Thượng Phương Bảo Kiếm
21 février 2014 05:24
Bài
đọc suy gẫm: Thượng Phương Bảo Kiếm hay “Đất đai thuộc sở hữu nhà nước
là thượng phương bảo kiếm để chính quyền cưỡng chế giải tỏa di dời”, tác
giả Lưu Hiểu Ba, bản dịch của Phạm Vũ Lửa Hạ. Nguồn: Harvard University
Press
“Luật
Tài sản” năm 2007 của Trung Quốc có thể đã lập lại chút trật tự cho vấn
đề tịch thu đất bằng cách đền bù cho người bị giải tỏa di dời và bảo
đảm đời sống của họ. Nhưng một trong những mục đích chủ yếu của luật này
là bảo tồn nguyên tắc “công” hữu đất đai, và đây là quy định cho phép
chính quyền, dùng những quyền hạn và thủ tục của luật này, để thu hồi
không chỉ đất và đơn vị công tác xưa nay thuộc sở hữu tập thể mà cả nhà ở
của tư nhân và các bất động sản khác, chỉ miễn sao hành động này được
xem là vì “lợi ích công cộng”.
Việc
bảo hộ bình đẳng tài sản công hữu và tài sản tư hữu trong Luật Tài sản
đã được đa số tán thành, nhưng các quy định về quyền sở hữu đất đai đã
bị chỉ trích rất nhiều. Do ngày càng có nhiều xung đột căng thẳng giữa
quan và dân về các trường hợp cưỡng chế giải tỏa di dời và việc thu hồi
đất, nhiều chuyên gia đã kêu gọi chính quyền cải cách chế độ sở hữu đất
đai càng sớm càng tốt. Ví dụ, nhà kinh tế học danh tiếng Mao Vu Thức đã
nhận định rằng Luật Tài sản không thể giải quyết được những vấn đề vô
tận của các trường hợp giải tỏa di dời bất hợp pháp. Chỉ có tư hữu hóa
đất đai mới giải quyết được.
Ngôi nhà đinh nổi tiếng ở Trùng Khánh, nằm chỏng cheo giữa công trình giải phóng mặt bằng để xây thương xá
Trong
vài năm gần đây, những trường hợp cưỡng chế giải tỏa di dời trên danh
nghĩa “lợi ích công cộng” đã ngày càng phát sinh xung đột giữa quan và
dân, và khiến người dân phải dùng đến những phương thức phản kháng ngày
càng khốc liệt hơn. Thương vong sau khi bị cưỡng chế giải tỏa di dời nay
không còn là chuyện cá biệt, và những vụ tự sát cũng chẳng phải là
chuyện ngẫu nhiên. Hồi tháng 9/2003, Chu Chính Lương cùng vợ từ vùng
nông thôn tỉnh An Huy lên Bắc Kinh để phản đối việc họ bị cưỡng chế giải
tỏa di dời, rồi rốt cuộc tự thiêu ở Quảng trường Thiên An Môn (thật may
là đã được cứu và chữa trị). Vụ này là một ví dụ cực đoan cho thấy việc
cưỡng chế giải tỏa di dời sau khi mọi giải pháp đã thất bại có thể dẫn
đến tuyệt vọng ra sao. Vì lý do tương tự, hồi tháng 3/2007, “ngôi nhà
đinh” nổi tiếng ngang ngạnh nằm trơ trọi [tại một công trình] ở Trùng
Khánh: lúc đó Dương Vũ và vợ là Ngô Bình bỗng chốc nổi tiếng vì không
chịu bán ngôi nhà của gia đình họ để dọn chỗ xây một thương xá. Họ không
nhượng bộ công ty phát triển địa ốc dù bị đứng chỏng chơ giữa công
trường giải phóng mặt bằng – như một cây đinh thọt ra giữa tấm ván mà
không thể nhổ đi hay đập dẹp được. [đinh tử hộ (钉子户) là từ trong tiếng
Trung chỉ một hộ gia đình hay một người không chịu dời nhà để dọn chỗ
cho công trình phát triển địa ốc. Trang mạng Virtual China dịch từ này
sang tiếng Anh là nail house (ngôi nhà đinh) vì chúng giống như những
cây đinh lồi ra giữa khung cảnh hiện đại. Chú thích của người dịch.]
Bà Ngô Bình trước ngôi nhà đinh của mình. |
Ngày
nay đã quá phổ biến chuyện chính phủ Trung Cộng và các cơ quan công
quyền bí mật phác thảo các đề án phát triển địa ốc rồi tham gia các dàn
xếp thương mại mà lẽ ra chẳng phải việc của chính phủ. Cán bộ quan chức
đóng vai trò bảo kê và đối tác có hùn vốn với các công ty phát triển địa
ốc. Họ làm ngơ khi công ty phát triển địa ốc dùng những thủ đoạn phạm
pháp để khủng bố, uy hiếp và cưỡng bức để đuổi người dân ra khỏi nhà và
đất của họ. Thôi thì đủ kiểu thủ đoạn, từ cắt nước cúp điện cho đến dùng
công an để bắt giữ người dân hay thậm chí thuê bọn du côn đánh chủ nhà,
đốt nhà, hay bắt cóc họ giữa đêm khuya. Khi nạn nhân của các vụ lạm
quyền như vậy mang đơn từ khiếu kiện đến các cơ quan chính quyền – mà lẽ
ra có bổn phận bảo vệ nạn nhân và xử lý thủ phạm – họ phải lê lết từ
Phòng Giải tỏa Di dời đến Phòng Giải quyết Đơn, rồi từ đó đến Sở Công
an, đến Ban Kỷ luật và Thanh tra, rồi cuối cùng đến tòa án. Những cơ
quan này gần như luôn luôn đứng chung phe với công ty phát triển địa ốc,
bất kể có luật hay không có luật. Phòng Giải tỏa Di dời cho phép giải
tỏa di dời, Phòng Giải quyết Đơn không chuyển đơn đi tiếp, Sở Công an có
mắt như mù, Ban Kỷ luật và Thanh tra biết mà không cần điều tra, còn
tòa án không chấp nhận đơn kiện hoặc xử cho nguyên đơn thua kiện. Tóm
lại, vì thiếu các nhân quyền cơ bản, và gặp đủ trở ngại trong suốt quá
trình khiếu kiện, người dân bị cưỡng chế giải tỏa di dời vốn chịu tổn
thất ngày càng nặng nề cũng gặp nhiều rào cản lớn khi thỉnh cầu nhà nước
thi hành công lý đối với cơ quan công quyền hay bảo vệ pháp luật. Thế
là xuống đường trở thành cách phổ biến để mong được bảo vệ quyền lợi. Tự
thiêu, hình thức phản kháng cực đoan nhất, là biện pháp đối đế của
người không có quyền lực.
Thời
báo Kinh tế Trung Quốc tường thuật một biến cố xảy ra với một gia đình
sống trong một căn nhà gần cầu Trường Xuân ở quận Hải Điến của Bắc Kinh,
căn nhà này đã bị lên danh sách giải tỏa. Một đêm nọ, cả nhà đang ngủ
thì năm, sáu tên du côn cầm đèn pin halogen và gậy gỗ dài thình lình
xông vào nhà. Chúng trói cả nhà, bịt mắt họ, nhét giẻ vào miệng họ, rồi
quẳng họ ra ngoài như thể họ là rác. Sau đó, trong màn đêm mù mịt, cả
gia đình nghe một tiếng đánh ầm rồi tiếng rung chuyển rầm rầm kéo dài
chưa đầy bốn chục phút. Căn nhà của họ đã bị máy xúc san bằng. Đến nay
bọn tội phạm vẫn nằm ngoài vòng pháp luật. Trịnh Ân Sủng là luật sư ở
Thượng Hải đã giúp hơn cả trăm người bị cưỡng chế giải tỏa di dời khiếu
kiện kiểu lạm quyền này. Ông trưng ra các bằng chứng phơi bày những trò
tiếm quyền và mưu lợi phi pháp của các quan chức chính quyền và một số
triệu phú phất nhanh đến chóng mặt, ví như Chu Chính Nghị [nhà đầu tư
bất động sản Thượng Hải từng được xếp là người giàu thứ 11 ở Trung Quốc,
nhưng năm 2007 đụng độ với giới chóp bu quyền thế địa phương và bị kết
án 16 năm tù vì các tội hối lộ, biển thủ, và gian lận thuế. Chú thích
của người dịch tiếng Anh.] Hành vi “vuốt mặt không nể mũi” của luật sư
Trịnh đã khiến ông thành cái gai trong mắt những kẻ giàu có quyền quý ở
Thượng Hải, nên ông bắt đầu liên tục bị uy hiếp, sách nhiễu và theo dõi.
Sau đó, chính quyền tước giấy phép hành nghề luật của ông. Chính Trịnh
Ân Sủng tố giác những sai phạm của Chu Chính Nghị, nên khi Chu Chính
Nghị bị xét xử, cứ tưởng Trịnh Ân Sủng được hưởng ít nhiều công trạng.
Nhưng ông lại phải nhận án 3 năm tù vì tội danh hư cấu là tiết lộ bí
mật.
Luật sư Trịnh Ân Sủng.
Khi
người dân đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình chống lại những liên
minh quyền thế giữa chính quyền và doanh nghiệp cấu kết với nhau để thu
hồi đất và giải tỏa di dời người dân, họ chịu đau khổ, không nơi nương
tựa và tuyệt vọng. Những vụ tự sát phơi bày cho thiên hạ thấy rõ sự nhẫn
tâm của các quan chức và lòng tham của bọn tư bản. Cớ sao sự nhẫn tâm
và lòng tham này lại được mặc sức lộng hành? Tại sao việc cưỡng chế giải
tỏa di dời lại quá dã man, còn tiền đền bù lại quá còm cõi như vậy? Tại
sao những khiếu kiện không được đoái hoài và chẳng đi đến đâu? Nhân tố
quan trọng nhất là sự bất cân xứng cùng cực giữa quyền lực của chính
quyền và các quyền của người dân. Khi lẽ ra công dân phải có các quyền
tư hữu tài sản, giao dịch công bằng, và có quyền truy đòi theo pháp luật
– đó là chưa kể đến quyền được xét xử công bằng và quyền được an toàn
cho bản thân – thì chỉ có một khoảng trống thăm thẳm. Vô vàn thảm kịch
do cưỡng chế giải tỏa di dời gây ra – thậm chí đến mức tự sát – không
chỉ phơi bày tác hại của sự độc quyền chính trị mà còn cho thấy người
dân sẵn sàng liều mạng phản kháng.
Cải
cách của Trung Quốc bắt đầu ở nông thôn trong những năm 1970 khi “chế
độ trách nhiệm” giao “quyền sử dụng đất” cho nông dân và cho phép các hộ
gia đình giữ lại hoặc bán sản phẩm họ thu hoạch được. Họ đã không được
phép làm vậy trong chế độ “công xã nhân dân” trước kia, và sự phân quyền
này trở thành một động lực quan trọng trong cải cách kinh tế. Trong
giới nông dân bắt đầu có ước muốn sở hữu nhà riêng của mình, và ước muốn
này lan đến các thành phố khi ở đó cũng có “quyền sử dụng đất”. Nhà ở
lúc đó trở thành hàng hóa, và thị trường mua bán quyền sử dụng đất xuất
hiện dưới nhiều diện mạo. Ta thừa hiểu toàn bộ quá trình này là sự thị
trường hóa và tư hữu hóa thực sự mặc dù nó xuất phát từ các văn phòng
của Đảng Cộng sản. Song, vì nhân tố có tính quyết định là quyền sở hữu
đất vẫn do nhà nước độc quyền, ta chỉ có thể gọi nó là “tư hữu hóa nửa
vời”: quyền quyết định đất nào sẽ được chiếm giữ, và đất nào sẽ được
phân phát vẫn hoàn toàn nằm trong tay quan chức, và giữa hai loại đất
này là những món lợi khổng lồ, dễ vơ vét. Các cơ hội này chỉ dành riêng
cho giới chóp bu quyền thế, với gần như toàn bộ số tiền thu được nhờ bán
quyền sử dụng đất bắt đầu rơi vào túi họ. Ngành kinh doanh nhà ở đã
thành nơi tham nhũng hoành hành.
Hiện
nay, toàn bộ đất đai ở Trung Quốc, cả nông thôn lẫn thành thị, theo
luật định vẫn “thuộc sở hữu nhà nước”. Chính phủ có thể bán quyền sử
dụng đất cho người dân, nhưng cái người dân nhận được đích thị là giấy
thuê đất. Trong “chế độ trách nhiệm” ở nông thôn, nông dân có thể giữ
sản phẩm thu hoạch được từ công sức lao động trên đất được giao, nhưng
chẳng bao giờ kiếm lời được nhờ bán đất. Chính vì thế, do tình trạng
giải tỏa di dời tràn lan lâu nay đang diễn ra ở các thành phố, dân
thường cảm thấy họ chẳng cách nào kháng cự yêu sách của các liên minh
cấu kết quyền thế, và chẳng cách nào được đền bù thỏa đáng cho các tổn
thất của họ.
Trước
năm 1949, Trung Quốc có một giai cấp – địa chủ – sở hữu đất và hưởng
lợi từ đất, và một thành phần dân chúng khác, nhưng chỉ một bộ phận (cố
nông), thuê đất. Sau năm 1949, việc thực hiện công hữu triệt để đã tiêu
diệt hình thức sở hữu địa chủ và lập nên chế độ “quyền bình đẳng về đất
đai” và “quyền sở hữu”. Chủ sở hữu đất là chính quyền Trung Cộng trên
danh nghĩa đại diện quốc gia. Giờ đây, chính quyền Trung Cộng đích thực
là địa chủ duy nhất ở Trung Quốc. Người dân nông thôn trong thời đại Mao
Trạch Đông, khi canh tác trên “đất nhà nước”, chẳng khác gì nông nô.
Trong thời hậu Mao Trạch Đông, người dân giỏi lắm cũng chỉ là kẻ thuê
đất. Họ có quyền sử dụng đất họ thuê. Nhưng người thuê chỉ có thể ở trên
một mảnh đất chừng nào chủ đất còn muốn. Khi hết muốn, chủ đất có thể
đuổi người thuê đi, chỉ vậy thôi. Nhìn từ góc độ này, chế độ cưỡng chế
thu hồi quyền tài sản tư nhân của chính quyền Trung Cộng dã man hơn bất
cứ chuyện gì đã diễn ra ở chế độ của bất cứ chính quyền nào trước năm
1949. Có ba điểm cần bàn kỹ hơn.
1.
Cụm từ “đất nhà nước”(quốc thổ) chỉ nhằm tạo “tính hợp pháp” cho việc
cưỡng chế giải tỏa di dời. Thuật ngữ đất nhà nước mang âm hưởng của một
cụm từ được dùng ở Trung Quốc vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công
nguyên: “Trên thế gian không có gì không phải là đất nhà nước”. Thời đó,
quyền tư hữu đất đai không được luật pháp công nhận, và nhân danh quốc
gia các vị vua chúa cai trị tuyên bố sở hữu toàn bộ đất đai. Hiện nay,
toàn bộ khuôn khổ quản lý đất đai của Trung Quốc, bắt đầu với “Điều lệ
về thu hồi và quản lý nhà ở thành thị” do Quốc vụ viện Trung Cộng công
bố năm 2001, và bao gồm các quy định tương ứng của chính quyền địa
phương các cấp, xem chế độ đất đai thuộc sở hữu nhà nước (thổ địa quốc
hữu) là cơ sở pháp lý. Chế độ này cho phép các cơ quan chính phủ được
toàn quyền sử dụng bất cứ phương tiện nào họ thích khi thu hồi đất. Chế
độ này cũng cho phép họ, cùng với các công ty phát triển địa ốc, có
quyền đơn phương định giá đất khi họ buộc người dân giải tỏa di dời. Chế
độ đất đai thuộc sở hữu nhà nước đích thị là thượng phương bảo kiếm để
thi hành cưỡng chế giải tỏa di dời.
“Tính
hợp pháp” kiểu này là một trường hợp kinh điển của luật pháp bất lương.
Khi biến nhà ở thành hàng hóa, chính phủ chọn cách bán quyền sử dụng
“đất nhà nước” cho tư nhân. Như vậy là có một hợp đồng cùng thỏa thuận
giữa những người này và chính phủ, và theo định nghĩa thì hợp đồng có
giá trị ràng buộc pháp lý cho cả hai bên. Khi một bên – chính phủ – đơn
phương xé bỏ hợp đồng, bên đó phạm luật. Có thể diễn đạt luận điểm này
theo cách khác: khi một cá nhân tư nhân đã trả tiền cho chính phủ để mua
quyền sử dụng đất trong một thời gian đã định, cái chính phủ đã nhận
tiền không có căn cứ chính đáng nào để dùng tư cách chủ đất cưỡng ép chủ
nhà bán cho công ty phát triển địa ốc.
Một
vấn đề còn quan trọng hơn nữa là tự cổ chí kim đất đai được công nhận
là hình thức tài sản quan trọng nhất. Ở Trung Quốc ngày nay, quyền sử
dụng đất là căn nguyên thịnh vượng cho nông dân, cũng như đối với người
thành thị, quyền sở hữu nhà là nền tảng cho tài sản tiết kiệm cả đời.
Chế độ đất đai thuộc sở hữu nhà nước không nên được phép tạo nên tính
hợp pháp cho việc cưỡng chế giải tỏa di dời; ngược lại, quyền sử dụng
đất của người dân nên cho phép họ có quyền hợp pháp để cự tuyệt việc
giải tỏa di dời. Chính vì vậy những vụ cướp đất ở nông thôn và cưỡng chế
giải tỏa di dời ra khỏi nhà ở thành thị trước hết là vấn đề quyền sở
hữu tài sản. Thứ đến mới là vấn đề đền bù. Quyền sở hữu tài sản nên được
xem là một nhân quyền cơ bản, và việc cưỡng chế thu hồi là tước đoạt
một nhân quyền cơ bản.
Các
tầng lớp nhân dân trên toàn xã hội Trung Quốc xưa nay phản đối “Điều lệ
về thu hồi và quản lý nhà ở thành thị” của Quốc vụ viện và các quy định
liên quan của chính quyền địa phương các cấp. Không chỉ các chuyên gia
học giả tỏ vẻ nghi ngờ, mà cả dân thường cũng đặt nghi vấn. Ngày
31/8/2003, sáu cư dân Bắc Kinh đệ đơn thỉnh nguyện lên Ủy ban Công tác
Pháp luật của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc [tức quốc hội], nhận
định rằng các điều khoản quy định của “Các biện pháp của thành phố Bắc
Kinh về thu hồi và quản lý nhà ở” và “Điều lệ về thu hồi và quản lý nhà ở
thành thị” của Quốc vụ viện vi phạm nghiêm trọng các Điều 3, 4, 5, 6,
và 71 của “Các nguyên tắc chung của luật dân sự” [Dân pháp thông tắc]
của Trung Quốc cũng như các Điều 13 và 39 của Hiến pháp Trung Quốc.
[Điều 13 quy định: “Nhà nước bảo vệ quyền của công dân được sở hữu hợp
pháp thu nhập kiếm được, tiền tiết kiệm, nhà ở, và các tài sản hợp pháp
khác. Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật quyền của công dân được thừa kế tài
sản tư nhân”. Điều 39 quy định: Nhà ở của công dân nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa là bất khả xâm phạm. Việc khám xét, hay xâm nhập bất hợp
pháp nhà của công dân là hành vi bị cấm”. Chú thích của người dịch tiếng
Anh.]
2.
Nếu không có quyền tài sản hoàn chỉnh và bảo đảm thì không có quyền
giao dịch công bằng. Trong một thị trường hoàn thiện, việc bảo vệ hoàn
chỉnh và bảo đảm quyền tài sản tư nhân là tiền đề cho giao dịch tự do và
công bằng. Đó chính là điều giúp cho quyền của hai bên trong một giao
dịch song phương được bình đẳng. Với tình trạng “tư hữu hóa nửa vời” ở
đại lục hiện nay, các quyền của hai bên bị mất cân xứng nghiêm trọng, và
không thể có giao dịch thị trường công bằng. Thay vì thế, ta chỉ thấy
những vụ cưỡng đoạt tài sản không tự do, và thậm chí còn ít công bằng
hơn, với một bên được đơn phương định giá.
Khi
giao dịch diễn ra ở Trung Quốc hiện nay giữa hai bên tư nhân, mỗi bên
có những quyền còn khiếm khuyết như nhau, giao dịch đó vẫn có thể tương
đối bình đẳng. Nhưng khi “giao dịch” diễn ra giữa một thường dân và
chính phủ – hoặc một liên minh cấu kết giữa tập đoàn giàu có quyền quý
được hậu thuẫn bằng các lợi ích của quan chức, phía chính phủ tham gia
giao dịch với quyền sở hữu đất tuyệt đối sẵn trong tay, trong khi người
dân chỉ có quyền sử dụng đất còn khiếm khuyết. Thường dân chẳng còn cách
nào khác hơn là chấp nhận một giao dịch không công bằng. Về lâu về dài,
kiểu giao dịch bất bình đẳng này, vốn được dàn xếp bí mật, sẽ khiến cho
nạn tham nhũng của quan chức càng trầm trọng, gây tổn hại đến tính uy
quyền và tôn nghiêm của chính phủ, làm giảm năng lực của chính phủ trong
việc thực hiện các chức năng đúng đắn của mình.
Tại
đại lục, một khi một mảnh đất, bất luận thành thị hay nông thôn, đã nằm
trong kế hoạch phát triển của chính phủ (bất kể là để quy hoạch đô thị,
phát triển thương nghiệp, hay cơ sở hạ tầng như đường sắt, cầu, sân bay
hay bể chứa nước), đất “tư” nếu xét trên quyền sử dụng đất biến thành
đất “công” do quyền sở hữu. Người dân phải chấp nhận các hợp đồng mua
bán, mức giá đền bù, thời hạn giải tỏa di dời, và địa điểm tái định cư
do phía mạnh hơn đặt ra. Khi chế độ muốn đưa một nhà kinh doanh tư nhân,
kể cả một người có sản nghiệp lớn, vào khuôn phép, chế độ chỉ cần nhắc
đến cụm từ “tổn thất tài sản thuộc sở hữu nhà nước” là chỉ trong chớp
mắt có thể khiến của cải gia đình tích lũy bao nhiêu năm tan biến như
bọt bong bóng. Nếu nạn nhân của trò tống tiền cưỡng đoạt này chịu chấp
nhận khuynh gia bại sản, họ được buông tha dễ dàng; thường họ phải trả
giá bằng một án tù.
Có
vô số ví dụ về chuyện chính phủ dùng thủ đoạn uy hiếp để cưỡng ép giao
dịch không công bằng, và thuê bọn du côn để cưỡng chế giải tỏa di dời.
Những biện pháp đó vi phạm các điều sau trong “Luật Hợp đồng Nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa” của chính Trung Cộng:
Điều
3. Tư cách bình đẳng của các bên: Các bên tham gia hợp đồng có tư cách
pháp lý bình đẳng và không bên nào được áp đặt ý muốn của mình lên bên
kia.
Điều
4. Quyền được tự nguyện tham gia hợp đồng: Một bên có quyền tự nguyện
tham gia vào một hợp đồng theo luật, và không có tổ chức hay cá nhân nào
được gây cản trở trái luật đối với quyền đó.
Điều
4. Tính hợp pháp: Khi ký kết hay thi hành hợp đồng, các bên phải tuân
thủ luật lệ và quy định hành chính liên quan, cũng như tôn trọng đạo đức
xã hội, và không được gây xáo trộn trật tự xã hội và kinh tế hay gây
tổn hại đến các lợi ích công cộng.
Các thủ đoạn thường dùng cũng vi phạm điều sau đây trong “Luật Hình sự Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”:
Điều
226: Bất cứ ai bán hay mua hàng hóa bằng bạo lực hay uy hiếp, hoặc
cưỡng ép người khác cung cấp hay nhận một dịch vụ, nếu trường hợp nghiêm
trọng, sẽ bị kết án tù với thời gian cố định hoặc bị giam giữ không quá
ba năm và sẽ bị phạt, hoặc chỉ bị phạt. Những điều này quy định rõ ràng
giao dịch cưỡng bức là hành vi phạm tội. Đặc biệt, mua bán cưỡng bức
dùng đến bạo lực hay uy hiếp sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm minh. Tuy
nhiên, vì chế độ độc tài nắm hai thượng phương bảo kiếm là quyền lực
chính trị tuyệt đối và “quyền sở hữu đất đai của nhà nước”, không một
người dân nào, bất luận phần mình có lý đến đâu, có thể kháng cự lại sức
mạnh của xe ủi.
3.
Các quyền được thông báo kịp thời, được thỏa thuận, được khiếu kiện,
được phán xét công bằng, được an toàn cho bản thân đều khiếm khuyết. Khi
quyết định các kế hoạch phát triển đất đai của mình, chính quyền Trung
Cộng các cấp thường phớt lờ các quyền cơ bản của bá tánh, trong đó có
quyền được thông báo. Chính quyền chẳng thèm đoái hoài đến dư luận,
không tiến hành điều trần công khai. Có chăng, chính quyền chỉ trưng ra
đôi chút “luận chứng của chuyên gia” và tổ chức “đấu thầu công khai”,
nhưng phớt lờ ý kiến của người dân có đất bị thu hồi, và dàn xếp mọi
việc trong một hộp đen trong đó quyền lực bị lũng đoạn, nạn tham nhũng
của quan chức, và nạn đổi tiền lấy quyền là những yếu tố làm nên mọi
chuyện.
Trong
giai đoạn thực thi các kế hoạch phát triển đất đai, chính quyền cùng
với các đồng minh của mình trong giới chóp bu quyền thế về cơ bản tiến
hành bằng vũ lực. Họ bất chấp hoàn cảnh cụ thể, ý nguyện, và nhu cầu
được bày tỏ của người dân có đất bị thu hồi – và họ luôn thắng. Người
dân có khiếu kiện cũng khó mà được xét xử, mà ngay cả khi được xét xử,
cũng chẳng được kết quả gì. “Lợi ích xã hội đại cục” giúp chính quyền
thoải mái vung thượng phương bảo kiếm “chế độ đất đai thuộc sở hữu nhà
nước” – dù trên thực tế những cụm từ này chỉ là cái vỏ bọc cho các lợi
ích cho chính quyền và giới chóp bu quyền thế.
Khi
quyền lực của các cơ quan công quyền ngày càng bành trướng, sự xói mòn
tất yếu của các quyền lợi cá nhân càng trầm trọng hơn, và hệ quả là một
tình hình bất công cùng cực với một nhóm thiểu số chóp bu quyền thế mặc
sức trục lợi thỏa thuê trong khi lợi ích của đại đa số thường dân hao
mòn dần. Phải sống với nỗi sợ đất canh tác của mình sẽ biến mất hay nhà
của mình sẽ bị san bằng, và không có cơ hội được quyền truy đòi theo
pháp luật (hay bất cứ cách nào khác), thường dân đành nghĩ ra cách riêng
của mình để đòi quyền tài sản của mình. Người nông thôn lên thành thị
để nộp đơn thỉnh nguyện, phản kháng và đôi khi bao vây cơ quan công
quyền. Người thành thị đệ đơn kiện, biểu tình, và nếu mọi cách đều thất
bại thì uống thuốc độc hay tự thiêu. Nếu người dân muốn mưu cầu các lợi
ích của mình, và tìm nơi khuây khỏa nỗi đau bị giới giàu có và quyền quý
cướp bóc, họ chỉ còn cách tham gia “phong trào bảo vệ quyền lợi” đang
lớn mạnh ở Trung Quốc và tạo áp lực quần chúng dần dần và lâu dài để
buộc chính phủ rốt cuộc phải trả lại các quyền lợi cho người dân. Cái
nghèo ở Trung Quốc hiện nay không chỉ là thiếu tài nguyên hay nguồn
cung, mà là nghèo về hệ thống chính trị và nghèo về quyền lợi. Một hệ
thống dùng “luật bất lương” để tước đoạt những quyền cơ bản của người
dân thì không thể xóa bỏ được cái nghèo kiểu này, chính tình trạng bần
cùng quyền lợi của quốc dân này tạo nền tảng cho một hệ thống trong đó
nạn cướp bóc tham lam và tình trạng bất công tột bực đang hoành hành.
Xung đột ngày càng tăng giữa dân chúng và quan chức là viễn cảnh duy
nhất cho một hệ thống như vậy. Nếu chính phủ muốn giảm bớt hay giải
quyết vấn đề này, không có cách thưởng phạt tạm thời nào – không có lệnh
cấm hay ơn huệ đặc biệt nào – có công hiệu. Việc cần làm là khắc phục
hiện trạng bất cân xứng cùng cực giữa quyền lực của chính phủ và quyền
lợi của quốc dân. Mục tiêu “trả tài sản lại cho nhân dân” (đã được công
bố là một phần trong quá trình cải cách và mở cửa của Trung Quốc) sẽ vẫn
chưa đạt được chừng nào chưa thực hiện được việc “trả đất lại cho nhân
dân”. Đưa việc bảo hộ tài sản tư nhân vào Hiến pháp và thông qua Luật
Tài sản chỉ là những bước khởi đầu của tiến trình pháp luật của Trung
Quốc hướng đến tư hữu hóa. Tuy nhiên, bước đột phá quan trọng – vẫn chưa
xảy ra – sẽ là bãi bỏ chế độ “đất đai thuộc sở hữu nhà nước”.
Tại nhà ở Bắc Kinh, ngày 7/4/2007 Đăng lần đầu trên “Quan sát” ngày 7/4/2007.
Phạm
Vũ Lửa Hạ dịch từ bản tiếng Anh “State Ownership of Land is the
Authorities’ Magic Wand for Forced Eviction” của Timothy Brook, trang
85-93 trong tuyển tập “No Enemies, No Hatred:Selected Essays and Poems”
của Liu Xiaobo do Harvard University Press xuất bản vào tháng 1/2012. Có
tham khảo bản Trung văn “土地国有是强制拆迁的尚方宝剑” trên trang Bác tấn văn đàn.
Bản
tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ (Bản dịch tiếng Việt, ký tên Khương
An, đăng trên Thời Mới Canada, ngày 18/9/2013.) Hình ảnh và bài đọc do
nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ. Links: Blog Mười Sáu
0 comments:
Post a Comment