X là giáo viên dạy ngoại ngữ ở một trường phổ thông nọ. Vốn tháo vát
nên anh được hiệu trưởng bớt giờ dạy để đảm nhận việc mua sắm, hợp đồng
sửa chữa các thiết bị lặt vặt trong các phòng học. Bận bịu suốt ngày, bị
đòi nợ gấp phải bỏ cả tiền túi ra để trả thay cho trường như cơm bữa.
Nhưng vẫn bị giáo viên trong trường gọi đùa ác ý là “X dự án”. Ám chỉ đã
bớt xén khi mua sắm, hưởng phần trăm các hợp đồng sửa chữa. Ám chỉ này
xuất phát từ thực trạng khá phổ biến của các dự án do chính quyền các
cấp, trung ương quản lý, thực hiện trong vài chục năm gần đây.
Ai đã là dân ở đô thị thì chắc chắn phải có nhiều phen “khiếp vía kinh
hồn” vì các dự án “đào đường”, “làm đường” không rõ của công ty nào chỉ
thấy lâu lâu lại đào, lâu lâu lại lấp… tưởng như không bao giờ dứt, giải
tỏa đất rồi mà mãi không hoàn thành đường. Hậu quả bụi bặm, ổ voi, ổ
gà, tai nạn giao thông quanh năm người dân đô thị và những người qua lại
lãnh đủ. Cái lý do tại sao người ta “khỏe” “đào đường”, “làm đường” thế
cũng được giải thích theo nhiều cách. Chính quyền thì cho là quy hoạch
thiếu đồng bộ... Người dân thì cho là cứ “đào lên lấp xuống” là cán bộ
có tiền, được chấm mút, xà xẻo… giải thích này có vẻ hợp lý hơn .
Khi có vài chục triệu, vài trăm triệu tiền đền bù để mua sắm các tiện
nghi đắt tiền, xây dựng nhà cửa người nông dân những tưởng “đổi đời”.
Đâu ngờ sau đó là mất đất, thất nghiệp ngay trên quê hương của mình, đối
diện với nạn ô nhiễm môi trường và các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều ở
các vùng nông thôn hiện nay. Đó là hậu quả phổ biến của các dự án giải
tỏa đất nông nghiệp để quy hoạch xây dựng khu công nghiệp mà chính quyền
rất sốt sắng lập ra để hưởng lợi từ giá đất chênh lệch.
ODA viết tắt của cụm từ Official Development Assistance có nghĩa là hỗ
trợ phát triển chính thức, là một hình thức đầu tư nước ngoài. Tiền hay
vốn ODA là khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian
vay dài nên còn gọi là viện trợ. Mục đích của nó là phát triển kinh tế
và nâng cao phúc lợi ở nước được cho vay là các nước chậm phát triển.
Tất nhiên còn có những mục đích khác nữa của nước cho vay. Dự án ODA là
dự án nhà nước sử dụng số tiền vay trên của nước ngoài vào mục đích phát
triển của đất nước. Quan niệm vốn ODA như “chùm khế ngọt” cộng với cơ
chế quản lý lỏng lẻo, các quan chức nhà nước - những người quản lý số
tiền này - đã ra sức “trèo hái suốt ngày”. Điển hình là hai vụ tham
nhũng khổng lồ PMU18 và PCI. Một thực tế thường thấy là những công trình
xây bằng vốn ODA thường mau chóng xuống cấp, hư hỏng vì một số lượng
không nhỏ trong số tiền vay trên đã chui vào túi của bọn quan tham.
Dự án xây dựng ồ ạt hàng loạt các nhà máy thủy điên ở miền Trung với mục
đích “phục vụ dân sinh” nhưng thực chất chỉ vì lợi ích của ngành điện
mà không đếm xỉa tới những thảm họa mà dân trong vùng phải chịu. Mùa khô
ngành điện chỉ lo tích nước cho các hồ để bán điện, bỏ mặc vùng hạ lưu
bị hạn. Mùa mưa lũ các hồ là những túi nước khổng lồ treo lơ lửng trên
đầu dân đặc biệt khi có bão, lũ sợ vỡ đập chúng lại đồng loạt xả nước
làm lũ to thêm. Hàng trăm sinh mạng của người dân miền Trung bị tước đi
trong mùa mưa lũ các năm vừa qua được xác minh là có sự tiếp tay của các
hồ thủy điện.
Vào cuối năm 2008 đầu 2009 đã xảy ra một cuộc tranh luận là nên hay
không nên tiến hành dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên hình thành hai
phe. Một bên là đảng, nhà nước là người đề xuất tất nhiên là tán thành
và tìm mọi cách để thực hiện. Những người không tán thành là những trí
thức tâm huyết, yêu nước, một số lão thành cách mạng, những người dân am
hiểu hiện tình đất nước… có cả nhiều đại biểu quốc hội. Dù nắm trong
tay tất cả các phương tiện truyền thông quốc doanh để cổ vũ, tuyên
truyền thậm chí còn đứng trên cả pháp luật để giành lấy “lẽ phải”, đảng
và nhà nước vẫn không sao ngăn được làn sóng phản đối “dự án khai thác
bauxite ở Tây Nguyên”. Trang mạng bauxite không đủ chỗ cho danh sách ký
tên phản đối dự án, giữ kỷ lục về số lượng người truy cập hơn gấp nhiều
lần các báo mạng của “lề đảng”. Danh sách ký tên có đủ mọi thành phần,
lứa tuổi. Một khảo sát của “báo dân trí” cho biết 93% người được hỏi
không tán thành dự án này. Tưởng rằng như vậy “dự án khai thác bauxite ở
Tây Nguyên” phải dừng lại. Nhưng bất chấp. “Dự án khai thác bauxite ở
Tây Nguyên” vẫn được tiến hành bởi “đây là chủ trương lớn của đảng”, còn
các tầng lớp phản đối bị chụp mũ là “các lực lượng thù địch”. Tới nay,
sau 5 năm chân lý đã nghiêng về phe phản đối. Nhưng thật trớ trêu. Sự
thật làm sáng tỏ chân lý đó lại là một bi kịch, báo trước một thảm họa
trong tương lai cho Việt Nam: Số tiền lỗ đã lên tới hàng chục ngàn tỷ
đồng và còn tiếp tục gia tăng theo tời gian, hàng trăm ngàn hecta đất
rừng bị triệt hạ hoàn toàn, Trung Quốc đã hoàn tất việc ém quân đội dưới
lốt công nhân ở địa bàn chiến lược Tây Nguyên, thầy giáo Đinh Đăng Định
một trong những người phản đối đã bị bắt giam, bị hành hạ, nghi là bị
đầu độc đã chết sau khi chính quyền trả về cho gia đình để giũ bỏ trách
nhiệm.
Có lẽ nhận thấy một chân lý “không có gì kiếm tiền nhanh bằng lập dự án”
nên các ngành các địa phương đua nhau lập các dự án bất kể lợi hại cho
địa phương mình miễn là cán bộ có tiền bỏ túi. Dự án muốn được giải ngân
để thực hiện phải có phê duyệt. Muốn được thực hiên “trôi chảy” phải có
giám sát. Dự án nhỏ cán bộ cấp nhỏ phê duyệt, dự án to cán bộ cấp to.
Nên sau khi lập, các chủ dự án phải hối lộ cho các cán bộ phê duyệt, quá
trình này gọi là chạy dự án. Sau khi được duyệt là tiếp tục cho cán bộ
giám sát. Như vậy chẳng phải chỉ những kẻ lập thích có dự án mà cả những
cán bộ duyệt, giám sát dự án cũng thích có để có tiền. Các khoản hối lộ
này đều lấy từ vốn để thực hiện dự án. Đó là những nguyên nhân của thất
thoát, tham nhũng, hối lộ, lãng phí, công trình kém chất lượng khi thực
hiện các dự án. Dẫn tới thực trạng Việt Nam ngày nay: Ô nhiễm môi
trường, tài nguyên cạn kiệt... cả nước bừa bãi như một công trường, nợ
nước ngoài như “chúa Chổm”, có đội ngũ dân oan khổng lồ. Cũng không quá
đáng khi nói rằng: nhiều dự án đã gây ra thực trạng đó đúng hơn là những
kẻ đề xuất để kiếm lợi từ chúng.
“Tặc” là từ Hán - Việt, nghĩa là “cướp”. Thường đứng sau một từ nào đó
để làm thành cụm từ chỉ kẻ đi cướp hoặc làm các hành động xấu. Chẳng hạn
như “hải tặc” chỉ những kẻ cướp ở biển, “không tặc” chỉ kẻ cướp trên
máy bay… Gần đây những kẻ phá rừng, khai thác quặng, cát trái phép, rải
đinh nhằm làm thủng lốp xe của khách qua đường đã bị báo chí nhà nước ở
Việt Nam gọi bằng một loạt các cụm từ mới có “tặc” như “lâm tăc”, “quặng
tặc”, “cát tặc”, “đinh tặc”. Cách gọi này vừa làm phong phú thêm kho từ
tiếng Việt vừa tăng tính hấp dẫn cho các bài báo. Để cho công bằng và
theo logic trên lẽ ra những kẻ lợi dụng dự án để nhằm những mục đích ám
muội vốn không ít cũng phải bị gọi là “dự án tặc”. Nhưng tới giờ vẫn
chưa thấy cụm từ đó xuất hiện trên báo chí nhà nước. Phải chăng “lâm
tăc”, “quặng tặc”, “cát tặc”, “đinh tặc” chỉ là những kẻ thấp cổ bé họng
nên gọi thế nào cũng được. Còn đội ngũ “vốn không ít” trên nếu gọi là
“…tặc” sẽ làm “lộ bí mật, mất an ninh quốc gia” vi phạm các điều 79, 88,
258 trong bộ luật hình sự. Hơn nữa, nếu đã gọi là “tặc” thì phải xử lý
bằng pháp luật mà xử lý hết thì “lấy ai ra mà làm việc” như lời ông chủ
tịch quốc hội và lấy ai ra để làm “lực lượng lãnh đạo xã hội” theo hiến
pháp đã quy định .
Tháng 4/2014
0 comments:
Post a Comment