CHU TẤT TIẾN
. Một trong những tội ác lớn nhất mà
Đảng Cộng Sản Việt Nam thực hiện trên đất nước Việt Nam là
tội hủy hoại môi trường sống không những của Con Người mà còn
mạng sống của chim, muông, các loại trên đất, trên không và dưới
nước. Đây không phải là một tình trạng xẩy ra do sự lơ là,
bất tài của lãnh đạo, mà là một âm mưu thâm độc của Nhà
Nước. Vì lúc nào cũng sợ bị lật đổ khỏi những ngai vàng của
mình xây dựng từ xương máu của hơn 3 triệu người Việt đã chết
trong các cuộc chiến từ 1930 đến 1975, nên nhóm cầm quyền muốn
để dân chúng lúc nào cũng sống trong thảm họa môi trường, hãi
hùng với bệnh tật gây ra bởi môi trường độc và bẩn. Khi mà
suốt ngày nơm nớp lo âu, đau bệnh và căng thẳng toan tính cho
việc ăn uống, sinh hoạt, thì người dân Việt sẽ không còn tinh
thần mà truy ra kẻ chủ mưu đã tạo ra môi trường độc hại cũng
như tình trạng túng đói đó. Điều này có thể chứng minh bằng
vụ kiện chất độc Da Cam do nhà cầm quyền dàn dựng, đòi Mỹ
bồi thường cho một số trường hợp mà họ cho rằng do hiệu quả
của chất độc Da Cam mà Mỹ đã thả xuống rừng già trước đây.
Trong khi nhà cầm quyền dựng lên cả một chiến dịch rầm rầm rộ
rộ, hô hào bằng những danh từ đao to, búa lớn, chống đối Mỹ
thả chất độc gây ra cho một số người ít ỏi từ nhiều năm
trước, thì họ lại làm lơ việc cả một giải đất Tổ Quốc hiện
tại đã và đang bị nhiễm độc từ trên không xuống dưới mặt đất
và dưới nước! Trước 1975, họ có thể đổ thừa cho chiến tranh,
nhưng từ 1975 đến nay, đã hơn 30 năm, họ vẫn bỏ những chất vấn
của dân chúng về vấn đề môi trường vào sọt rác, cho dù họ
biết rõ những tác hại khủng khiếp của chúng. Vậy sự hủy
hoại môi trường có nằm trong “âm mưu diệt chủng” của nhà cầm
quyền Cộng Sản Việt Nam hay không?
Trong cuốn “Những Vấn Đề Môi Trường Việt
Nam”, xuất bản năm 2010, của tác giả Mai Thanh Truyết, Tiến Sĩ
Hóa Học, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Hội Khoa Học Kỹ Thuật
Việt Nam tại Hoa Kỳ, với 480 trang giấy, ông đã viết về những
thảm họa môi trường ở Việt Nam, nếu không có những biện pháp
khẩn cấp ngăn chặn và điều chỉnh, thì môt tương lai u ám của
Việt Nam sẽ xẩy đến môt ngày không xa: cạn kiệt nguồn nước,
“ngập mặn do hạn hán kéo dài, trong khi hệ sinh thái sẽ bi hủy
diệt do ô nhiễm” (tr. 54). Theo ông, “nguy cơ ô nhiễm ngày càng
tăng dần, và cho đến hôm nay, có thể nói rằng tình trạng ô
nhiễm trên những dòng sông Việt Nam đã tăng cường độ kinh khủng
và không còn phương cách nào cứu chữa được nữa”(tr. 48). Ngoài
ra, ông còn cho biết vấn nạn nhiễm độc Arsenic trong các nguồn
nước ở Việt Nam cùng với việc ô nhiễm mặt đất, ô nhiễm không
khí, nhất là việc Nhà Nước cho tự do nhập cảng chất phế thải
độc hại vào Việt Nam là một thực tế đáng sợ, sẽ đem đến cho
người dân Việt những tai họa không thể lường trước được.
1- Ô nhiễm nước thải và ô nhiễm sông, kinh rạch:
Theo bản tin trên báo điện tử http://betid.com.vn/News/?ID=1051&CatID=54, cập nhật lúc: 07:52:56 AM | 08/09/2012:
“TP.HCM có khoảng 3.000 km hệ thống sông,
kênh, rạch với mật độ dày đặc... Thời gian qua, tình trạng thi
công lấn chiếm và vứt rác bừa bãi, xả nước thải sản xuất
của các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa qua xử lý xuống lòng
kênh, rạch rất nhiều làm lòng kênh bị co hẹp, cản trở dòng
chảy, gây ô nhiễm nặng nề sông, kênh, rạch.”
Cũng bản tin này cho biết nguyên nhân chính
là do nhiều năm liền công tác quản lý môi trường chưa được
chặt chẽ, sản xuất công nghiệp chưa chấp hành nghiêm… Trên hết,
việc triển khai nạo vét khơi thông dòng chảy lại chưa được các
cơ quan chức năng đầu tư đúng mức. Bản tin trên cho biết:
“Theo Trung tâm chất lượng nước và môi
trường - Phân viện quy hoạch khảo sát thủy lợi Nam bộ, nước
tại hệ thống kênh, rạch tại TP.HCM đều bị ô nhiễm nặng. Các
thành phần như: BOD5 (nhu cầu oxy sinh học), COD (nhu cầu oxy hóa
học), chỉ tiêu vi sinh (coliform), hàm lượng chất lơ lửng (SS),
kim loại nặng... vượt tiêu chuẩn gấp nhiều lần cho phép. Điển
hình như các kênh Thầy Cai, An Hạ (huyện Củ Chi); kênh B, C
(huyện Bình Chánh); kênh Bà Búp, Trần Quang Cơ (huyện Hóc Môn);
kênh Tân Trụ, Hy Vọng (quận Tân Bình)... nước có màu nâu đen,
mùi hôi rất nặng, nhiều chỉ tiêu đều vượt tiêu chuẩn cho phép.
Các kênh, rạch bị xả rác nhiều như: rạch Bà Tiếng, Bà Lựu,
kênh Liên Xã (quận Bình Tân); rạch Bình Thái, rạch Nhỏ, Cầu
Miếu (quận Thủ Đức); rạch Ông Đội nhánh 1, rạch Bến Ngựa, Bà
Bướm (quận 7). Đặc biệt trên kênh Tân Trụ và kênh Hy Vọng, không
những lòng kênh bị xả nhiều rác thải mà còn bị xả thải bởi
phân gia súc, dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng nề.”
Đó mới chỉ là những đề tài nói đến
chung quanh thành phố Saigon mà thôi, còn Biên Hòa, Đồng Nai,
miền Bắc, miền Trung… việc nhiễm độc nặng đến nỗi tôm, cá
chết nổi trắng trên mặt nước làm nghẹt lưu thông.. Các sông
Cầu, sông Nhuệ - Đáy, sông Đồng Nai và hệ thống sông Tiền và
sông Hậu ở Tây Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long đều bị nhiễm
độc. Những con sông này đã trở nên những “dòng sông bệnh”, tôm
cá chêt hàng loạt, nước uống vào sẽ sinh ra những căn bệnh kỳ
quái mà thế kỷ 20 chưa bao giờ có, như bệnh vẩy cá (người rơi
rụng vẩy ra từng dúm), bệnh phù nề, dị dạng...
2- Về nguồn tài nguyên Rừng
ói
về tài nguyên “Rừng”, với sự thả lỏng cho Lâm Tặc và các Cán
Bộ, “lâm tặc” được tự do chặt đốn cây quý để làm giầu cho Tư
Bản Đỏ là các Quan cấp Tỉnh và Trung Ương. Thỉnh thoảng, có
vài bản tin cho biết “lâm tặc hành hung cả Kiểm lâm, đập phá
trạm. Tuy nhiên, theo dư luận địa phương, thì việc lâm tặc hoành
hành, đập phá trạm chỉ là màn kịch để xóa sổ những việc
chính quyền địa phương cấu kết với lâm tặc để phá rừng, bán
gỗ làm giầu. Có những Tỉnh Ủy xây dựng lâu đài toàn bằng gỗ
quý, trị giá vài triệu đô la. Nhiều cán bộ gộc cũng đua nhau
làm nhà sàn bằng gỗ để nghỉ mát. Do đó, nếu tính từ năm
1975, diện tích rừng có 9,5 triệu ha (chiếm 29%), đến nay chỉ
còn khoảng 6,5 triệu ha (tương đương 19,7%). Với mức độ phá rừng
không chậm lại, thì chỉ chừng thập niên nữa, nước ta sẽ có
thể tới hơn 50% là sa mạc.
“Độ che phủ của rừng nước ta đã giảm sút
đến mức báo động. Chất lượng rừng ở các vùng còn rừng bị
hạ xuống mức quá thấp. Trên thực tế chỉ còn khoảng 10% là
rừng nguyên sinh. 40 năm trước đây, 400.000 ha đất ven biển nước ta
được bao phủ bởi rừng ngập mặn, nhưng chỉ trong 5 năm, 2006 -
2011, 124.000 ha rừng ngập mặn ven biển đã biến mất để nhường
chỗ cho các ao tôm, ao cá - tương đương diện tích bị mất trong 63
năm trước đó. Rừng ngập mặn trưởng thành rộng lớn ở vùng
châu thổ sông Hồng hầu như đã bị tàn phá. Hệ lụy kéo theo là
sự giảm sút mạnh của năng suất nuôi trồng thủy sản ven biển
và sự mất cân bằng môi trường sinh thái.
Trong vòng hơn 1 thập niên, tính cho đến
cuối năm 2012, có hơn 20.000 ha rừng tự nhiên bị phá để sử dụng
vào nhiều mục đích, nhiều nhất là để làm thủy điện. Trong ba
năm, hoạt động khai thác sắt, ti-tan khiến các khu vực, rừng
ven biển từ Nghệ An, Quảng Bình, Ninh Thuận, Bình Thuận… bị
tàn phá nghiêm trọng. Rừng mất đi và dân làng biển đang phải
đối mặt bão, lũ, gió cát, và một tương lai sống trên đất cằn
khô sỏi đá. Trong một hành động che mắt thế gian, nhà cầm
quyền đã cho trồng bù lại, nhưng đổi cho 20,000 héc ta mất mát,
người ta chỉ mới trồng bù được hơn 700 héc ta. Mà những héc
ta này, dưới sự làm việc tham nhũng của cán bộ, thì thực tế,
khó mà đoán được bao nhiêu héc ta sống sót. Kinh nghiệm cho
thấy, nhiều chiến dịch trồng cây, gây rừng, chỉ có tiếng thanh
la, trống, phách, hò hét, nhưng trồng 10 cây thì chết 9 vì
thiếu nước và vì trồng cầm chừng, hố đào nông, chỉ một gang
tay.
3- Về hệ sinh thái thực vật và động vật:
ua
vấn đề hệ sinh thái thực vật và động vật, gồm các chủng
loại thú rừng, thú hiếm, chim, cá, thật sự đã bước qua ngưỡng
cửa của sự tuyệt chủng. Bài báo trên cho biết thế giới thừa
nhận Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng sinh học
vào nhóm cao nhất thế giới. Với các điều tra đã công bố,
Việt Nam có 21.000 loài động vật, 16.000 loài thực vật, bao gồm
nhiều loài đặc hữu, quý hiếm. Tổ chức vi sinh vật học châu Á
thừa nhận Việt Nam có không ít loài vi sinh vật mới đối với
thế giới. Thế nhưng: “trong 4 thập kỷ qua, theo ước tính sơ bộ
đã có 200 loài chim bị tuyệt chủng và 120 loài thú bị diệt
vong. Và, mặc dù có vẻ nghịch lý nhưng có một thực tế là
các trang trại gây nuôi động vật hoang dã như nuôi những loài
rắn, rùa, cá sấu, khỉ và các loài quý hiếm khác vì mục
đích thương mại ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á lại không hề
làm giảm bớt tình trạng săn bắt động vật hoang dã trong tự
nhiên, mà thậm chí còn làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn bởi
những trang trại này đã liên quan tới các hoạt động buôn bán
trái phép động vật hoang dã.
Tiến sĩ Elizabeth L. Bennett, Giám đốc
Chương trình Giám sát nạn săn bắt và buôn bán động vật hoang
dã của Hiệp hội Bảo tồn động vật hoang dã, cho biết: “Thay vì
hoạt động nhằm mục đích bảo tồn, các trang trại gây nuôi động
vật hoang dã lại vì mục đích thương mại nên trên thực tế trở
thành mối đe dọa với các loài động vật hoang dã trong tự
nhiên. Các phân tích từ những báo cáo cho thấy tác động tiêu
cực của các trang trại này lớn hơn rất nhiều so với những ích
lợi mà chúng có thể đem lại”. Thậm chí, những trang trại gây
nuôi các loài sinh trưởng nhanh với tỷ lệ sinh sản cao cũng tác
động tiêu cực đến công tác bảo tồn vì những trang trại này
liên tục nhập khẩu các loài động vật có nguồn gốc tự nhiên…
Tại các vùng gần rừng như Di Linh, Đức
Trọng, Ban Mê Thuột, Pleiku, Định Quán, các tỉnh miền Trung gần
Trường Sơn, nhiều cửa hàng bán thịt rừng mọc lên như nấm. Tuy
có nghị định cấm săn bắt thịt rừng, nhưng theo một bài báo
mạng, thì hàng tháng, mỗi cửa hàng tiêu thụ cả tấn thịt
rừng. Những ông khách Cối Cán lớn muốn ăn con gì đặc biệt,
thì phải đặt hàng, và nội trong ngày, cửa hàng sẽ cho người
làm thịt đúng con thú ấy cho các Ngài xơi. Đau lòng hơn là
trong khi tuyệt diệt các động vật quý hiếm, cũng như tiêu diệt
các thú rừng nguyên thủy, thì nhà nước lại cho nhập vào những
thú nguy hiểm:
“Hơn 100 loài sinh vật ngoại lai đang hiện
diện tại nước ta cũng là mối nguy lớn cho môi trường sinh thái,
như: ốc bươu vàng, cây mai dương, bọ cánh cứng hại dừa, đặc
biệt là việc nhập khẩu 40 tấn rùa tai đỏ - một loài đã được
quốc tế cảnh báo là một trong những loài xâm hại nguy hiểm.”
Ngoài ra, mới đây, người ta còn tìm thấy một loại cá nhỏ nhưng
hung dữ hơn cá cọp, cứ tìm ăn tất cả mọi loại cá khác, dù
to hơn mình gấp chục lần. Chỉ cần vài con cá quỷ này thì cả
hồ nuôi tôm, cá sẽ bị mất trắng trong một thời gian ngắn.
4- Về chất thải rắn, chất thải công nghiệp:
Chất
thải rắn là những chất thải khó phân hủy, vừa chiếm diện
tích đất, vừa tạo ra những bãi rác mang nguồn bệnh khủng
khiếp.Theo tin báo CS,hiện có hơn 1,000 con tầu có trọng tải
lớn nhưng cũ nát đang neo vật vờ ở các cửa sông, nếu phá dỡ,
sẽ đem lại một số rác khổng lồ, không biết tiêu thụ vào đâu.
Những con tầu này, một phần do các tư bản đỏ mua về để chuyên
chở, nhưng vì thiếu khả năng hoặc vì tham lam, nên mua nhầm tầu
phế thải, môt phần là do Vinasin, công ty của nhà cầm quyền,
muốn rút tiền của nhân dân làm của mình, nên đã đi mua bừa bãi
về để xù đi những vụ thiệt hại công quỹ khổng lồ cả ngàn
triệu đô la.
“Nhiều dự án luyện, cán thép lớn đã,
đang và sẽ xuất hiện, hứa hẹn đưa Việt Nam trở thành nước
xuất khẩu thép lớn, song đồng thời cũng có nguy cơ biến Việt
Nam thành nơi tập trung “rác” công nghệ và chất thải. Bài học
“xương máu” này đã từng xảy ra với ngành sản xuất xi măng, song
vẫn có khả năng lặp lại nếu những dây chuyền luyện gang, thép
bị loại bỏ ở Trung Quốc được đưa về lắp đặt ở Việt Nam… Kết
quả điều tra năm 2006 cho thấy, khu vực nông thôn thải ra khoảng
10 triệu tấn/năm chất thải rắn sinh hoạt, nhưng đến năm 2010 tăng
lên tới 13,5 triệu tấn/năm. Số rác thải này cộng với lượng
chất thải từ sản xuất nông nghiệp đã khiến cho tình trạng ô
nhiễm môi trường ở khu vực nông thôn ngày càng trở nên đáng lo
ngại.”
Người Việt từ hải ngoại vào trong nước,
không ai không biết là tình trạng sử dụng phân bón và thuốc
bảo vệ thực vật trong trồng trọt một cách tràn lan, không có
kiểm soát đã gây ô nhiễm môi trường đất, nước. Hiện nay, lượng
thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục được phép sử dụng, quá
hạn sử dụng còn tồn đọng cần tiêu hủy là hơn 700 kg (dạng
rắn) và hơn 3.400 lít (dạng lỏng). Tại chợ Kim Biên, do Tầu làm
chủ phần lớn, có bán đủ loại chất hóa học ma quỷ, để làm
tất cả mọi công việc, làm phân bón, làm cho trái cây, rau cải
tăng trọng nhanh như điện, cho vào đồ ăn, thức uống, nấu nướng
từ phở, hủ tiếu, đến bún bò…Tất cả những chất độc này đều
có chứa những yếu tố gây ung thư cho người, nhưng vẫn được nhà
nước cho thông qua, vì đã nhận tiền của bọn giết người thâm
hiểm kia rồi. Nhiều ruộng vườn, nếu thử chất độc Dioxin thì
sẽ thấy tỷ lệ Dioxin này cao gấp nhiều lần chất Da Cam ngày
xưa mà Mỹ thả xuống rừng hoang.
“Một khảo sát mới đây của Viện Khoa học
và Công nghệ Môi trường (Đại học Bách khoa Hà Nội) và Bộ Khoa
học và Công nghệ cho thấy, 100% mẫu nước thải ở các làng nghề
đều cho thông số ô nhiễm vượt tiêu chuẩn cho phép. Riêng Hà
Nội, khảo sát tại 40 xã cho kết quả khoảng 60% số xã bị ô
nhiễm nặng từ các hoạt động sản xuất… Ở các làng tái chế
kim loại, khí độc không qua xử lý đã thải trực tiếp vào không
khí như ở làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên), nồng độ
chì vượt quá 2.600 lần tiêu chuẩn cho phép. Nghề thuộc da, làm
miến dong ở Hà Tây cũng thường xuyên thải ra các chất như bột,
da, mỡ làm cho nước nhanh bị hôi thối, ô nhiễm nhiều dòng sông
chảy qua làng nghề.
Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu
khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động gần đây cho biết, trong các
làng nghề, những bệnh mắc nhiều nhất là bệnh liên quan đến hô
hấp như viêm họng chiếm 30,56%, viêm phế quản 25% hay đau dây thần
kinh chiếm 9,72%. Tại làng nghề tái chế chì Đông Mai, tỷ lệ
người dân mắc bệnh về thần kinh chiếm khoảng 71%, bệnh về
đường hô hấp chiếm khoảng 65,6% và bị chứng hồng cầu giảm
chiếm 19,4%. Còn tại làng nghề sản xuất rượu Vân Hà (Bắc
Giang) tỷ lệ người mắc bệnh ngoài da là 68,5% và các bệnh về
đường ruột là 58,8%.”
Với chất độc đầy dẫy trong không khí,
trong nước, trong đất, trong thực phẩm như thế, số người dân mắc
bệnh lạ càng ngày càng gia tăng. Bệnh thông thường như lao
phổi, dị ứng, viêm phế quản thì tràn lan. Cho nên, bệnh viện
nào cũng quá tải. Bệnh nhân thường phài nằm chung 2 người một
giường, có khi 3 em nhỏ. Các bệnh nhân khác phải nằm đất, ngay
chỗ các bệnh nhân nằm trên tiểu, ho xuống. Có những bệnh nhân
mà phải căng lều ngủ bên hè phòng khám hoặc ngay hành lang
bệnh viện, nơi người đi qua đi lại, xả rác, khạc đờm…
Theo Tin Mới / Nguoiduatin.vn:
“Tại
Thành phố Hồ Chí Minh, nồng độ chất ô nhiễm trong không khí
khu vực ven đường giao thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44
lần và bụi PM10 (tức bụi có kích thước bé hơn 10µ) tăng 1,07
lần. Kênh rạch ở khu vực nội thành bị ô nhiễm hữu cơ và vi
sinh ở mức độ cao. Phần lớn nước thải sinh hoạt chỉ mới được
xử lý sơ bộ qua bể tự hoại gia đình. Nhiều nhà máy, cơ sở
sản xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải, hoặc nếu có trang
bị thì không vận hành thường xuyên… Ông Jacques Moussafir, công ty
ARIA Technologies (Pháp) cho biết: Nếu không có biện pháp nào
thì nồng độ phát thải bụi mỗi năm tại Hà Nội có thể đạt
200mg/m3 vào năm 2020, gấp 10 lần mức khuyến cáo của Tổ chức Y
tế thế giới. Nếu tình huống này xảy ra thì số lượng người
nhiễm bệnh do ô nhiễm không khí sẽ tăng gấp đôi vào năm 2020.
Nguy cơ mắc bệnh viêm phế quản cấp và mạn tính, hen suyễn, vấn
đề tim mạch sẽ tăng gấp đôi, đặc biệt là với trẻ nhỏ và
người già.”
Chỉ với một số thông tin trên, chúng ta đã
thấy tình trạng môi trường ở Việt Nam đang ở vào trong một
giai đoạn nguy kịch đáng cho vào Kỷ Lục Guiness về “Chính sách
của nhà nước: Bỏ rơi và Giết Dân bằng độc dược”. Tuy môi
trường nhiểm độc cực kỳ nguy hiểm và với số người dân bệnh
hoạn như thế, mà sau 27 năm thống nhất, mãi đến năm 2002, mới
có những văn bản thành lập chính thức Bộ Tài Nguyên và Môi
Trường: Ngày 5 tháng 8 năm 2002 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ nhất thông qua Nghị
quyết số 02/2002/QH11 thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Đến ngày 11 tháng 11 năm 2002 Chính phủ ban hành Nghị định số
91/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Trên thế giới, từ xưa
đến nay, chưa có một quốc gia nào mà có nhóm lãnh đạo thờ ơ
với sinh mạng của dân chúng đến như vậy! Thật kinh hoàng!
2- Những ghi nhận từ phía nhà cầm quyền:
Theo “tusach.thuvienvietnam.com/wiki” về “Những vấn đề môi trường hiện nay của Việt Nam”:
“Chính phủ Việt Nam được sự giúp đỡ của
các tổ chức Quốc tế đã xác định 8 vấn đề môi trường bức
bách nhất cần được ưu tiên giải quyết là:
Nguy cơ mất rừng và tài nguyên rừng đang đe
doạ cả nước, và trong thực tế tai hoạ mất rừng và cạn kiệt
tài nguyên rừng đã xảy ra ở nhiều vùng, mất rừng là một thảm
hoạ quốc gia.
Sự suy thoái nhanh của chất lượng đất và
diện tích đất canh tác theo đầu người, việc sử dụng lãng phí
tài nguyên đất đang tiếp diễn.
Tài nguyên biển, đặc biệt là tài nguyên
sinh vật biển ở ven bờ đã bị suy giảm đáng kể, môi trường
biển bắt đầu bị ô nhiễm, trước hết do dầu mỏ.
Tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước,
tài nguyên sinh vật, các hệ sinh thái v.v... đang được sử dụng
không hợp lý, dẫn đến sự cạn kiệt và làm nghèo tài nguyên
thiên nhiên.
Ô nhiễm môi trường, trước hết là môi
trường nước, không khí và đất đã xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều
lúc đến mức trầm trọng, nhiều vấn đề về vệ sinh môi trường
phức tạp đã phát sinh ở các khu vực thành thị, nông thôn.
Việc gia tăng quá nhanh dân số cả nước, sự
phân bố không đồng đều và không hợp lý lực lượng lao động
giữa các vùng và các ngành khai thác tài nguyên là những vấn
đề phức tạp nhất trong quan hệ dân số và môi trường.
Thiếu nhiều cơ sở vật chất - kỹ thuật,
cán bộ, luật pháp để giải quyết các vấn đề môi trường, trong
khi nhu cầu sử dụng hợp lý tài nguyên không ngừng tăng lên, yêu
cầu về cải thiện môi trường và chống ô nhiễm môi trường ngày
một lớn và phức tạp.”
Về hiệu quả của việc môi trường bị nhiễm
độc, cũng bài báo trên đã nêu rõ là tình trạng ô nhiễm môi
trường, cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại các giống loài, ảnh
hưởng xấu sức khoẻ con người là cái giá phải trả cho quá
trình tự do hóa thương mại mới được tiến hành chỉ trong vòng
thập niên trở lại đây. Bài báo đó còn cho biết việc xếp hạng
quốc tế như sau:
“Theo đánh giá mới đây của Ngân hàng thế
giới tại Việt Nam, với 59 điểm trong bảng xếp hạng chỉ số
hiệu quả hoạt động môi trường, Việt Nam đứng ở vị trí 85/163
các nước được xếp hạng. Các nước khác trong khu vực như
Philippines đạt 66 điểm, Thái Lan 62 điểm, Lào 60 điểm, Trung
Quốc 49 điểm, Indonesia 45 điểm,... Còn theo kết quả nghiên cứu
khác vừa qua tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos, Việt Nam nằm
trong số 10 quốc gia có chất lượng không khí thấp và ảnh
hưởng nhiều nhất đến sức khỏe. …. Mới đây, hai trung tâm nghiên
cứu môi trường thuộc Đại học Yale và Columbia của Mỹ thực hiện
báo cáo thường niên khảo sát ở 132 quốc gia. Kết quả nghiên
cứu cho thấy: Về ảnh hưởng của chất lượng không khí, Việt Nam
đứng thứ 123/132 quốc gia khảo sát; về ảnh hưởng của môi
trường đến sức khỏe đứng vị trí 77; về chất lượng nước Việt
Nam được xếp hạng 80. Tính theo chỉ số chung EPI, Việt Nam xếp
thứ 79…”
Để kết luận, xin gừi một đoạn văn ngắn
của nhà báo Minh Diện, trong bài viết “Những Mảnh Ghép Vênh
Vẹo” trên blog Bùi Văn Bồng đã kể nhiều chuyện “vênh vẹo” khi
về thăm quê ở Miền Trung, trong đó có ghi lời anh Lưu, cựu Hiệu
trưởng một trường phổ thông trung học, khi đưa nhà báo Minh Diện
thăm dòng sông Cô Giang.
“Dòng sông này chảy qua mấy thôn trong xã,
ngày xưa nước trong xanh, giờ đổi màu đen kịt. Ông Lưu nói, nước
đổi mầu mấy năm nay rồi, từ khi xuất hiện cái nhà máy cán
thép Chen-Lee của người Trung Quốc. Cái nhà máy ấy, ban ngày
cách xa khoảng nửa cây số có thể nhìn thấy ba ống khói màu
nâu đậm nhô lên trên các mái tôn hoen rỉ, nhả khói đen xì, còn
ban đêm, cách vài cây số cũng nhìn thấy từng quầng lửa đỏ rực
bốc cao lên trời. Ngày ngày những chiếc xe Container, xe tải
bịt kín ra vào nhà máy. Những con đường bị vằm nát, khói bụi
mù mịt. Người dân quanh vùng chỉ biết cái nhà máy của Trung
Quốc , trên đất đai tổ tiên ông bà mình như vậy!... Theo bà con
quanh khu vực, năm năm trở lại đây số người mắc bệnh ung thư
ruột, ung thư gan trong thôn tăng đột biến. Chỉ trong năm 2012 đã
có mười người ở hai thôn Cổ Lạc và Mỹ Lạc tử vong vì ung thư.
Phải chăng do bà con uống nước sông Cô Giang bị nhiễm chất độc
từ nhà máy cán thép Chen – Lee thải ra?... Tôi gặp Quân, một
công nhân trẻ từng làm việc ở nhà máy Chen-Lee. Nước da xanh
xám, hai mắt lõm sâu, Quân dè dặt nói với tôi: “Tuy làm việc
cho nhà máy ấy gần 5 năm, nhưng cháu chỉ là công nhân khuân vác
vòng ngoài, phải qua ba vòng, ba trạm gác mới vào vòng trong.
Chưa bao giờ cháu dám bén mảng tới đó. Bọn bảo vệ người Trung
Quốc sẵn sàng dùng dùi cui cao su đánh vào đầu công nhân Việt
nếu vô tình xâm phạm vùng cấm. Theo cháu biết thì không có bất
kỳ công nhân Việt Nam nào được lọt vào vòng trong. Ở đó toàn
công nhân Trung Quốc đầu trọc. Chúng được tuyển chọn, đưa từ
Trung Quốc sang. Hầu hết có vợ con, thành lập một khu tập thể,
treo cờ Trung Quốc, cấm người Việt lai vãng… Quân nói với
chúng tôi: “Nó chở phế liệu từ Trung Quốc sang, nấu nhôm, sắt
thành phẩm chở về Trung Quốc, còn các chất phế thải đổ hết
xuống sông…” (bongbvt.blogspot.com/)
Đau lòng thay cho Việt Nam, dưới sự lãnh
đạo “thiên tài” của Đảng Cộng Sản, “sợi chỉ đỏ xuyên suốt”,
không bao giờ lầm lẫn, đang bước dần vào Ngày Tận Thế dành
riêng cho dân Việt. Nếu không làm cách mạng, lật đổ hàng
ngũ lãnh đạo vô lương, vô tâm, vô cảm này, thì nhất định ngày
tàn của Việt Nam không xa.
Chu Tất Tiến.
0 comments:
Post a Comment