Bởi vì: “tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, các cơ quan Nhà nước, cán bộ,
viên chức Nhà nước có nghĩa vụ phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ
nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của nhân dân” (điều 8 HP 2013).
Một thực tế hiển nhiên, gần như là toàn dân Việt trong và ngoài nước ai
cũng biết, sau khi trắng trợn chà đạp HĐ Paris 1973 dùng súng đạn Nga
Tàu đánh chiếm miền Nam, đảng CSVN vênh váo khoa trương gọi là chống “đế
quốc Mỹ xâm lược” cứu nước, nhưng kết quả nhãn tiền chỉ ra là Mỹ không
có tham vọng một cm2 đất nào của VN mà trên thực địa là hàng ngàn km2
đất đai biên giới Bắc Việt Nam lại lọt vào tay Trung Quốc.!?
Cụ thể mà bất cứ ai cũng nhìn thấy, đó là “Ải Nam Quan” nơi phân định
biên giới Việt-Trung, một trọng điểm chứng tích từng tồn tại 4000 năm
lịch sử giữa hai quốc gia, bên này cửa “ải” là đất nước Nam, bên kia cửa
“ải” là đất phương Bắc thì giờ đây Ải Nam Quan đã “bốc hơi” biến mất mà
vết tích vị trí nền móng cũ lại nằm sâu trong nội địa Trung Quốc? Toàn
bộ sự kiện hao hụt cương thổ ấy diễn ra sau hội nghị “bí mật” tại Thành
Đô/TQ tháng 9/1990 giữa các chóp bu 2 đảng CSVN và CSTQ.
Điều 11/Hiến Pháp Việt Nam qui định:
1) “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
2) Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm
trị.”
Không còn Ải Nam Quan, nên Đất nước Việt Nam giờ đây chỉ từ mũi Cà Mau đến Lũng Cú, Hà Giang.
Vậy thì thất thoát cương thổ quốc gia rành rành như thế đó, “lãnh thổ
không còn toàn vẹn” như xưa dưới sự lãnh đạo nhà nước và xã hội của đảng
Cộng sản Việt Nam, ai phải chịu trách nhiệm? Ai là kẻ cần phải bị
“nghiêm trị”, theo Hiến Pháp khi chủ tâm tương nhượng (hay bán rẻ) chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia!?
Đó là điều rất quan trọng mà toàn dân tộc rất muốn và có quyền “phải được biết”, bởi khẳng định từ Hiến Pháp (2013):
“Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Các cơ quan Nhà nước,
cán bộ, viên chức Nhà nước có nghĩa vụ phải tôn trọng nhân dân, tận tụy
phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền” (điều 8 HP)
Tương tự như vậy khi soi rọi lại quá khứ. Dù Điều thứ 32 Hiến Pháp nước VNDCCH (miền Bắc năm 1946) qui định:
“Những việc gì quan hệ đến vận mệnh, quyền lợi quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”.
Thì liệu lời này của ông Phạm Văn Đồng viết cho ông Chu Ân Lai trong công hàm 1958 như sau: “Chúng
tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý (Chu Ân Lai) rõ: Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố
ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định
về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn
trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách
nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.
“Chi tiết bản tuyên bố ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” có được toàn dân miền Bắc biết đến và phúc quyết theo Hiến Định trước khi Phạm Văn Đồng ký!??.
Cả 2 trường hợp (công hàm 1958 và Hiệp Định Thành Đô 1990) kẻ trước
người sau các chóp bu CSVN bất chấp ý kiến, không đoái hoài đến nhân
dân, nối tiếp cùng một hành vi “vi Hiến” trắng trợn dẫn đến hao hụt
nghiêm trọng cương thổ quốc gia mà toàn dân Việt Nam không hề được “có
quyền biết” dù Hiến Pháp qui định bắt buộc nhà nước phải cho nhân dân
biết, trước khi thừa hành.
Dẫn chứng như vậy để thấy rằng dưới mắt các “chóp bu CSVN” gần trăm
triệu dân Việt chỉ như đàn lừa và giang sơn gấm vóc này là tài sản riêng
của họ.
Không! Không thể im lặng mãi được, chúng ta phải biết những sự kiện “cần
phải biết” mà bản chất của nó diễn ra khác với lẽ thông thường...
Trong mọi tranh chấp, khi “dĩ hòa” không thể là “vi quý” thì cơ quan tài phán là đích đến của mọi nẻo đường công lý.
Tranh chấp Biển Đông. Theo luật quốc tế, giữa các kháng nghị có 1 khoảng
gián đoạn thời gian 50 năm hoặc nhiều hơn mà các đối tượng im lặng thì
những đòi hỏi lãnh thổ trở nên vô hiệu. Hoàng Sa của Việt Nam đã bị
Trung Quốc đánh chiếm 40 năm rồi (1974). Từ đó đến nay CS/Việt Nam chưa
gửi bất kỳ 1 kháng nghị, đơn kiện nào lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ)
và Tòa án Trọng tài Luật Biển (ATLS) thì chỉ còn 10 năm nữa, nếu không
có bất kỳ một kháng nghị hay đơn kiện nào thì theo Luật biển coi như
Việt Nam chấp nhận mất Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa vĩnh viễn về
tay Trung Quốc. Việc Trung Quốc đã ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải
Dương 981 trong EEZ của Việt Nam và đang nỗ lực làm thay đổi hiện trạng
quần đảo Trường Sa cho thấy Việt Nam không thể chần chừ, trì hoãn trong
việc khởi kiện giải quyết tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.
Vì sao vấn đề này, nước láng giềng, CP Philippines bác bỏ đàm phán song
phương tiến hành khởi kiện Trung Quốc gần mười năm qua còn các chóp bu
CSVN thì lại “chung thủy trung thành” với đàm phán song phương và không
khởi kiện TQ!? khi mà 100% công luận, chuyên gia công pháp quốc tế đều
khuyến cáo và khuyến khích VN khởi kiện Trung Quốc tức thì! và vô số học
giả, sĩ phu, yêu nước cảnh báo: “Chúng ta sẽ mắc vào một tội rất lớn đối với dân tộc và nhân dân sẽ không thể nào tha thứ, nếu không khởi kiện”.
Quả là một điều rất “bất bình thường” mà chúng ta gần trăm triệu dân Việt “cần phải biết”.
Lại càng “cần phải biết” hơn nữa khi 90% các nước cộng sản trước kia
trong đó có cường quốc hàng đầu CS/Xô Viết đã từ bỏ CNXH quay về với đa
nguyên tự do dân chủ thì CSVN huy động ngân sách rất lớn của quốc gia
cho một cuộc góp ý sửa đổi Hiến Pháp (2013) không phải để thăm dò hay
xin phúc quyết từ toàn dân về tương lai của thể chế XHCN mà ngược lại
lợi dụng để củng cố thêm điều 4 HP tiếp tục duy trì CS/độc tài toàn trị,
đặt quốc gia Việt Nam vào vị thế là một trong những nước XHCN lẻ loi cô
lập trên 190 quốc gia đa nguyên hay tự do dân chủ trong LHQ!? Thật là
ngược chiều với xu thế chính trị văn minh thế giới! Chúng ta “cần phải
biết” tại sao các chóp bu CSVN duy trì sự nghịch lý này.
Cũng nghịch lý không kém mà toàn dân Việt Nam rất “cần phải biết”.
Một “lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh” mà CSVN tâng bốc đến tận may xanh thì
báo chí quốc tế (polskatimes. Ba Lan) lại điểm danh chỉ mặt HCM là một
trong 13 tên độc tài đẫm máu nhất thế kỷ 20 mà “nhà nước, đảng ta” thì
không có cách gì phản bác được dù có đại sứ quán chính thức tại Ba
Lan!?.
Không phải ngẫu nhiên mà mới đây ngày 2/9 trên một danh sách 20 tướng tá
đảng viên CSVN, công thần một thời của "nhà nước, đảng ta” cùng ký tên
kiến nghị với tư cách là người chủ và người bảo vệ đất nước Nhân dân,
lực lượng vũ trang “phải được biết” (nguyên văn) chính xác hoàn cảnh
thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân
về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về những ký kết liên quan đến lãnh
thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến
an ninh chủ quyền của Quốc gia và về Hội nghị Thành Đô…
Không còn như “một đàn cừu” ngoan ngoãn “Quân đội ta trung với Đảng…” mà
đã thức thời nhận diện vị trí chính xác khẳng định từ câu mở đầu trong
thư kiến nghị: “Chúng tôi là những người lính trọn đời “Trung với Nước, Hiếu với Dân”, luôn trăn trở với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân…”
Rõ ràng đó là chân lý không thể phủ nhận, không có Dân, không có Nước,
không có Tổ quốc thì không có một cái đảng thổ tả nào hiện diện được.
Tuồng như đã rõ, chúng ta 85 triệu đồng bào trong đó có các vị tướng tá
thức thời ấy như chung một chiến hào không chấp nhận thân phận của lớp
người bị trị để cho vài chục kẻ mạo danh khoác áo là “đầy tớ nhân dân”
để cai trị.
Đất nước không của riêng ai, chúng ta “cần phải biết” và có quyền phải
biết tất cả những gì liên quan đến sự thịnh vượng, tồn vong của quốc gia
dân tộc của chính mình và con cháu chúng ta mai sau, chúng ta không cho
phép bất cứ ai núp bóng sau lưng chúng ta “mãi quốc cầu vinh” cho đảng
phái phe nhóm cá nhân con cháu bầy đàn họ.
Sẽ là một bọn lưu manh, bịp bợm nếu họ không bị câm hay điếc khi chúng
ta lên tiếng “chúng tôi cần phải biết” mà họ im lặng thay cho trả lời.
0 comments:
Post a Comment