Nguyễn Hưng Quốc
Duyên dáng ngày Tết |
Đã
có nhiều người viết về Tết từ các góc độ lịch sử, văn hóa, xã hội và
kinh tế với những lễ nghi và phong tục, những mơ ước và những kiêng kỵ,
những món ăn và những thức uống, những truyền thống và những cách tân,
những khác biệt trong cách đón Tết từ miền này sang miền khác. Ở đây,
tôi thử nhìn ngày Tết từ một góc độ khác: chính trị.
Thật
ra, rất khó phân biệt ý nghĩa văn hóa và ý nghĩa chính trị của ngày
Tết. Lý do đơn giản là ranh giới giữa văn hóa và chính trị nói chung, tự
nó, khá mơ hồ. Nếu hiểu văn hóa là một hệ thống biểu tượng, niềm tin và
giá trị mà một cộng đồng (được hiểu, ở phạm vi lớn nhất, là một quốc
gia) tin tưởng và chia sẻ, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để làm
tiêu chí và tiêu chuẩn cho việc phân biệt và đánh giá cái tốt và cái
xấu, cái thiện và cái ác, cái đúng và cái sai, cái nên làm và không nên
làm, bạn và thù cũng như người đáng kính trọng hay không đáng kính
trọng, không có thứ văn hóa nào lại không có tính chính trị, nghĩa là
không ít nhiều liên hệ đến quyền lực. Ngược lại, cũng không có thứ chính
trị nào lại không dựa vào những quy phạm và những bảng giá trị nào đó
để quyền lực (power) được biến thành thẩm quyền (authority), từ đó, sự
cai trị có được tính chính đáng (legitimacy) để dân chúng, hoặc ít nhất,
đa số dân chúng có thể chấp nhận và tham gia: Những quy phạm và những
bảng giá trị này đều thuộc phạm trù văn hóa.
Sự
phân biệt giữa ý nghĩa văn hóa và ý nghĩa chính trị, do đó, chỉ có tính
chất tương đối: Cùng một ý nghĩa, từ cái nhìn dài hạn, là văn hóa, từ
cái nhìn ngắn hạn, là chính trị; khi chỉ tác động vào vô thức, nó thuộc
phạm trù văn hóa, khi tác động đến cả cách hành xử của con người, trong
những trường hợp cụ thể, với một số mục đích cụ thể nào đó, thì lại
thuộc phạm trù chính trị; khi chỉ gắn liền với truyền thống, nó là văn
hóa, khi vừa gắn liền với truyền thống vừa gắn liền với quyền lực, nó
lại là chính trị.
Tất
cả những ý nghĩa ấy đều có thể được nhìn thấy trong các sinh hoạt ngày
Tết ở hải ngoại. Tuy nhiên, so với trong nước, chúng lại có khá nhiều
nét đặc biệt.
Thứ
nhất, ở trong nước, Tết là một lễ hội lớn nhất nhưng không phải duy
nhất. Ngoài Tết, Việt Nam còn nhiều lễ hội khác, hoặc ở tầm quốc gia
(như trung thu, chẳng hạn) hoặc ở tầm địa phương (như hội Chùa Hương,
hội Lim, hội chọi trâu ở Đồ Sơn, hội Đền Hùng, v.v..). Ở hải ngoại, Tết
là lễ hội duy nhất được tổ chức với quy mô lớn và thu hút sự chú ý hầu
như của cả cộng đồng.
Thứ
ba, những cái gọi là ý nghĩa liên thông của ngày Tết, ở trong nước,
thường chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, dòng tộc, láng giềng, thầy
trò, hoặc lớn hơn, giữa con người và quê quán (hiểu theo nghĩa là một
làng nào đó); ở hải ngoại, nó mở rộng, rất rộng, ở phạm vi dân tộc: Tết
là cơ hội hiếm hoi, nếu không muốn nói là duy nhất, để những người Việt
Nam đang sống ở nước ngoài ý thức và cảm nhận sâu sắc về căn cước của
chính mình, về cái điều không phải lúc nào người ta cũng nhớ: mình là
người Việt Nam.
Trước
hết, xin nhấn mạnh: phần lớn người Việt ở hải ngoại, nhất là những
người thuộc thế hệ thứ nhất, tức những người rời Việt Nam khi đã đến
tuổi trưởng thành, đều vẫn giữ được khá nhiều nếp cũ. Trong thói quen ăn
uống. Trong ngôn ngữ. Trong các quan hệ xã hội (với bạn bè người Việt)
cũng như sinh hoạt văn hóa (xem ti vi, phim ảnh, nghe ca nhạc hoặc theo
dõi sách báo bằng tiếng Việt). Ở một số địa phương, nơi có đông người
Việt, nhiều người có cảm giác họ đang sống ở Việt Nam chứ không phải
trên một đất nước khác. Ở nhà: nói và nghe tiếng Việt. Ra chợ: cũng nói
và nghe tiếng Việt; cũng mua rau muống, ngò, húng, quế, mít, sầu riêng,
hột vịt lộn, lòng gà, lòng heo, mắm tôm, mắm ruốc… như ở Việt Nam. Vào
tiệm ăn: Cũng cơm tấm bì sường chả trứng, cũng phở, cũng bún bò Huế,
cũng mì Quảng, cũng bánh bột lọc hay bánh bèo; cũng chè ba màu hay cà
phê sữa đá… như ở Việt Nam. Khám bệnh: Bác sĩ Việt Nam. Mua thuốc: Tiệm
thuốc tây Việt Nam. Có chuyện liên quan đến luật pháp, gặp luật sư: Cũng
luật sư Việt Nam. Dường như toàn bộ thế giới họ sống là Việt Nam.
Ở
hải ngoại, chỉ có hai loại biến cố có khả năng nhắc nhở chúng ta là
người Việt. Một loại có tính chất bất thường, bao gồm một số biến cố
chính trị lớn bùng nổ ở Việt Nam hoặc những chính sách mang màu sắc kỳ
thị mà người Việt trực tiếp là nạn nhân ở ngay chính quốc gia họ đang
sống. Loại này, do tính chất bất thường, chúng ta tạm thời gác lại. Một
loại khác có tính chất bình thường, một sinh hoạt thuộc truyền thống: Đó
là ngày Tết. Chỉ là ngày Tết.
Vâng,
chỉ có Tết mới đẩy chúng ta ngược về gốc rễ của mình, làm chúng ta cảm
nhận sâu sắc mình là người Việt. Là người Việt ở tận đáy tâm thức sâu xa
của chúng ta. Là người Việt trọn vẹn và đúng nghĩa.
Ngày
thường, mỗi người trong chúng ta có thể là Việt Nam. Nhưng chỉ với tư
cách cá nhân. Chỉ trong ngày Tết, cái gọi là Việt Nam ấy mới có độ rộng
của cả một cộng đồng và mới có độ dày của truyền thống và của lịch sử.
Chúng ta là Việt Nam từ gót chân lên đỉnh đầu chứ không phải chỉ ở màu
da hay ở cái miệng biết nói được tiếng Việt, đồng thời chúng ta là người
Việt Nam giữa vô số những người Việt Nam khác. Trong ý nghĩa này, Tết
là cơ hội, hầu như duy nhất trong năm, vừa củng cố gốc rễ mỗi người vừa
đoàn kết mọi người trong một ký ức chung. Những ngày lễ khác có thể củng
cố gốc rễ nhưng lại phân hóa theo những kỷ niệm và kinh nghiệm khác
nhau (ví dụ ngày 30/7 hay ngày Quốc khánh trước và sau 1975…)
Hai
tác dụng vừa nêu của ngày Tết (củng cố gốc rễ để mỗi người tự cảm nhận
sâu sắc về sự kiện mình là người Việt Nam và ý thức mình là người
ViệtNam giữa hàng chục triệu người Việt Nam khác) vừa có ý nghĩa văn hóa
vừa có ý nghĩa chính trị. Trong hoàn cảnh lưu vong, sống ở nước ngoài, ý
nghĩa chính trị nổi bật hơn ý nghĩa văn hóa.
Ở
trong nước, làm-người-Việt-Nam là điều tự nhiên, làm người tự do là một
lựa chọn chính trị; ở ngoài nước, làm người tự do là điều tự nhiên,
làm-người-Việt-Nam lại là một lựa chọn đầy màu sắc chính trị. Bình
thường, sự lựa chọn ấy có tính chất tự phát, từ vô thức, nên ít được để
ý. Chính ngày Tết nguyên đán biến sự lựa chọn ấy thành một hành động có
tính chất tự giác, thuộc phạm trù ý thức.
Nói Tết, với người Việt Nam ở hải ngoại, có ý nghĩa chính trị là vì thế.
Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc
Nguồn : Báo Mai
0 comments:
Post a Comment