Nguyễn Quang Duy
Ông Ngô Đình Diệm đã tiến hành cải cách nông thôn khi còn làm Thủ tướng
Trong
khi miền Bắc phóng tay phát động Cải cách Ruộng đất tiêu diệt tầng lớp
địa chủ thì chính quyền miền Nam liên tục tiến hành tư hữu hoá đất đai,
thực hiện công bằng xã hội, nâng cao đời sống nông dân.
Qua
việc thu mua đất từ các điền chủ rồi bán lại hay phát cho nông dân,
trước năm 1975 mọi gia đình nông dân miền Nam đều đã thật sự làm chủ
mảnh đất tư hữu của mình.
Chương trình Người Cày Có Ruộng (NCCR) là một cuộc cách mạng xã hội, thay đổi tận gốc rễ nông thôn miền Nam.
Chương
trình được thực hiện trong ôn hòa, dựa trên tinh thần thượng tôn luật
pháp, hoà giải và hòa hợp xã hội. Một mặt tôn trọng quyền lợi của chủ
đất, khôi phục và bảo vệ quyền tư hữu đất đai. Mặt khác giúp tòan thể
nông dân có ruộng cày.
Thành công một phần nhờ vào sự đóng góp của Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh.
Nhưng
chính yếu vẫn là từ hai vị lãnh đạo miền Nam: Thủ tướng Ngô Đình Diệm
đã thực hiện chương trình ngay khi về nước và Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu quyết tâm nối tiếp thực hiện chương trình.
Tại Cần Thơ vào ngày 26-3-1970, ngày ban hành Luật NCCR Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố:
"Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi.” Ông cho biết: “Tôi đã
từng tham gia Việt Minh. Tôi biết rằng Việt Minh là cộng sản, họ bắn
người dân, họ lật đổ các ủy ban xã, họ tịch thu đất đai”.
Ông
Thiệu hiểu rõ Luật NCCR không phải chỉ là thành quả của nền dân chủ
nghị viện non trẻ, mà còn là một chính sách mang lại chính nghĩa cho
công cuộc đấu tranh chống cộng sản.
Những
tài liệu phổ biến gần đây cho thấy, sau Mậu Thân 1968 số thanh niên
miền Nam theo cộng sản càng ngày càng ít đi, không đủ bổ xung số cán
binh cộng sản ra hồi chánh, lên đến trên 200.000 người.
Chính vì lý do này cộng sản Bắc Việt đã phải mang quân chính quy từ miền Bắc vượt biên giới xâm lấn miền Nam.
Có
an cư mới có lạc nghiệp. Ngày nay đất đai thuộc quyền quản lý nhà nước
và cán bộ cộng sản tòan quyền định đọat. Nông dân làm thuê cho guồng máy
cầm quyền không rõ ngày mai ra sao. Bởi thế nông thôn càng ngày càng
suy sụp mọi mặt.
Thể
chế đi ngược lòng dân rồi cũng sẽ bị thay đổi. Bài học từ Chương Trình
NCCR là phải trao lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Chính phủ
tương lai cần thực hiện chương trình bán trả góp đất cho dân để có ngân
sách đầu tư xây dựng lại nông thôn.
Dân có giàu thì nước mới mạnh. Nông dân sẽ luôn là tầng lớp chính của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử đã chứng minh nông dân luôn là nền tảng trong việc bảo vệ và xây dựng quốc gia. Nông dân có giàu thì nước mới mạnh.
Tình hình ruộng đất miền Nam
Khi
quân Pháp xâm chiếm nước ta, miền Nam vẫn còn nhiều vùng chưa được khẩn
hoang, nhiều vùng vì chiến tranh nông dân đã phải bỏ ruộng vườn.
Lợi
dụng cơ hội một số người Pháp và người theo Pháp đã chiếm, rồi thông
đồng với nhà cầm quyền Pháp hợp thức hóa quyền sở hữu đất đai họ chiếm
được. Trước 1945, theo ước tính trong số 6.530 đại điền chủ (trên 50 ha
đất) có 6.316 là ở miền Nam.
Miền Nam không xảy ra Cải cách Ruộng đất, không có nghĩa là cộng sản miền Nam nhân đạo hơn cộng sản miền Bắc.
Từ
cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa 1940, cộng sản đã thẳng tay tàn sát tiêu diệt
giai cấp điền chủ. Các sử liệu cộng sản tóm tắc việc này như sau: “…lập
tòa án cách mạng xét xử bọn phản động, xóa bỏ các thứ thuế vô lý, xóa
các khoản nợ, tịch thu đất thóc gạo của địa chủ chia cho dân nghèo và
nuôi nghĩa quân.”
Khi
Việt Minh cướp được chính quyền năm 1945, hầu hết các đại điền chủ đều
bỏ ruộng vườn về sống tại Sài Gòn hoặc các thành phố lớn. Việt Minh tịch
thu ruộng đất rồi chia cho tá điền canh tác và lấy thuế.
Ở
các vùng thuộc Hòa Hảo và Cao Đài, nông dân cũng tự thực hiện việc chia
lại ruộng đất hoặc chấm dứt nộp địa tô cho ruộng vườn mà họ đang trồng
cấy.
Sắc lệnh Cải cách Điền Địa của Cựu Hoàng Bảo Đại vì chiến tranh và thiếu thực quyền nên không mang lại kết quả cụ thể
Năm
1949, khi người Pháp bắt đầu trao trả độc lập Cựu Hoàng Bảo Đại cho ban
hành sắc lệnh về Cải cách Điền Địa (CCĐĐ), nhưng vì chiến tranh và
thiếu thực quyền nên sắc lệnh này không mang lại kết quả cụ thể nào.
Sau hiệp định đình chiến Genève chia đôi đất nước, miền Nam đã trải qua hai cuộc CCĐĐ và một số chính sách về ruộng đất.
Cải cách điền địa lần thứ nhất
Bước
đầu của chính sách cải cách điền địa, Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho ban
hành Dụ số 2 và Dụ số 7 nhằm thiết thiết lập quy chế tá canh.
Địa
tô được tính không quá 25% vụ lúa thu hoạch chánh. Thời gian cho thuê
được quy định là 5 năm. Tá điền và điền chủ có thể xin hủy bỏ họăc tái
ký hợp đồng.
Trường
hợp ruộng đất bị bỏ hoang, ước lượng 500 ngàn ha, thì thuộc quyền sở
hữu quốc gia. Chính quyền thu và cấp phát không cho tá điền.
Các
tá điền trước đây theo Việt Minh được tiếp tục canh tác trên mảnh ruộng
do Việt Minh cấp phát trong thời chiến. Địa tô và quyền tá canh nay
được chính phủ nhìn nhận và bảo đảm.
Ngày 22-10-1956, Tổng thống Ngô Ðình Diệm cho ban hành Dụ số 57, tiến hành Chính sách CCĐĐ.
Mỗi
điền chủ chỉ được quyền giữ tối đa 100 ha ruộng, trong số nầy 30 ha được
phép trực canh, còn 70 ha phải cho tá điền thuê theo đúng quy chế tá
canh.
Ðiền
chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thuờng thiệt hại: 10% trị giá ruộng
đất bị truất hữu đuợc trả ngay bằng tiền mặt, phần còn lại được trả
bằng trái phiếu trong thời hạn 12 năm, với lãi suất là 3% mỗi năm.
Ruộng
bị truất hữu được bán lại cho các tá điền, mỗi gia đình được quyền mua
lại tối đa 5 ha và phải trả cho nhà nước trong vòng 12 năm.
Giá
tiền bán bằng với giá Chính phủ trả cho chủ điền. Như vậy chủ yếu Chính
phủ chỉ làm trung gian trong việc chuyển nhượng quyền tư hữu đất đai.
Chiếu theo Dụ số 57, chính phủ truất hữu 430.319 ha đất từ 1.085 đại điền chủ.
Ngày
11-9-1958, Chính phủ còn ký kết Hiệp định Việt Pháp, truất hữu thêm
220.813 ha ruộng đất của Pháp kiều. Như vậy tổng số diện tích đất đai
được truất hữu là 651.182 ha.
Số
ruộng được truất hữu được giao cho 123.198 tá điền. Ngoài ra còn có
2.857 tá điền khác đã trực tiếp mua lại đất của các đại điền chủ.
Một
số ruộng truất hữu cũng được bán cho các cựu chiến binh, những nông dân
trốn Việt Minh nay hồi hương và đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.
Giới điền chủ đều ủng hộ chính sách CCĐĐ. Trong thời chiến ruộng đất của họ bị xem như đã mất.
Nay
chính phủ khôi phục lại quyền sở hữu ruộng đất, họ được quyền thu địa
tô và lãnh tiền bồi thuờng thiệt hại nếu bị truất hữu. Đại điền chủ vẫn
còn được giữ lại 100 ha.
Các chính sách khác
Nhằm
giải quyết công ăn việc làm cho đồng bào miền Bắc di cư, giải quyết nạn
thất nghiệp hậu chiến và đồng thời cũng để cô lập họat động du kích cộng
sản, Tổng thống Ngô đình Diệm còn thực hiện chính sách xây dựng các khu
dinh điền, khu trù mật và các ấp chiến lược.
Đến
năm 1961, chính phủ đã thành lập 169 trung tâm tái định cư, với 25 Khu
Trù Mật tập trung trên đồng bằng sông Cửu Long, tiếp nhận 50 ngàn gia
đình, với 250 ngàn người tái định cư. Diện tích đất trồng được khai
hoang hay được tái canh đạt 109.379 ha.
Tháng
4-1957, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho thành lập Quốc Gia Nông Tín Cuộc
cho nông dân vay tiền một cách dễ dàng, nhẹ lãi và không đòi hỏi thế
chấp hay người bảo lãnh.
Đến
năm 1963, Quốc Gia Nông Tín Cuộc đã cho vay số tiền lên đến 4 tỷ 600
triệu đồng, 85% số tiền để giúp các tiểu điền chủ hay tá điền. Nhưng vì
không có thế chấp và vì chiến tranh nên rất ít nông dân chịu trả nợ.
Chính
phủ cũng đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng
dẫn, giúp đỡ kỹ thuật cho nông dân. Nhờ đó năng suất lúa đã tăng từ 1,4
tấn/ha trong những năm 1950-1954, lên đến 2 tấn/ha năm 1960-1963.
Thành quả và giới hạn
Nhờ
các chính sách nói trên, việc sản xuất, xuất cảng và lợi tức nông nghiệp
đã không ngừng gia tăng. Từ năm 1955 đến 1962, mức sản xuất gạo đã tăng
từ 2,8 triệu tấn đến 5 triệu tấn, còn xuất cảng tăng từ 70 ngàn tấn lên
đến 323 ngàn tấn.
Các
điền chủ có ruộng đất truất hữu nhận các các khỏan bồi thường lớn, họ
đầu tư xây dựng các nhà máy, các phân xưởng tại nông thôn, hay trong
lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Nhờ đó không chỉ riêng
nông thôn, mà tòan miền Nam sống trong cảnh thái bình.
Giới
hạn của chính sách CCĐĐ là 74% tổng số diện tích ruộng lúa ở đồng bằng
sông Cửu Long vẫn thuộc 65.757 trung điền chủ (từ 5 đến 50 ha) và 6.316
đại điền chủ (trên 50 ha). Vẫn còn 795.480 gia đình nông dân chưa được
làm chủ mảnh ruộng đang cày.
Khi
đời sống nông dân nâng cao thì ảnh hưởng của cộng sản cũng bị giảm sút.
Để tồn tại cộng sản đã tiến hành bạo lực chính trị ám sát, bắt và thủ
tiêu cán bộ và chuyên viên phát triển nông thôn.
Cộng
sản cấm tá điền làm đơn xin mua ruộng đất truất hữu, cấm tá điền ký hợp
đồng với chủ điền, buộc điền chủ hủy bỏ địa tô. Một số ngừơi đã bị giết
vì không tuân theo các lệnh cấm nói trên.
Cùng lúc cộng sản cho trưng thu thóc lúa của nông dân, tiến hành chiến tranh du kích, khủng bố phá họai làng xã miền Nam.
Sau
đảo chánh 1/11 năm 1963 cho đến năm 1965, các vụ đảo chánh liên tục xảy
ra, các chính phủ thường xuyên thay đổi. Chính sách CCĐĐ không được
tiếp tục. Chính sách dinh điền và khu trù mật cũng bị đình chỉ. Nhiều ấp
chiến lược bị phá bỏ.
Cộng
sản lợi dụng tình thế đưa cán bộ và quân đội từ miền Bắc vào gia tăng
họat động. Sẵn cơ sở hạ tầng rộng rãi chỉ sau một thời gian ngắn cộng
sản đã kiểm sóat được một phần nông thôn. Ở những vùng chiếm được cộng
sản chia lại ruộng đất cho nông dân.
Đến năm 1965, với sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh, an ninh tại nông thôn dần dần được vãn hồi.
Ngày
3-9-1966, Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra. Ngày 1-4-1967, Hiến Pháp mới
được ban hành. Ngày 3-9-1967 cuộc tổng tuyển cử tổng thống và Quốc hội
diễn ra, Tướng Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng thống của nền Ðệ nhị cộng
hòa ra quyết định tiếp tục áp dụng Chương Trình CCĐĐ.
Cải cách điền địa lần thứ hai
Cuộc
tổng công kích Mậu Thân cộng sản thất bại, tại nông thôn cơ sở hạ tầng
cộng sản bị cô lập, an ninh được vãn hồi. Số ruộng trước đây bị bỏ hoang
nay được cấp phát cho nông dân.
Đến năm 1969, có thêm 261.874 gia đình được cấp ruộng để canh tác, nâng tổng số người có ruộng lên 438,004 người.
Tháng
7-1969, Chương trình bình định và phát triển nông thôn được tiến hành.
Chính phủ cho tổ chức lại cơ cấu hạ tầng nông thôn và đào tạo cán bộ xây
dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẩn, giúp đỡ kỹ thuật nông
nghiệp cho dân.
Ngày 25-8-1969, Tổng Thống Thiệu đưa dự luật Người Cày Có Ruộng ra quốc hội thảo luận.
Điểm
chính của dự luật là giảm số ruộng đất tối đa điền chủ xuống còn 15 ha,
trưng thu và cấp (không bồi hoàn) cho hơn tãm trăm ngàn nông dân chưa có
ruộng cày.
Chiến tranh đã tàn phá miền Nam Việt Nam
Nhiều
dân biểu nghị sĩ thuộc tầng lớp đại điền chủ không muốn bị truất hữu
ruộng đất nên đã tìm cách ngăn cản thông qua dự luật. Mãi đến ngày
6-3-1970 đạo luật mới được Thượng viện thông qua. Ngày 16-3-1970 được Hạ
viện thông qua.
Ngày 26-3-1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho ban hành luật Người Cày Có Ruộng (NCCR) và lấy ngày này làm Ngày Nông Dân.
Các
ruộng đất không được trực canh bị truất hữu phát cho các tá điền đang
canh tác. Mỗi tá điền được phát 3 ha ở Nam phần hay 1 ha ở Trung phần.
Điền chủ trực canh được giữ lại tối đa 15 ha.
Đất
truất hữu được trả 20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố phiếu với 10%
lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá năng
suất thóc (hay lợi tức) từ khoảnh đất đó.
Trong
vòng 3 năm, 1970-1973, đã có 51.704 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng
là 770.105 mẫu. Trong thời chiến đa số ruộng đất bị ảnh hưởng, nên đa
số các điền chủ bị truất hữu đều không bất mãn.
Để đền đáp chính phủ cho phổ biến rộng rãi các bích chương: “Người Cày có ruộng ghi ơn tinh thần hy sinh của điền chủ.”
Nhìn chung ông Thiệu thu phục được nhân tâm của giới cựu điền chủ miền Nam.
Luật NCCR cũng quy định nông dân lãnh ruộng do cộng sản cấp cũng được nhận bằng khoán chính thức sở hữu số ruộng.
Cho
đến ngày 28-2-1973 Chương trình CCRĐ coi như đã hòan tất. Đã có 858.821
tá điền được hữu sản hóa 1.003.323 ha ruộng đất. Mọi nông dân miền Nam
đều có ruộng cày.
Chương trình NCCR đã tạo ra một tầng lớp tiểu và trung điền chủ lên đến 1,3 triệu người.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu Quyết tâm thực hiện Chương Trình Người Cày Có Ruộng
Chỉ
còn chừng 10% là có từ 5-15 ha đất, với 10% diện tích trồng trọt và họ
cũng phải tự chăm sóc cho đất đai. Đại điền chủ không còn và việc tá
canh coi như đã chấm dứt.
Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng,
thêm cán bộ xây dựng nông thôn, khuyến khích nghiên cứu và áp dụng
phương pháp canh tác mới với kỹ thuật mới thúc đẩy gia tăng năng suất.
Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn được thành lập. Với bằng khóan đất, nông dân được vay lãi nhẹ để đầu tư sản xuất.
Chương
trình cơ giới hóa nông nghiệp được đưa về nông thôn. Nông dân bắt đầu
trang bị cơ giới để canh tác, sử dụng phân bón hóa học, cải tiến giống
lúa, trồng lúa Thần Nông, tăng gia sản xuất gia súc lai giống… Cơ sở hạ
tầng phát triển nông dân hăng say học hỏi và sản xuất.
Năng
suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Năm 1974,
sản lượng gạo sản xuất đã tăng đến 7,2 triệu tấn với viễn tượng xuất
cảng. Nhờ đó đời sống của nông dân được cải thiện một cách rõ ràng.
Số
điền chủ có ruộng bị truất hữu, cũng được chính phủ giúp đỡ sử dụng vốn
kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, dịch vụ lưu thông hàng hoá
nông sản phẩm, dịch vụ chế biến thực phẩm nông sản, hướng đến việc xuất
cảng bán thành phẩm nông nghiệp, giúp nền kỹ nghệ miền Nam khởi sắc đóng
góp xây dựng nền kinh tế quốc gia.
Có
an cư mới có lạc nghiệp. Ngày nay đất đai thuộc quyền quản lý nhà nước
và cán bộ cộng sản tòan quyền định đọat. Nông dân làm thuê cho guồng máy
cầm quyền không rõ ngày mai ra sao. Bởi thế nông thôn càng ngày càng
suy sụp mọi mặt.
Thể
chế đi ngược lòng dân rồi cũng sẽ bị thay đổi. Bài học từ Chương Trình
NCCR là phải trao lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Chính phủ
tương lai cần thực hiện chương trình bán trả góp đất cho dân để có ngân
sách đầu tư xây dựng lại nông thôn.
Dân có giàu thì nước mới mạnh. Nông dân sẽ luôn là tầng lớp chính của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử đã chứng minh nông dân luôn là nền tảng trong việc bảo vệ và xây dựng quốc gia. Nông dân có giàu thì nước mới mạnh.
0 comments:
Post a Comment