 311 tỉ USD. Năm 1959 Singapore
được tự trị, một quốc gia nghèo, nhỏ bé, thiếu tài nguyên, lúc đó thua
miền Nam mọi lĩnh vực. Năm 2010 Singapore có GDP US$43.000/năm. Dự trữ
ngoại tệ 300 tỉ USD. Những con số mà tôi lấy thống kê trích từ “Tạp chí
kinh tế Châu Á” năm 2010 bạn đọc có thể kiểm chứng.
Qua
những con số biết nói đó chúng ta thấy được gì? Đó là những nước có nền
kinh tế vượt xa cả trăm lần CHXHCN Việt Nam hiện nay thì trước năm 1975
họ thua kém VNCH rất nhiều. Vậy mà sau khi “thống nhất” đất nước thì
chúng ta có gì? Có chăng chỉ là sự lạc hậu và thua kém. Vậy thì VNCH đâu
phải là một chế độ bù nhìn? Họ bù nhìn tại sao lại làm cho thu nhập
bình quân của nhân dân cao hơn cả những nước kể trên. Và quan trọng nếu
với đà phát triển như con số đã nêu thì nếu còn tồn tại VNCH sẽ là con
rồng Châu Á thật sự chứ không phải kiểu rồng đất, rồng tre như CHXHCN
Việt Nam ngày nay.
Thứ
ba, nhìn chung đa phần dân chúng thời đó vẫn sống ở nông thôn, làm nghề
nông là chính. Với chương trình “Người Cày Có Ruộng” đầu thập niên
1970, chính phủ đã chia hằng triệu mẫu ruộng cho nông phu. Đời sống dân
chúng cải thiện đáng kể.
Mặc dù miền Nam hiếm có những ngành công nghiệp nặng, nhưng tiểu thủ công nghệ phát triển mạnh. Các ngành dệt vải, kim khí điện máy khá xôm tụ. Thương mại và các hoạt động tiểu thương cũng sầm uất. Cần kể thêm thái độ của người dân. Nhiều sản phẩm nội địa được ưa chuộng, chiếm nhiều cảm tình như: kem đánh răng "Hynos", xà bông "Cô Ba", bột giặt "Viso"... Điều này cho thấy người tiêu thụ miền Nam thời đó có tinh thần yểm trợ hàng nội hóa khá cao.
Mặc dù miền Nam hiếm có những ngành công nghiệp nặng, nhưng tiểu thủ công nghệ phát triển mạnh. Các ngành dệt vải, kim khí điện máy khá xôm tụ. Thương mại và các hoạt động tiểu thương cũng sầm uất. Cần kể thêm thái độ của người dân. Nhiều sản phẩm nội địa được ưa chuộng, chiếm nhiều cảm tình như: kem đánh răng "Hynos", xà bông "Cô Ba", bột giặt "Viso"... Điều này cho thấy người tiêu thụ miền Nam thời đó có tinh thần yểm trợ hàng nội hóa khá cao.
Một
thế mạnh nữa của VNCH là thế hệ trí thức, kỹ sư, cán sự được huấn luyện
kỹ lưỡng, làm việc tận tâm. Về mặt này, VNCH hoàn toàn vượt xa các lân
bang cùng thời như Thailand, Malaysia, Indonesia, Singapore... Có thống
kê cho thấy 3 trong số 4 kỹ sư trong toàn vùng khi đó là công dân Nam
Việt nam. Năm 1961, kỹ sư miền Nam tiếp tục đón nhận nhà máy thủy điện
Đa Nhim từ Nhật. Từ thời này, các chuyên gia Nam Việt Nam cũng đã manh
nha dự án khu chế biến lọc dầu Dung Quất ngày nay.
Nguồn chuyên viên lành nghề, mẫn cán còn giúp thực thi các kế hoạch, khai triển nhiều khu kỹ nghệ: Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa, Khu Kỹ Nghệ Phong Dinh... Ngay khi tin vui về mỏ dầu hỏa ở Vũng Tàu loan ra, VNCH cũng có đủ chuyên viên để thiết lập ngay Tổng Cục Dầu Hỏa.
Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt, hoạt động từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa, do kiến trúc sư tài danh Ngô Viết Thụ vẽ mẫu thiết kế.
Nguồn chuyên viên lành nghề, mẫn cán còn giúp thực thi các kế hoạch, khai triển nhiều khu kỹ nghệ: Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa, Khu Kỹ Nghệ Phong Dinh... Ngay khi tin vui về mỏ dầu hỏa ở Vũng Tàu loan ra, VNCH cũng có đủ chuyên viên để thiết lập ngay Tổng Cục Dầu Hỏa.
Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt, hoạt động từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa, do kiến trúc sư tài danh Ngô Viết Thụ vẽ mẫu thiết kế.
Thứ
tư, theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam” 1945-2000, viết về giai đoạn
1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài liệu mới của nhà nước cộng
sản Việt Nam) cho biết:
“Năm
1973 nông dân thu hoạch gần 5 triệu tấn gạo, gần đủ cho nhu cầu quốc
nội. Ước lượng sang 1976 có thặng dư để xuất cảng. Cũng có kế hoạch xuất
cảng tôm lên đến 30 triệu Usd năm 1975. Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1970,
Việt Nam Cộng Hòa có trên 1,200 cây số đường xe lửa, khoảng 20,000 điện
thoại, 50 đài phát thanh và 4 đài truyền hình lớn (ở Sài Gòn, Huế, Quy
Nhơn và Cần Thơ. Cuối thập niên 1950, VNCH xây xa lộ Biên Hòa ở phía Bắc
Sài Gòn, là công trình giao thông công cộng có thể nói tân tiến nhất
toàn vùng Đông Nam Á khi đó... Có thể kể thêm nhà máy giấy Cogido An Hảo
(1961, Biên Hòa) có lúc sản xuất giấy đủ đến 40% nhu cầu nội địa. Hai
xưởng dệt Vinatexco và Vimytex trình làng hơn 13 triệu mét vải hằng năm.
Hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên và một ở Thủ Đức cho ra lò hơn
540,000 tấn mỗi năm...”
Chính
những con số mà chính đảng cộng sản công nhận cũng đã đủ nói lên thực
tế không thể chối bỏ đó là VNCH có một nền kinh tế tự do và phát triển
ổn định. Ngoài những con số trên chúng ta còn thấy được gì? Đó là: Nhiều
người từng sống ở miền Nam trước đây có lẽ vẫn còn nhớ chiếc xe La
Dalat, biểu tượng của công nghệ xe hơi non trẻ. Vào thời điểm này, sáng
lập viên của hãng xe Hyundai mới chỉ là tiểu thương tại Hàn Quốc. Dù lắp
ráp với nhiều phụ tùng ngoại quốc, La Dalat vẫn là chiếc xe hơi đầu
tiên mang nhãn "Made in Vietnam", mẫu mã của riêng Việt Nam.
Trước 1975, có 11 dàn máy tính IBM 360 hiện đại đã được đưa về Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Giáo Dục. Lúc đó, toàn vùng Đông Nam Á chỉ có Singapore sắm được vỏn vẹn... 1 chiếc máy tương tự.
Thứ năm, Trung cộng trong nỗ lực phát triển kinh tế và cạnh tranh với Mỹ và âm mưu triệt tiêu nội lực của Việt Nam đã phải thừa nhận. Hãy nghe tác giả Hà Cẩn mà tôi nhiều lần giới thiệu cuốn sách “Mao chủ tịch của tôi” trong loạt bài“Những sự thật không thể chối bỏ”. Tác giả thuộc Viện văn học Trung quốc, cho in cuốn sách năm 1997 và tái bản năm 2000, tại trang 222 có đoạn: “Miền Nam Việt Nam có nền kinh tế phát triển, đó là điều bất lợi cho chúng ta...” Tác giả Trung cộng này cũng công nhận sự phát triển của miền Nam về kinh tế và khẳng định đó là bất lợi cho âm mưu Hán hóa mà ông Hồ đang thực hiện theo lệnh Mao. Đây là một điểm khẳng định cho sự thật về nền kinh tế phát triển của VNCH và cũng thêm minh chứng cho âm mưu của Trung cộng và ông Hồ Chí Minh.
Trước 1975, có 11 dàn máy tính IBM 360 hiện đại đã được đưa về Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Giáo Dục. Lúc đó, toàn vùng Đông Nam Á chỉ có Singapore sắm được vỏn vẹn... 1 chiếc máy tương tự.
Thứ năm, Trung cộng trong nỗ lực phát triển kinh tế và cạnh tranh với Mỹ và âm mưu triệt tiêu nội lực của Việt Nam đã phải thừa nhận. Hãy nghe tác giả Hà Cẩn mà tôi nhiều lần giới thiệu cuốn sách “Mao chủ tịch của tôi” trong loạt bài“Những sự thật không thể chối bỏ”. Tác giả thuộc Viện văn học Trung quốc, cho in cuốn sách năm 1997 và tái bản năm 2000, tại trang 222 có đoạn: “Miền Nam Việt Nam có nền kinh tế phát triển, đó là điều bất lợi cho chúng ta...” Tác giả Trung cộng này cũng công nhận sự phát triển của miền Nam về kinh tế và khẳng định đó là bất lợi cho âm mưu Hán hóa mà ông Hồ đang thực hiện theo lệnh Mao. Đây là một điểm khẳng định cho sự thật về nền kinh tế phát triển của VNCH và cũng thêm minh chứng cho âm mưu của Trung cộng và ông Hồ Chí Minh.
Trong
khi các con số và tài liệu cho thấy VNCH là nước có nền kinh tế phát
triển trong đa số các lĩnh vực thì VNDCCH được cai trị bởi những kẻ độc
tài và bạo tàn thì sao?
Thứ
nhất, đó là những con số người chết khủng khiếp trong chiến dịch CCRĐ
man rợ do ông Hồ Chí Minh chỉ đạo mà tôi đã đề cập trong bài Những sự
thật không thể chối bỏ - phần 5 - Nỗi đau Cải Cách. Bên cạnh đó là một
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu mà nhân dân là những người hứng chịu trực
tiếp.
Trên Wiki (http://vi.wikipedia.org//Cải_cách_ruộng_đất_tại_miền_Bắc_V… �t_Nam) có viết:
Trên Wiki (http://vi.wikipedia.org//Cải_cách_ruộng_đất_tại_miền_Bắc_V… �t_Nam) có viết:
“Tổng
cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc
tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu bò. Tổng cộng chiến dịch Cải cách Ruộng
đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu bò, 1.846.000
nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138
hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi
nhà.”
Thu nhập bình quân đầu người ở các hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp có sự bất bình thường về cơ cấu. Trong tổng thu nhập của họ thì khoản thu nhập trong hợp tác xã nhỏ hơn thu nhập ngoài hợp tác xã, trong khi 95% ruộng đất và toàn bộ công cụ sản xuất (trâu, bò, cày, bừa…) đều nhập vào tập thể. Phần 5% ruộng đất chia về các hộ chỉ nhằm tạo thêm thu nhập phụ, mà thường là những thửa ruộng đầu thừa đuôi thẹo. Trong cuốn “Những điều cần nhìn lại sau CCRĐ” - NXB Văn hóa của ĐCSVN có đoạn: “Năm 1961: Tổng thu nhập bình quân đầu người là 11,50 đồng/tháng, trong đó thu nhập trong hợp tác xã là 4,5 đồng, còn thu nhập ngoài hợp tác xã là 7,0 đồng.”
Thu nhập bình quân đầu người ở các hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp có sự bất bình thường về cơ cấu. Trong tổng thu nhập của họ thì khoản thu nhập trong hợp tác xã nhỏ hơn thu nhập ngoài hợp tác xã, trong khi 95% ruộng đất và toàn bộ công cụ sản xuất (trâu, bò, cày, bừa…) đều nhập vào tập thể. Phần 5% ruộng đất chia về các hộ chỉ nhằm tạo thêm thu nhập phụ, mà thường là những thửa ruộng đầu thừa đuôi thẹo. Trong cuốn “Những điều cần nhìn lại sau CCRĐ” - NXB Văn hóa của ĐCSVN có đoạn: “Năm 1961: Tổng thu nhập bình quân đầu người là 11,50 đồng/tháng, trong đó thu nhập trong hợp tác xã là 4,5 đồng, còn thu nhập ngoài hợp tác xã là 7,0 đồng.”
Ngoài
ra, theo tác giả Bernard Fall, một gia đình nông dân bốn người cần có
ít nhất 1,5 mẫu tây để bảo đảm đời sống, đó là chưa kể đến thuế nông
nghiệp phải đóng hằng năm. (Bernard Fall, sđd. tt. 271, 282).
Thứ
hai, kể cả sau khi kết thúc CCRĐ thì nền kinh tế của VNDCCH không sáng
sủa và kém xa so với VNCH. Trong cuốn sách được nhà xuất bản Lịch sử của
Liên Bang Nga xuất bản năm 1995 có tên gọi tạm dịch ra tiếng Việt “Liên
Xô- Trung Quốc và Việt Nam, vấn đề chưa được biết” của tác giả người
Nga, Ruslan Kobachenko, một đảng viên đảng cộng sản Liên Xô và cũng là
nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu lịch sử Châu Á từng giảng dạy tại đại học
Minsk-Nga, có đoạn trong trang 197 như sau:
“So
với Miền Nam thì người đồng chí Miền Bắc của chúng ta chịu thua kém
nhiều về kinh tế. Chúng ta đã nhận ra điều này như là một yếu điểm cần
phải được sửa chữa của lãnh đạo Miền Bắc mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí
Minh. Nhưng thật khó làm điều này vì kinh tế Miền Bắc rất lạc hậu và
theo mô hình của Trung Hoa...”
Đoạn
trích cho thấy tác giả người Nga chê nền Kinh tế VNDCCH không bằng VNCH
do lạc hậu và theo mô hình Trung cộng. Vậy thì những gì tuyên truyền
của đảng cộng sản về một nền kinh tế bị “kìm kẹp” chỉ là một sự bịa đặt
nhằm ngậm máu phun người đối với VNCH.
Thứ ba, theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam” 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 thì:
Thứ ba, theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam” 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 thì:
“Cho
đến 1973 nông dân miền Bắc sản xuất gần 4 triệu tấn gạo, chưa đủ chi
dùng cho nhân dân và vẫn phải nhận viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô bột
mì, bobo... Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1972, VNDCCH chỉ có trên 500 cây
số đường xe lửa, điện thoại chỉ có trong cơ quan nhà nước, 2 đài phát
thanh, chưa có máy điện toán...”
Chỉ
cần bạn đọc điểm lại những con số trên và xem những con số cùng loại và
cũng thời điểm đó đã nêu trên thì VNCH rõ ràng có nền kinh tế, hạ tầng
phát triển hơn hẳn VNDCCH.
Kết
luận: Một nền kinh tế VNCH phát triển bền vững và có chiều sâu, chiều
rộng cho thấy VNCH đã nỗ lực phát triển để đem lại đời sống tốt đẹp cho
nhân dân. Như vậy đây là kết luận đầu tiên cho thấy chính sách ngậm máu
phun người của đảng cộng sản về một miền Nam khốn khó, chịu kìm kẹp là
điều không tưởng.
2. Việt Nam Cộng Hòa – Một đất nước tự do, dân chủ thật sự:
Như
ở mục 1 tôi đã chứng minh so với VNDCCH thì VNCH hơn hẳn về mặt kinh
tế, đời sống nhân dân. Vậy còn các mặt khác về đời sống, văn hóa, giáo
dục và chính trị thì ra sao? Tôi xin trình bày ở mục 2 này.
Thứ
nhất, để nói về tự do dân chủ chúng ta có thể thấy rõ nét nhất là văn
hóa và biểu tình, tự do lập đoàn thể, hội họp và thậm chí cả chống chính
phủ khác hẳn so với VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay là độc tài toàn trị.
Minh
chứng rõ nét cho việc này đó là xuất hiện những thành phần cộng sản nằm
vùng trong lòng VNCH như ông Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng… Chính quyền
VNCH biết rõ họ là cộng sản và biết những hành động của họ làm chống
chính quyền. Nhưng họ vẫn được biểu tình, kích động dân chúng theo cộng
sản. Điều này trái ngược hẳn với quyền tự do bị chà đạp của nhân dân yêu
nước khi tham gia biểu tình chống Trung cộng xâm lược…
Ngoài ra, chúng ta có thể thấy tại VNCH, các bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn vẫn được phép tồn tại. Hay thậm chí các bài hát có nội dung lãng mạn bị đảng cộng sản triệt để cấm đoán vì lo ngại sẽ hỏng mất chính sách tuyên truyền hận thù của cộng sản thì tại VNCH vẫn được tự do ca hát. Đó chính là do chính quyền VNCH tôn trọng quyền tự do tư tưởng và thưởng thức âm nhạc của nhân dân. Xin lấy một ví dụ. Bài hát “Những đồi hoa sim” thực chất là bắt nguồn từ một nhà thơ Miền Bắc và trước khi về quê ở ẩn do không chấp nhận sự thối nát của cộng sản cũng là người theo đảng cộng sản, ông là Hữu Loan nhưng vẫn được các nhạc sỹ của VNCH phổ biến và tự do ca hát. Ngược lại VNDCCH thì tuyên truyền “Không nghe, không dùng văn hóa của Ngụy” Mặc dù những bài hát, bài thơ đó hoàn toàn không có mưu đồ chính trị và giàu tính nhân văn.
Ngoài ra, chúng ta có thể thấy tại VNCH, các bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn vẫn được phép tồn tại. Hay thậm chí các bài hát có nội dung lãng mạn bị đảng cộng sản triệt để cấm đoán vì lo ngại sẽ hỏng mất chính sách tuyên truyền hận thù của cộng sản thì tại VNCH vẫn được tự do ca hát. Đó chính là do chính quyền VNCH tôn trọng quyền tự do tư tưởng và thưởng thức âm nhạc của nhân dân. Xin lấy một ví dụ. Bài hát “Những đồi hoa sim” thực chất là bắt nguồn từ một nhà thơ Miền Bắc và trước khi về quê ở ẩn do không chấp nhận sự thối nát của cộng sản cũng là người theo đảng cộng sản, ông là Hữu Loan nhưng vẫn được các nhạc sỹ của VNCH phổ biến và tự do ca hát. Ngược lại VNDCCH thì tuyên truyền “Không nghe, không dùng văn hóa của Ngụy” Mặc dù những bài hát, bài thơ đó hoàn toàn không có mưu đồ chính trị và giàu tính nhân văn.
Nạn
nhân của những nghệ sỹ trong chế độ độc tài nhiều vô kể như nhạc sỹ Tô
Hải hay nạn nhân của cái gọi là “Phản cách mạng” Nhân văn Giai Phẩm.
Trong khi đó VNCH không có một cuộc thanh trừ nào kiểu như vậy, và quan
trọng hơn cả VNCH không hề có một cuộc cách mạng thực chất là CẮT MẠNG
người như “Cải cách ruộng đất - long trời lở đất”.
Thứ
hai, trong cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về quốc tế cộng sản “Chủ
thuyết của chúng ta” của học giả A.Schenalder - một đảng viên đảng cộng
sản CHDC Đức - được ấn hành tại Đông Đức năm 1981 có viết tại trang 189:
“Nếu cứ tự do như VNCH thì VNDCCH sẽ bị đánh mất chủ thuyết của
mình...” Tác giả này đã công nhận VNCH có tự do về tư tưởng và VNDCCH
thì ngược lại rất độc tài và quân phiệt chỉ nhằm giữ cho được “Chủ
thuyết “ cộng sản sai lầm cho mình nhằm cai trị nhân dân ta, đấy nhân
dân ta đến cuộc chiến huynh đệ tương tàn (Xin xem thêm “Những sự thật
không thể chối bỏ - phần 13 - Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!”).
Chỉ cần thấy câu: Tổ quốc - Danh dự - Trách nhiệm (1954-1967) (Fatherland - Honour - Duty) và Tổ quốc - Công minh - Liêm chính (1967-1975) (Fatherland - Justice - Integrity) của
VNCH đặt Tổ quốc lên trên hết cũng đã thấy khác hẳn với“Trung với đảng,
hiếu với dân” của CHXHCNVN vì đảng cộng sản đặt lợi ích của mình trên
cả nhân dân và chẳng thấy bóng dáng Tổ Quốc đâu cả.
Thứ
ba, Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa mang triết lý giáo dục nhân bản, dân
tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do
giáo dục, và cho rằng “những người có khả năng mà không có phương tiện
sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”. Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng
Hòa gồm tiểu học, trung học và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở
giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ
chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
Điều
này đã được minh chứng bằng việc học sinh đi học dưới chế độ VNCH không
hề mất học phí. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm
(20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo
dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh
trung học và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước
tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện
đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên
theo học ở Học viện Quốc gia Hành chính và ở các trường đại học cộng
đồng). Những con số nêu trên được lấy từ cuốn “Giáo dục Việt Nam” – NXB
Giáo dục năm 2001 – cuốn sách của đảng cộng sản Việt Nam.
Năm
1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, Việt Nam
Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội
này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại
diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành
văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến
kỹ thuật... Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc”
(nationalistic), và “khai phóng” được chính thức hóa ở hội nghị này. Đây
là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam
Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ
Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam
Cộng Hòa (1967). Theo văn bản phụ lục của hiến pháp VNCH ghi rõ:
“Giáo
dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con
người có địa vị quan trọng trong thế gian này, lấy con người làm gốc,
lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản, xem con
người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ
phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào
khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân,
nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con
người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa
phương, tôn giáo, chủng tộc... Với triết lý nhân bản, mọi người có giá
trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo
dục.
Giáo
dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền
thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp,
và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay
những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn
hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị
mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
Giáo
dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết
phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải
mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế
giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa
nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho
xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.”
Trong
khi đó thì ở VNDCCH, học sinh bị nhồi nhét tư tưởng Mỹ “xâm lược” mà
thực chất không phải vậy, “bác Hồ yêu nước, cả đời vì nước vì non” mà
thực tế ngược lại khi bạn đọc 15 bài “Những sự thật không thể chối bỏ”và
hàng trăm ngàn tư liệu, bằng chứng sống lại chứng minh được điều ngược
lại. Hay là “yêu nước là phải yêu đảng cộng sản “ – một định nghĩa dốt
nát và ấu trĩ.
Những bài thơ như của ông Tố Hữu với những câu như “Giết, giết nữa...” lại được nhà trường VNDCCH gieo vào đầu con trẻ ý tưởng giết người ngược hẳn với xu thế nhân bản của thế giới nói chung và VNCH nói riêng.
Những bài thơ như của ông Tố Hữu với những câu như “Giết, giết nữa...” lại được nhà trường VNDCCH gieo vào đầu con trẻ ý tưởng giết người ngược hẳn với xu thế nhân bản của thế giới nói chung và VNCH nói riêng.
Trên
Website của Sở Giáo dục Đào tạo tỉnh Hà Nam có bài viết
(http://phuly.edu.vn/bacho/chuyen83.htmInline image 2) nói về việc ông
Hồ gửi thư cho học sinh nhân ngày 1-6. Trên báo Sự Thật, số 134 ra ngày
1-6-1950, đăng bức thư gửi thiếu nhi toàn quốc nhân ngày 1-6. Ông Hồ có
viết: “Song ở các nước tư bản, cha mẹ là người lao động bị bóc lột, thì
trẻ con cũng bị bóc lột, phải chịu cực khổ”. Điều này cho thấy đảng cộng
sản và ông Hồ chủ trương tuyền truyền bịa đặt ngậm máu phun người về
cuộc sống của trẻ em ở những nước dân chủ trong đó có Mỹ và VNCH là bị
“bóc lột”. Nhìn lại những người lính trẻ bị bắt buộc phải cầm súng khi
chưa đủ tuổi thành niên thời trước hay nhìn cảnh tượng của trẻ em đang
làm nô lệ tình dục, nô lệ lao động... ở Việt Nam hiện nay mới thấy được
tuyên truyền của cộng sản chỉ là bịa đặt nhằm đưa đến một ý thức lệch
lạc cho nhân dân.
Thứ
tư, từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 (tức là sáu tuần sau sự kiện
ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học
Yale, viếng thăm miền Bắc Việt nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29
tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền
Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí
Science thì:
“Việc
thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó
khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong
nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các
nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc
điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những
đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận
sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.”
Theo
Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là
Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm Văn Đồng
(Thủ tướng Việt nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống
giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các
trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên
văn tiếng Anh: "the widespread educational emphasis on engineering and
electronics and the system of two-year, community colleges").
Như
vậy cho thấy ngay cả đảng cộng sản cũng phải thừa nhận nền giáo dục của
VNCH chính là cái gương cho họ tự soi vào. Nhưng thực chất họ nói như
vậy nhưng lại không làm như vậy chủ yếu chỉ để ngu dân, cai trị độc tài.
Lời
chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà
Lạt, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính
thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:
“Tôi
là con của một cán bộ Việt Minh – tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm
Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc. Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý
lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể
học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của
miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ
trong ngành giáo dục "xã hội chủ nghĩa" (1975-1989), tôi bị người ta gán
cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu
điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền
giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không
bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng...”
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê:
“Có
thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ
nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống
giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử
và văn học đều được giảng dạy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học
học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình
độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học,
sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư
tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn họ."
Đặng Chí Hùng
0 comments:
Post a Comment