Bài viết hưởng ứng chiến dịch “Chúng tôi muốn biết” của Mạng lưới Blogger VN.
Ngày 28 tháng 9 mỗi năm được gọi là Ngày quốc tế Quyền được biết
(International Right to Know Day). Ngày này đã được đề nghị từ năm 2002
trong một cuộc mít-tinh của các Tổ chức Tự do Thông tin khắp thế giới
tại Sofia, Bulgaria
vào chính tháng 9 ngày 28. Các tổ chức này và những người ủng hộ họ
trên toàn cầu đã đánh dấu ngày đó bằng nhiều hoạt động nhằm tán dương và
khơi dậy ý thức về quyền thông tin (theo Wikipedia).
Quyền được biết hẳn nhiên bắt nguồn từ quyền được sống của con người.
Hiểu theo nghĩa rộng, quyền được sống là quyền tồn tại như một hữu thể
có hồn có xác, có yếu tố thể chất và yếu tố tâm linh mà cần phải được
thường xuyên cung cấp thực phẩm, thường xuyên chăm sóc bồi dưỡng. Thực
phẩm vật chất cho xác và thực phẩm tinh thần cho hồn. Xác nhận thực phẩm
vật chất chủ yếu qua việc dinh dưỡng ăn uống và hồn nhận thực phẩm tinh
thần chủ yếu qua việc học hỏi tìm hiểu. Và việc đó làm nên hai quyền cơ
bản của con người: quyền được ăn và quyền được biết. Giam người ta
trong đói khát và giữ người ta trong ngu dốt là hai trọng tội, nhất là
đối với những kẻ có quyền lực và trách nhiệm.
Nay xin nói về quyền được biết.
Vì mỗi cá nhân vừa là một con người tồn tại trong trời đất vừa là một
công dân tồn tại trong xã hội, nên quyền được biết cũng có hai khía
cạnh: quyền được biết trong tư cách con người và quyền được biết trong tư cách công dân:
1- Quyền được biết trong tư cách con người
a. Trước hết là quyền được biết để có khả năng tồn tại.
Điều này đòi hỏi con người phải được truyền đạt kiến thức và kỹ năng qua
việc giáo dục học đường và giáo dục nghề nghiệp. Ví dụ phải biết chữ để
tiến bộ trong tri thức, biết cách giữ gìn và gia tăng sức khỏe để sống
an vui yên hàn, biết một nghề nghiệp để sinh nhai mà sống no đủ. Thành
ra một nhà cầm quyền không tạo điều kiện để người dân có được một kiến
thức văn hóa tối thiểu (ví dụ chẳng những không cung cấp giáo dục miễn
phí cơ bản mà còn chặt chém phụ huynh và học sinh mọi cấp với học phí và
phụ phí đủ kiểu, khiến cho hàng triệu thanh thiếu nhi không thể đến
trường hoặc phải sớm rời trường...), không tạo điều kiện để người dân
được có một nghề nghiệp vững chãi và sống được bằng nghề đó (ví dụ đào
tạo ồ ạt để rồi không dùng, tốt nghiệp xong thì đành thất nghiệp, có
bằng đỏ vẫn phải thua hay phải có thêm bằng vàng, làm việc không đúng
với khả năng đã được đào tạo, lấy đất nông dân nhưng không giúp họ
chuyển nghề...), một nhà cầm quyền như thế rất đáng lên án.
b. Thứ đến là quyền được biết để có khả năng ứng xử. Ứng
xử đây, trước hết là phản ứng tốt đẹp trong những vấn đề liên quan tới
người khác, theo chuẩn mực đạo đức nhân nghĩa lễ trí tín (nói kiểu Đông
phương). Thành ra một nền giáo dục thay vì giúp hiểu biết và thấm nhuần
các giá trị đạo đức chuẩn mực này, lại dạy dỗ hay dung túng cho học sinh
ngay từ nhỏ thói gian dối, bạo hành, vô lễ, thói đạt thành tích giả,
thói theo dõi để báo cáo về thầy và bạn... hoặc nhồi nhét những điều dối
trá, dạy bảo những kiểu ngụy biện, đưa ra cho học sinh lý tưởng sống hư
ảo (ví dụ xã hội chủ nghĩa), những tấm gương giả tạo, không bao giờ
hiện hữu thật hay không bao giờ đạo đức thật (vì dù có được tô vẽ, các
em rồi đây vẫn khám phá ra được đó là những kẻ gian hùng, tàn độc...)
hòng tạo nên những ngu trung cho chế độ, một nền giáo dục chính trị hóa
như thế thật tai hại và đốn mạt, vì giết cả bao thế hệ con người, gây
hiểm nguy cho tương lai lâu dài của dân tộc.
Ứng xử còn có nghĩa là phản ứng chính đáng trong những vấn đề liên quan
tới bản thân, nghĩa là biết được tất cả các nhân quyền cơ bản mà mình
phải được thụ hưởng và nếu chưa có thì phải đòi hỏi. Các nhân quyền cơ
bản này, nhân loại văn minh đã trình bày trong các Tuyên ngôn lẫn Công
ước quốc tế nhân quyền của Liên Hiệp Quốc và được tóm tắt thành 26
quyền: 8 quyền về thân thể, 6 quyền về an cư, 8 quyền về lạc nghiệp, 4
quyền về tự do dân chủ. Khốn nạn thay một nhà nước, vì những toan tính
chính trị, đã ký nhận hết mọi văn kiện quốc tế đó như ai, nhưng chẳng
bao giờ phổ biến cho quốc dân của mình biết, thậm chí còn ra tay đàn áp
những công dân phổ biến chúng, tổ chức hội thảo hay học hỏi về chúng. Có
lúc lại còn cho tay chân lếu láo biện bạch: luật quốc gia hơn luật quốc
tế, quyền đất nước cao hơn quyền con người, văn hóa nước ta khác với
văn hóa thiên hạ!?!
Nhưng vì con người, ngoài hai chiều kích thể chất và trí tuệ, còn có
chiều kích tâm linh, nghĩa là có quan hệ với thế giới siêu việt, với các
hữu thể thiêng liêng (gọi chung là thần thánh, Trời Phật...), để tìm ra
ý nghĩa và cùng đích cho cuộc sống, nỗi khổ lẫn cái chết của mình, từ
đó làm cho kiếp đời mình hạnh phúc, xã hội mình tốt đẹp. Thành ra con
người còn có quyền được biết về các tôn giáo là nơi giới thiệu, trình
bày cũng như giúp tiếp xúc gặp gỡ thế giới ấy, các hữu thể siêu việt ấy.
Thế nhưng cái chế độ vô thần toàn trị đã luôn tìm cách tước quyền biết
đạo và sống đạo của con người: hoặc cấm cản tiêu diệt, hoặc xuyên tạc vu
khống, hoặc công cụ hóa các giáo hội. Không cho tôn giáo có phương tiện
truyền thông đại chúng lẫn góp phần vào giáo dục (chỉ dạy mẫu giáo),
đưa ra chiêu bài “đạo pháp và xã hội chủ nghĩa” hay “Phúc Âm hòa hợp với
ý thức hệ”, cắt xén Thi văn giáo lý của Đức Huỳnh Giáo chủ, cấm sử dụng
cơ bút (thông linh học) Cao Đài... là một vài thí dụ.
2- Quyền được biết trong tư cách công dân
Nhân dân với tư cách là người làm chủ toàn thể đất nước, là người ủy
nhiệm công việc cho giới lãnh đạo chính trị, là người đóng thuế nuôi bộ
máy cầm quyền, đương nhiên có quyền được hiểu biết và được can dự vào
những gì liên quan tới việc biên soạn luật pháp, việc dự thảo chính
sách, việc quản lý kinh tế, việc điều hành quốc gia, việc bang giao quốc
tế, việc bảo vệ bờ cõi, việc thực thi pháp luật...
Đảng và nhà cầm quyền muốn cho dân biết rằng mình cũng ý thức chuyện này
nên đã không ngừng giương cao các khẩu hiệu: “Nhân dân là chủ, cán bộ
là đầy tớ”, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, “Đảng CSVN...
chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình” (Hiến pháp đ. 4). Rồi thì dùng vô số chữ “ủy” (có
lẽ hơn mọi chế độ trong lịch sử loài người): “đảng ủy”, “chính ủy”,
“quân ủy”, “ủy ban”, “ủy viên”, “tỉnh ủy”, “huyện ủy”, “xã ủy”... Nhưng
trong thực tế, họ hành xử như những đầy tớ, kẻ thừa ủy, hay như những
chủ nhân, lãnh chúa, chủ tể, chẳng thèm nói cho dân biết, chẳng thèm đáp
lời dân hỏi, chẳng hề chịu trách nhiệm trước dân thì ai nấy đều rõ.
a. Trước hết là quyền được biết sự thật, sự thật lịch sử Dân tộc và sự thật xã hội Việt Nam.
Việc trình bày các loại sự thật này đòi hỏi một nền học thuật nghiên
cứu vô tư và một nền báo chí truyền thông liêm chính, không bị đảng hóa,
chính trị hóa, công cụ hóa. Mọi bộ sách sử, giáo khoa sử, mọi bộ bách
khoa nổi tiếng và giá trị của thế giới văn minh dân chủ đều là của tư
nhân, chẳng hạn William và Ariel Durant với bộ “Câu chuyện của nền văn minh”, Arnold Toynbee với bộ “Nghiên cứu lịch sử”, chẳng hạn bộ bách khoa Britannica tại Anh quốc, bộ Compton’s tại Hoa Kỳ...
Đang khi đó thì Viện Sử học VN được Ban chấp hành Trung ương đảng rồi
Thủ tướng ra quyết định thành lập và nay trực thuộc Ủy ban Khoa học xã
hội. UB này có ra một bộ Lịch sử VN 2 cuốn tổng cộng 799 trang (ấn bản
1976) nhưng phần về ông Hồ Chí Minh và đảng CS đã dày tới 219 trang rồi.
Trong cuốn 1, trang 261, UB lại dám bỏ câu cuối cùng trong bài Bình Ngô
Đại Cáo của Nguyễn Trãi: “Thế là nhờ trời đất, tổ tông, khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy”. Bộ Từ điển Bách khoa VN (4 cuốn, khoảng 4000tr.) “được biên soạn với sự tổ chức và chỉ đạo của Nhà nước”
thì đã bị vô số học giả và độc giả phê bình nát bét (x. Wikipedia). Còn
sách giáo khoa thì che giấu lịch sử (chẳng biết Hai Bà Trưng chống kẻ
thù nào) hay xuyên tạc lịch sử (Hoàng Sa Trường Sa là của Tàu cộng)!
Ngày 08-09 hôm nay, tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Hà Nội) có trưng bày
chuyên đề “Cải cách ruộng đất năm 1946-1957” trong đó có mục “Sai lầm và sửa chữa sai lầm; Hoàn thành thắng lợi”.
Phải chăng nhà cầm quyền lại sắp tuyên truyền xuyên tạc về vụ việc long
trời lở đất này? Sau hơn nửa thế kỷ, phải chăng CS vẫn cố chấp không
nhận cái tội tày đình giết nông dân tài giỏi, diệt nhân sĩ uy tín và
cướp bóc ruộng đất của dân cho đảng? Thành ra, quyền được biết sự thật
lịch sử của dân đòi hỏi không được đem tiền thuế của dân để kiến tạo cái
gọi là viện sử học nhà nước, một hệ thống báo chí công cụ và một dàn dư
luận viên đầy tớ, không được ra những sách nghiên cứu và giáo khoa “dưới sự chỉ đạo của đảng và nhà nước” đầy xuyên tạc sự thật.
b. Tiếp đến là quyền được biết và được dự vào những vấn đề của đất
nước xã hội, cách trực tiếp hoặc cách gián tiếp qua các đại biểu đích
thực của mình (dân biểu chứ không phải đảng biểu). Cụ thể, đó là
những gì liên quan tới việc biên soạn luật pháp, việc dự thảo chính
sách, việc quản lý kinh tế, việc điều hành quốc gia, việc bang giao quốc
tế, việc bảo vệ bờ cõi...
Về luật pháp, chính sách, nhân dân cần phải được biết (có thể tham dự
các phiên họp của quốc hội như tại các nước dân chủ), được hỏi ý kiến,
được quyền đồng thuận, như trong Kiến nghị của nhóm 72 trí thức về HP
mới đây: “Quyền lập hiến phải thuộc về toàn dân, chứ không thể thuộc
về bất kỳ một tổ chức hay cơ quan nào, kể cả Quốc hội. Cần xác định rõ
chủ thể quyết định, ban hành hiến pháp là nhân dân”. Thế nhưng trong
chiến dịch lấy ý kiến nhân dân cho bản Hiến pháp mới rồi, chúng ta đã
thấy cả một trò hề lừa đảo, một màn cưỡng bức trắng trợn và cuối cùng là
việc bỏ xó mọi ý kiến xây dựng của người dân... Không ai quên được vào
tháng 9-2009, viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) đã tự giải thể để phản
đối quyết định 97 của Thủ tướng nhằm giới hạn việc nghiên cứu và phản
biện công khai các chính sách của nhà cầm quyền. Còn các Luật đất đai,
Pháp lệnh tôn giáo tín ngưỡng, phải chăng đã có sự hỏi ý và đồng thuận
của nông dân, tín đồ?
Về kinh tế, tài chánh, nhân dân có quyền được biết việc thu chi tiền
thuế của nhân dân, việc lời lỗ của các công ty quốc gia, tập đoàn nhà
nước, việc xử lý và khắc phục các hậu quả tai hại do các tổ chức kinh tế
này gây ra cho công quỹ. Thế nhưng, từ ngày cầm quyền đến nay, đảng và
nhà cầm quyền CS đã có khi nào công bố chi tiết chi tiêu hàng năm của
chính phủ? đã giải trình đúng đắn các khoản vay quốc tế và việc sử dụng
tiền viện trợ? đã trả lời công khai rành mạch cho dân về những thất
thoát tài chánh? những món nợ công mà mỗi người dân đang phải gánh? Việc
nhiều quan chức cao cấp nhận hối lộ trong vụ tiền polymer vẫn còn là
một câu hỏi lớn đối với công luận.
Về bang giao quốc tế, an ninh quốc phòng, bảo vệ bờ cõi, từ lâu người
dân đã mong mỏi đảng và nhà nước trình bày rõ ràng về công hàm Phạm Văn
Đồng, về hiệp định biên giới năm 1999, hiệp định vịnh Bắc bộ năm 2000,
nhất là về nội dung hội nghị Thành Đô năm 1990 vốn đang làm toàn dân
hoang mang và sợ hãi. Nhiều cá nhân và tập thể công dân đang lên tiếng
về vấn đề này, cụ thể là Thư ngỏ của 61 đảng viên ngày 20-07-2014, Chiến dịch “Tôi/Chúng tôi muốn biết” của Mạng lưới Blogger VN
ngày 02-09 và kiến nghị của 20 tướng tá quân đội nhân dân trong cùng
ngày. Nhìn thấy nhiều sự kiện chứng tỏ sự lệ thuộc, sợ hãi, nhượng bộ,
thậm chí toa rập, đồng lõa của Hà Nội với Bắc Kinh từ sau hội nghị ấy,
người dân tự hỏi phải chăng đảng CS đã quyết tâm biến VN thành tỉnh tự
trị của Tàu cộng sau thời điểm 2020?
c. Cuối cùng là quyền được biết về việc nhà nước thực thi pháp luật.
Điều này trước hết bao hàm quyền được tham dự các phiên tòa, nhất là
các phiên tòa xử các vụ án chính trị. (Các nước văn minh dân chủ đã cho
người dân thực hiện quyền này từ lâu). Nhưng một sự mỉa mai trắng trợn
là mọi phiên tòa chính trị tại VN đều tự tuyên bố là “công khai” nhưng
nhân dân đều bị từ cấm cản ngăn chận đến hành hung giam nhốt, chứng nhân
có khi còn bị tống cổ dẫu có giấy mời của tòa án, còn thân nhân bị can
thì hiếm khi được có mặt đầy đủ, điển hình như vụ xử bà Bùi Minh Hằng
mới rồi. Bên cạnh quyền dân được biết việc thực thi luật pháp như một
chứng nhân, còn quyền được biết như một can nhân. Nghĩa là khi vừa bị
bắt hay trước khi bị thẩm vấn, công dân nghi phạm có quyền được biết
theo điều gọi là “Lời cảnh báo Miranda” từ miệng cảnh sát: “Anh
có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói
cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước tòa. Anh có quyền có luật sư
trước khi khai báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát
thẩm vấn anh. Nếu anh không thể tìm luật sư, anh sẽ được cung cấp một
luật sư trước khi trả lời các câu hỏi. Anh có thể trả lời câu hỏi khi
không có luật sư, nhưng anh vẫn có quyền ngưng trả lời bất cứ lúc nào để
chờ đợi sự có mặt của luật sư”. Trong cái chế độ luôn tự xưng là
“của dân, do dân, vì dân” rất ưu việt với “nền pháp chế xã hội chủ nghĩa
đầy tính nhân đạo”, có bao giờ được nghi phạm được nghe những lời ấy?
Nói gì đến việc các lời ấy tiếp đó được thực hiện hay không thực hiện?
Kết luận: Cộng sản là một chế độ ngu dân
Qua những điều trình bày ở trên về quyền được biết của con người và của
công dân cũng như hiện tình thực thi quyền ấy tại nước CHXHCNVN, ta thấy
rõ Cộng sản là một chế độ ngu dân. Ngu dân bằng cách tổ chức một nền
giáo dục học đường và giáo dục cộng đồng tạo con người thành những thần
dân và công cụ cho đảng. Ngu dân bằng cách tổ chức một nền thông tin đầy
bưng bít che giấu, dối trá lọc lừa và vu khống ngụy biện, để chỉ còn
đảng nổi lên như một chuẩn mực sự thiện, suối nguồn sự thật và quan tòa
công lý. Ngu dân bằng cách tổ chức một nền chính trị loại công dân ra
ngoài tất cả mọi hoạt động của đảng cầm quyền, mọi vấn đề của đất nước
mà công dân có quyền hiểu biết và can dự, để đảng tự do tung hoành hầu
nắm chắc mãi mãi quyền lực và quyền lợi, túi bạc và ngai vàng, dẫu với
giá trở thành thái thú cho kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc.
Huế ngày 08-09-2014
Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi, Khối 8406, Hội đồng LTVN, Hội NBĐL, Hội CTLT.
0 comments:
Post a Comment