Võ Long Ẩn
HLTL: Với bản chất lợi dụng chiếc áo tu hành để hoạt động chính trị làm cánh tay nối dài cho Cộng sản từ bấy lâu nay, nhóm tăng sĩ lãnh đạo của GHPGVNTN từng thành lập Đảng chính trị Phật-giáo (a Buddhist political party) mang tên "Vietnamese Buddhist Force" trong thời Việt Nam Cộng Hòa. Đảng này bao gồm một hỗn hợp người thế tục và các tăng sĩ. Thích Thiện Minh là Chủ tịch đảng và Thích Hộ Giác là Phó chủ tịch đảng. (Thích Thiện Minh đã chết chỉ vài năm sau 1975 vì bị CS vắt chanh bỏ vỏ, Hộ Giác chết tại Hoa Kỳ năm 2012 trong khi đang ở chức vụ Phó Tăng Thống GHPGVNTN.) Theo truyền thông quốc tế lúc bấy giờ (xem phần Anh ngữ trong ảnh dưới), tại cuộc họp báo ra mắt đảng, dù không ra mặt nắm giữ vị trí quan trọng gì nhưng Trí Quang ngồi trên khán đài trong lúc Thiện Minh tuyên bố sự ra đời của đảng. Một số nhân vật thế tục theo đạo Phật nổi trội khác thì giữ các chức vụ trong Ủy ban Trung ương (King, 1996, p. 354).Source: King, S., & Queen, C. (Eds.). (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: State University of New York.
***
NHỮNG CON DAO NHỌN TẨM THUỐC ĐỘC ĐƯỢC CHE DẤU BÊN TRONG CHIẾC ÁO CÀ SA
Võ Long Ẩn
Tháng
4 năm 1970 trên chiếc bàn bầu dục tại Ba Lê, đang đến lúc tranh cãi
quyết liệt cho vận mệnh VNCH, phái đoàn CSHN và bọn tay sai MTGPMN đang
xoáy mạnh vào “tội ác Mỹ Ngụy Saigon cùng tội ác xâm lược của đế quốc
Mỹ” và đòi Mỹ rút ra khỏi VN để nhân dân miền Nam có hòa bình và hạnh
phúc.
Chính
trong lúc này một phái đoàn mệnh danh Phật Giáo Việt Nam, với Cà Sa
Bình Bác, hạ cánh xuống phi trường quốc tế Tokyo để đi dự Hội Nghị Thế
Giới về Tôn Giáo và Hoà Bình nhằm mục đích vận động dư luận quốc tế
chiến dịch lên án và “tống cổ Mỹ ra khỏi Việt Nam”.
Phái
đoàn gồm các Thượng Tọa: Thích Thiện Minh (trưởng phái đoàn), Thích
Nhất Hạnh (phát ngôn viên), Thích Huyền Quang, Thích Minh Tâm và các
Phật tử Vĩnh Bửu, Ngô Văn Giáo. Phái đoàn đã chính thức đưa ra một bản
đề nghị 6 điểm: Đòi Mỹ ngưng oanh tạc B52 và ngưng mọi cuộc hành quân
lùng địch tại miền Nam Việt Nam, đòi thành lập một Ủy Hội Quốc Tế để
kiểm soát cuộc ngưng bắn có sự tham gia của CPCMLTMN, đòi chính phủ VNCH
phải trả hết các tù binh, cán binh VC bị bắt và bị toà kết án về tội
phản nghịch phá rối trị an, đòi Mỹ phải giải tán chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa v.v.
Về
thực chất thì bản đề nghị 6 điểm của phái đoàn Phật Giáo Việt Nam đưa
ra tại Nhật được sao chép nguyên bản của đề nghị mà phái đoàn CS Hà Nội
và CPCMLTMN đã được đưa ra tại hội đàm Ba Lê. Nó chỉ khác ở điểm là: Nó
được gói ghém rất chu đáo và tỉ mỉ với từ những đầu môi chót lưỡi với
ngôn từ đầy nhân ái, với lòng từ bi, hỷ xả, thiện tâm, thiện ý đầy lòng
bác ái của các vị lãnh đạo Phật Giáo VN. Nhưng đó là những con dao nhọn
tẩm thuốc độc được gói ghém, bao bọc hoàn mỹ trong những chiến áo cà sa
đầy lòng nhân ái của những người nhân danh đại diện Phật Giáo VN.
Cũng
giống như ngay tại bến Phạm Thế Hiển quận 8 Saigon, ngôi chùa có tên
Thiên Phước được trùng tu và tái thiết đầu năm 1964 “với hệ thống địa
đạo giao thông hào, hầm chứa cán bộ cao cấp Biệt Động Thành, trên sân
thượng dưới chân bệ Phật cũng là bệ kê súng bắn vào quân “ngụy”, dưới
chân tượng Phật bà Quan Âm là miệng hầm bí mật, dưới bàn thờ phật là ảnh
bác Hồ Chí Minh, nơi đây là cơ sở cất dấu vũ khí để xuất phát trong đợt
tổng tấn công Tết Mậu Thân trong nội thành Sài Gòn Chợ Lớn."
Thực
chất tay sai cộng sản Bắc Việt nằm trong Bản Đề Nghị 6 điểm của phái
đoàn Phật Giáo Việt Nam đã khiến cho đại hội ngỡ ngàng. Phái đoàn Đan
Mạch, mặc dầu thiên tả đã phải lên tiếng lưu ý toàn thể đại hội rằng:
“Chiến tranh Việt Nam hiện nay không phải chỉ do Mỹ và chính phủ Saigon
cùng đồng minh gây ra, những tội ác chiến tranh không phải chỉ có Mỹ và
đồng minh là thủ phạm. Những tàn phá gây nên chết chóc không phải chỉ có
Mỹ và đồng minh đem lại, nó còn những kẻ khác nữa. Tại sao phái đoàn
Phật Giáo Việt Nam lại im lặng không kể tên, điểm mặt những kẻ đó ra?"
Phái đoàn “Phật Giáo Việt Nam” im thín thít đã không dám trả lời câu hỏi đó, cái lưu manh bất lương là ở điểm đó.
Phái
đoàn Đan Mạch đăng cai tiếp (bằng tiếng Pháp) đặt câu hỏi trước đại
hội: “Tại sao phái đoàn Phật Giáo Việt Nam chỉ đòi quân đội Mỹ rút ra
khỏi miền Nam Việt Nam mà không đòi hỏi tất cả quân đội ngoại nhập,
trong đó có quân đội cộng sản Bắc Việt phải rút ra khỏi miền Nam VN?”
Phái
đoàn Phật Giáo Việt Nam cũng thi hành “im lặng là vàng” không trả lời
được câu hỏi đó. Sự bất lương của phái đoàn Phật Giáo Việt Nam đã lộ
nguyên hình là tay sai CSHN.
Sau
phiên họp khoáng đại, báo chí ngoại quốc đã phỏng vấn Thượng tọa Thích
Thiện Minh: “Quý vị nghĩ thế nào về bộ đội giải phóng miền Nam? Phải
chăng họ cũng là những đơn vị của CSBV?” Thượng tọa Thích Thiện Minh trả
lời “chúng tôi không vào tận rừng rậm, vào mật khu nên không biết rõ.
Dù sao họ cũng là người Việt Nam." Thể hiện rõ bản chất lưu manh của
những người tay sai Cộng sản đang núp dưới chiếc áo cà sa biểu tượng của
Sa Di, miệng luôn mô Phật đầy lòng từ bi.
Điều
đáng lưu tâm ở đây là khi nêu lên bản Đề Nghị 6 Điểm, cũng như khi lên
tiếng phát biểu trước đại hội, tuyên bố trước báo chí truyền thông, các
Thượng tọa Ấn Quang không nhân danh cá nhân hay Phật Giáo Ấn Quang mà
các Thượng tọa nhân danh Phật Giáo Việt Nam.
Chưa
kết thúc ở đây các vị Thượng Tọa còn đi xa hơn nhân danh cả toàn thể
dân tộc Việt Nam. Hãy nghe Thượng tọa Thích Thiện Minh tuyên bố trước
báo chí ngoại quốc: “… Phật giáo Việt Nam đã đại diện cho toàn thể nhân
dân Việt Nam từ thế kỷ thứ 11. Và tuy ở VN cũng có một số các TỔ CHỨC
PHẬT GIÁO KHÁC, nhưng chỉ có chúng tôi là có quyền ĐẠI DIỆN PHẬT GIÁO VÀ
dân tộc Việt Nam mà thôi” (trích nguồn Việt Nam Chính Sử của Ls Nguyễn
Văn Chức trang 492). Lời tuyên bố của TT Thích Thiện Minh nó cũng đồng
hành cùng tác phẩm Hoa Sen Trong Biển Lửa của Thượng Tọa Thích Nhất
Hạnh, một cuốn sách đề cao Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc, coi MTDTGPMN
là những người yêu nước, và lên án Mỹ xâm lược Việt Nam.
Chúng
ta cũng nên nhận diện thêm có bao chùa trong lãnh thổ VNCH được các vị
Hòa Thượng Thượng Tọa, Tăng Ni cùng “đồng hành cùng Việt Cộng” cải tiến
chùa thành “nơi chôn giấu vũ khí, nuôi giấu cán bộ, in ấn truyền đơn
huấn luyện cán bộ Biệt Động Thành…” đề nhằm mục đích giết hại nhân dân
miền Nam:
-
Chùa được bà Ông Thị Lê, một người Hoa ở Cái Tàu Thượng xây dựng vào
năm 1897 nhằm có nơi cho nhiều người Hoa đến cúng viếng. Chùa ban đầu
được xây dựng đơn sơ với cột tràm, tre lá, mái ngói âm dương. Đến năm
1900, Hòa thượng Quảng Đạt tiếp nhận chức vụ trụ trì và trùng tu lại
ngôi chùa. Là một trí thức yêu nước, thầy Quảng Đạt đã dạy dỗ cho đệ tử
là Hòa thượng Bửu Đồng sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng và động viên thầy
tham gia hoạt động cách mạng vào năm 1930. Đến năm 1945, Hòa thượng Bửu
Đồng được kết nạp Đảng, nhận công tác giao liên và nuôi chứa cán bộ.
Năm 1945, chùa Bà Lê đã trở thành trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến.
Cuộc Tổng tiến cử bầu Ủy ban Hành chính xã cũng được diễn ra tại chùa
vào năm 1948. Từ năm 1960 – 1975, do chính quyền Mỹ - ngụy kiểm soát gắt
gao nên lực lượng cách mạng phải hoạt động bí mật. Để qua mắt chính
quyền tay sai, Hòa thượng Bửu Đồng đã xây dựng một căn phòng nhỏ là nơi
nghỉ ngơi của cán bộ, để khi có lính đến khám xét, các cán bộ sẽ ẩn nấp
phía sau một cái tủ vách đôi được che chắn rất cẩn thận. Bà Ngô Thị Lan,
con của thầy Ngô Bửu Đồng, người đã phụ cha làm nhiệm vụ thời đó nhớ
lại: “Cha tôi phải cực nhọc lắm mới bảo vệ được cán bộ. Bởi lính nghi
ngờ chùa nuôi giấu cách mạng nên tiến hành khám xét mỗi ngày. Các cô chú
được báo tin có lính đến đã nhanh chóng nấp phía sau tủ, đứng ép người
vào khoảng không giữa vách tủ và bức tường rất chật hẹp. Ấy vậy mà có 7
đến 8 cô chú cùng ẩn nấp, có khi họ phải đứng trong đó suốt cả ngày và
được tiếp tế bằng sữa và mì gói. Đến khi được ra khỏi thì bàn chân đã bị
sưng múp”. (Nguồn An Giang online).
0 comments:
Post a Comment