Võ Văn Kiệt làm việc chuẩn bị thành lập Báo Tuổi trẻ
1* Mở bài
Việt Cộng nằm vùng thời nào
cũng có.
Trong
cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ của Việt
Nam Cộng Hoà, cái nhức nhối nhất là chỗ nào cũng
có bọn VC nằm vùng, chúng tràn lan trong các tổ
chức chính quyền, các cơ quan truyền thông, văn
nghệ, tôn giáo, sinh viên học sinh…
Trong các tổ chức chính quyền, từ
Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu, Phủ Đặc Ủy Trung
Ương Tình Báo, Tổng Nha Cảnh Sát, Quốc Hội, và
ngay cả trong Dinh Độc Lập cũng có VC nằm vùng.
Bọn nầy ẩn nấp dưới hàng trăm hàng ngàn bộ mặt,
muôn hình vạn trạng, đánh phá miền Nam, từ công
khai hợp pháp, đến bí mật dưới muôn ngàn hình
thức. Độc hại nhất là bọn ăn cơm quốc gia thờ ma
Cộng Sản.
Ngày nay, trong cuộc đấu tranh
cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ của các cộng
đồng tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại, cũng không tránh
khỏi bọn nầy. Ở thế kỷ 21, kỹ thuật đánh phá tinh
vi hơn, nhất là lợi dụng các thứ tự do, công khai
và hợp pháp để đánh phá.
Phạm vi hoạt động của Việt
Cộng
Thời nào cũng vậy, bài bản của
phạm vi hoạt động cũng giống nhau. Đó ví như một
vòng tròn có ba phần:
Phần trung tâm, là do cán bộ đảng
viên thực hiện.
Phần thứ hai của vòng tròn, nối
tiếp bên ngoài trung tâm, là những tổ chức được
thành lập, do liên minh, liên kết, trong đó cán bộ
đảng viên nắm phần lãnh đạo, chỉ huy, và đa số các
thành phần quần chúng tham gia là không Cộng Sản.
Đó là những “Mặt Trận”, như Mặt Trận Việt Minh,
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, Mặt Trận Tổ
Quốc…
Phần ngoài cùng của vòng tròn, là
những tổ chức quần chúng không cộng sản, nhưng
thân cộng, bị VC len lỏi bên trong, giật dây, tác
động. Đó là những “Phong Trào”, như:
Phong trào hòa bình (chống chiến
tranh, phản chiến), Phong trào chống tham nhũng,
Phong trào Nhân dân cứu đói, Phong trào bảo vệ phụ
nữ, Phong trào bảo vệ văn hoá dân tộc, Phong trào
đòi thi hành Hiệp định Paris, Lực lượng quốc gia
tiến bộ, Thành phần thứ ba…
2* Những tên Việt Cộng nằm vùng
2.1. Nhà văn nhà báo Việt
Cộng nằm vùng
Cuối năm 1957, dưới thời tỉnh
trưởng Nguyễn Trân, một mẻ lưới của cảnh sát Định
Tường tung ra, bắt giữ những ký giả đem về giam
tại Mỷ Tho, gồm có những người nằm vùng trong
những tờ báo như sau:
Triệu Công Minh (báo Tiếng Dội),
Lương Ngọc (Trời Nam), Nam Thanh (Lẻ Sống), Đồng
Văn Nam, Phương Ngọc, Phan Ba (Buổi Sáng), Nguyễn
Bảo Hoá (Ánh Sáng), vợ Nguyễn Bảo Hoá là dược sĩ
Mã Thị Chu (Tiếng Chuông), LS Nguyễn Văn Diệp, đạo
diễn Lê Dân, Mai Thế Đông (giám đốc cải lương).
Nguyễn Trân tổ chức tranh luận
công khai tại rạp hát Viễn Trường, Mỷ Tho, nếu
nhận CNCS là sai và ăn năn hối cải thì được thả
ra. Sau khi được thả, toàn bộ dông tuốt vô bưng,
xem như Nguyễn Trân thả cọp về rừng.
2.2. Truy lùng Việt Cộng
Sau cuộc truy lùng trong các báo
nêu trên, chính quyền bắt giam hàng loạt cán bộ
nằm vùng cấp thành ủy, như GS Nguyễn Văn Chì, Lê
Văn Chí, Trần Văn Hanh, Nguyễn Trường Cữu, Cổ Tấn
Lương, Bùi Đức Thịnh, bà Bình Minh, đa số là giáo
sư tư thục.
2.3. Việt Cộng nằm vùng,
nhà văn Vũ Hạnh
Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức
Dũng sinh năm 1926 tại Quảng Nam. Cán bộ văn hoá
khu ủy Sài Gòn-Gia Định, hoạt động công khai đơn
tuyến ở nội thành Sài Gòn.
Nhà
văn Vũ Hạnh tại hội trường A trường Đại học An
Giang đêm 17/03/2006.
Trước 1975, Vũ Hạnh bị bắt 5 lần,
nhưng lần nào cũng có người bảo lãnh cho ra. Người
bảo lãnh Vũ Hạnh sau cùng, là LM Thanh Lãng, Chủ
tịch Hội Văn Bút.
Sau ngày 30-4-1975, Vũ Hạnh giữ
chức Chủ tịch Hội Nhà Văn TP/SG. Vũ Hạnh mang súng
kè kè bên hông, thì bị thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nửa
đùa nửa thật bảo: “Anh em văn nghệ sĩ chỉ quen càm
bút chư có biết chơi súng đâu”.
Nhưng mấy tháng sau, ông lắc đầu
nói nhỏ “Totalement décu” (hoàn toàn bị lừa). Với
chức vụ Chủ tịch Hội Nhà Văn, chẳng có quyền hành
và quyền lợi gì, coi bộ đời sống thời bao cấp gặp
nhiều khó khăn. Ít lâu sau, nghe nói có một nhà
giàu cộng tác để Vũ Hạnh mở ra một gánh hát cải
lương, nhưng sau đó dẹp tiệm. Vũ Hạnh lại tìm
người có vốn mở xưởng làm xà bông, nhưng cũng
không khá vì thiếu nguyên liệu.
Ít lâu sau nữa, một trong những
người bạn cho biết, Vũ Hạnh đang tìm đường dây cho
con vượt biên, nhưng bạn bè chả ai dám giúp đở vì
sợ cái bản chất phản bội của tên nằm vùng.
2.4. Những tờ báo của Việt
Cộng và có Việt Cộng nằm vùng
2.4.1. Tờ Tin Văn
Báo nhà nước đưa tin như sau:
“Đầu năm 1966, đảng ủy giao cho
cán bộ Vũ Hạnh đang hoạt động trong “vùng bị tạm
chiếm”, ngụy trang dưới chiêu bài “bảo vệ văn
hoá”, xin phép cho ra tờ Tin Văn, chủ trương chống
văn hoá đồi trụy, chống văn hoá ngoại lai đầu độc
thanh niên.
Tờ báo được các cán bộ ta chỉ
đạo, đứng đầu là đồng chí Trần Bạch Đằng, Ủy viên
thường trực Thành Ủy SG-GĐ, lãnh đạo tuyên huấn,
mặt trận, trí vận, Hoa vận, và thanh niên (bao gồm
sinh viên và học sinh).
Chủ nhiệm tờ Tin Văn là Nguyễn
Mạnh Lương. Một số nhà văn cộng tác như Lữ Phương,
Hồng Cúc, Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Toà soạn đặt
trong một ngôi chùa”.
Sau 1975, Vũ Hạnh viết như sau: “Tuần
báo Tin Văn, với những bài phê bình vạch mặt
những tên xung kích chống cách mạng, qua các tác
phẩm đồi trụy, phản động, đã tạo ra một phong
trào quần chúng sôi nổi. Ngụy quyền hoang mang
nên tìm cách phản kích. Chúng trắng trợn cho tên
Chu Tử, tay sai của Sở Công An và Phủ Đặc Ủy TW
Tình Báo ngụy, bắt đầu một chiến dịch đả kích
tôi, tố cáo tôi là “VC nằm vùng”, và liên tiếp
trong nhiều số báo như vậy, y đã “vu khống tôi”
cốt làm cho những người tham gia phong trào sợ
hãi. Lúc đó, đảng ủy văn hoá và thường vụ khu
ủy, động viên, chăm sóc và giúp đở tôi về vật
chất lẫn tinh thần, thông qua vợ tôi. Mở đường
dây liên lạc mới, tôi trực tiếp nhận sự chỉ đạo
của đảng.” (Trích từ Vũ Hạnh: Trui rèn
trong lửa đỏ, trang 179).
Tên VC láu cá nầy là “VC chính
cống”, thật sự nằm vùng, mà nhảy lên như đỉa phải
vôi, khi bị Chu Tử vạch mặt là “VC nằm vùng”, rồi
lại nói là “bị vu khống”. Bọn nằm vùng luôn luôn
có phản ứng như thế!
2.4.2. Hai tờ báo có Việt
Cộng nằm vùng
1. Tờ Đại Dân Tộc
Chủ nhiệm: Võ Long Triều
Tổng thư ký: Hồ Ngọc Nhuận
VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và
Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt)
2. Tờ Điện Tín
Chủ bút Hồ Ngọc Nhuận
Chủ bút: Hồ Ngọc Nhuận
2 VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận
và Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt)
2.4.3. Nói về tờ Tin Sáng
Báo Tin Sáng có 3 thời kỳ:
1. Tin Sáng cũ trước năm 1973
2. Tin Sáng lậu từ 1973 đến 1975
3. Tin Sáng bộ mới từ ngày
10-8-1975 đến 1-7-1981
Tin Sáng cũ trước 1973. Toà sọan
ở số 124 đường Lê Lai, Q.1. do nhóm dân biểu đối
lập, thân cộng và VC nằm vùng, như: Ngô Công Đức,
Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba, có
cán bộ VC nằm vùng nhưng giữ chức vụ khiêm tốn.
Trên tờ báo có 50 bài viết của LM
Nguyễn Ngọc Lan, chửi Mỹ, chửi VNCH và chống chiến
tranh. Tin Sáng là nơi kích động các cuộc biểu
tình của nhóm SV/VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm. Tòa
soạn bị đốt và có truyền đơn “Đồng bào quyết đập
chết những tên VC nằm vùng Ngô Công Đức và Hồ Ngọc
Nhuận. Quần chúng rất phẩn nộ trước hành động đâm
sau lưng chiến của dân biểu tay sai VC Ngô Công
Đức và Hồ Ngọc Nhuận”.
Tin Sáng sau 1975.
Trần Văn Giàu nhận xét: “Các anh
làm báo CS hơn CS”. Alain Ruscio ghi lại trong
cuốn Vivre au Vietnam như sau: “Không ai nói ngọt
hơn Lý Chánh Trung được. Mặc dù trong thâm tâm họ
biết là họ đang nói dối, đang đóng kịch. Nhưng
điều quan trọng là lời nói đã phát ra thì không
thu lại được”. Đó là những tiếng chửi rất nặng nề
của trí thức đối với trí thức. Không biết bọn nằm
vùng nầy có hiểu và cảm thấy nhục nhã hay không?
Ngô Công Đức cũng đã sáng mắt ra,
trước khi chết cũng để lại chúc thơ bộc bạch phân
trần đôi điều, nhưng quá muộn. Nói chung, những
tên VC nằm vùng đã mở mắt ra, và té ngửa hết,
nhưng đã muộn cho một cuộc đời.
Tại sao Tin Sáng sống được 5 năm
dưới chế độ Cộng Sản?
Thứ nhất, báo Tin Sáng nịnh bợ VC
hơn báo VC.
Thứ hai, Võ Văn Kiệt nhận thấy
người dân miền Nam còn căm thù VC. Từ đổi tiền,
đuổi đi kinh tế mới, cải tạo thương nghiệp, xếp
hàng mua gạo, ăn độn, chồng, con, cha mẹ của đa số
bị tù cải tạo. Người dân chưa thấy cái “ưu việt”
của XHCN như tuyên truyền. Trong khi đó, báo Sài
Gòn GP thì còn non trẻ, chờ cho đến khi thành lập
tờ Thanh Niên, nói theo giọng điệu o bế người dân,
trình diễn màn lừa bịp, là “nói thẳng, nói thật”…,
vì thế Võ Văn Kiệt chưa khai tử báo Tin Sáng, để
cho sống 5 năm trong tình trạng trái ngược, là mỗi
khi số lượng phát hành gia tăng lên cao, thì ban
biên tập lại hồi hộp chờ ngày giờ kết liểu cuộc
đời nịnh bợ.
2.5. Trí thức thân cộng và bọn
“ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản”
Ở miền Trung thì nổi bật những
tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan,
Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Trần Quang Vọng, Trần
Hữu Lực, Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngăn, Trần Vàng
Sao, Võ Quế…
Hoàng Phủ Ngọc Tường phải sống
những ngày khổ nhục, oán hận, khi thấy người đồng
chí trẻ của y là Bửu Chỉ đang ngủ với vợ của y là
nữ đồng chí, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Ở miền Nam, thì có Tôn Nữ Thị Ninh,
LS Trần Ngọc Liễng, GS Lý Chánh Trung, LS Ngô Bá
Thành. Những LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan
Khắc Từ, các thượng tọa Thích Trí Quang, Nhất
Hạnh.
2.6. Thành phần thứ ba và Mặt
Trận Nhân Dân Cứu Đói
“Theo chỉ đạo của ta, một lực
lượng chính trị mới ra đời, đó là “Thành phần thứ
ba” gồm trí thức, nhân sĩ, binh sĩ, dân biểu, báo
chí, tu sĩ, công thương gia, cựu tướng lãnh, có
khuynh hướng chống Thiệu, đòi hoà bình, nổi bật
nhất là các nhân vật như LS Trần Ngọc Liễng, Ngô
Bá Thành, KS Dương Văn Đại, DB Hồ Ngọc Nhuận, Lý
Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Hàm, Lý Chánh
Trung, LM Phan Khắc Từ, Thích Pháp Lan, ni sư
Huỳnh Liên và nhà báo Nam Đình”. Tướng Dương Văn
Minh đại diện cho thành phần nầy ra đảm nhiệm chức
Tổng thống.
Ni
sư Huỳnh Liên, tịnh xá Ngọc Phương biểu tình
chống chính quyền Sài Gòn năm 1973
Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói
Ra đời tháng 9 năm 1974 do Đại
đức Thích Hiển Pháp làm Chủ tịch. Dân biểu Nguyễn
Văn Hàm làm Tổng Thư ký. Các nghệ sĩ Kim Cương,
Thanh Nga tích cực tham dự. Ni sư Huỳnh Liên, LM.
Phan Khắc Từ, các DB Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận,
GS Lý Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành…
“Ta đưa một số cán bộ đứng tên
vào mặt trận: Ngọc Trảng, Ba Thép, Xuân Thượng,
với khẩu hiệu “Lá lành đùm lá rách” ẩn chứa nội
dung tố cáo chế độ. Hình thức biểu tình rất sáng
tạo, biểu tình có ca hát “Dậy mà đi”. Biểu tình
“xa luân chiến”, không lớn mà liên miên từ ngày
nầy qua đêm khác, đêm nầy qua đêm nọ như bánh xe
quay, làm cho cảnh sát ngụy mất ăn mất ngủ”.
Phong
trào thì công khai, nhưng ra báo thì bí mật. Công
khai thì có Kiều Mộng Thu trong báo Đại Dân Tộc, ở
tờ Điện tín thì có Lý Chánh Trung. Về phía bí mật,
Cứu Đói in 10,000 bản phổ biến trong quần chúng.
Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói lập
khối Dân Tộc Xã Hội ở Hạ Viện để đấu tranh nghị
trường.
Tổ chức “báo nói”, “văn nghệ
chạy”, “biểu tình ngồi”, “phát chẩn”.
Ni sư Huỳnh Liên sinh tại Mỷ Tho
năm 1923, mất ngày 16-4-1987, tên thật là Nguyễn
Thị Trừ, ni sư trưởng Tịnh xá Ngọc Phượng. Đại
biểu QH Khoá VI. Phó Chủ tịch UB/MTTQ Sài Gòn, Ủy
viên TW MTTQ/VN.
Bọn cứu đói cứng họng, cảm thấy ô
nhục khi nhân dân kêu đói, khi đồng bào ăn bo bo,
ăn độn mà chúng lặn mất, im thin thít của thái độ
hèn nhát, lưu manh.
3* Dân biểu Việt Cộng nằm vùng và dân biểu thân cộng
Trên tờ Tuổi Trẻ trong nước, bài
viết đề ngày 31-7-2012 với tựa đề “Dân tin người
thật tâm, thật tài”, nói đến 2 dân biểu VNCH là
những “chứng nhân lịch sử” của 37 năm về trước. Đó
là dân biểu Nguyễn Văn Hàm từng giữ cương vị Phó
Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn, sau ngày
30-4-1975, và dân biểu Đinh Văn Đệ, từng làm Chánh
Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.
DB Nguyễn Văn Hàm
Nguyễn Văn Hàm khoe thành tích
như sau: “Ở Sài Gòn có những cuộc biểu tình mà tôi
và những người khác đã tổ chức rất công phu như
“phong trào cứu đói”, “ký giả đi ăn mày”. Cũng có
những cuộc biểu tình tự phát, không cần ai tổ chức
cả. Quần chúng qui tụ quanh chúng tôi, gọi là “lực
lượng thứ ba”.
“Quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, Nguyễn
Văn Hàm làm thơ, viết báo, giảng dạy triết học,
văn chương. Tham gia Quốc Hội Hạ Viện khoá 2
(1971), là một dân biểu đối lập, thủ lĩnh phong
trào quần chúng Phật giáo”.
Sau 1975, đương sự làm Phó Chủ
tịch Hội Đồng Nhân Dân, bên cạnh Ủy Ban Nhân Dân.
Hội đồng chả có quyền hạn gì cả, rồi hắn bị đá ra.
Vợ và con vượt biên qua Úc. Có đứa con gái đang
sống ở Minnesota, nhưng không nhìn cha.
3.2. Dân biểu Đinh Văn Đệ
Sau năm 1975, nhiều người “bức
xúc” khi thấy cựu dân biểu Đinh Văn Đệ ra vào làm
việc trong Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Sài Gòn. Võ
văn Kiệt cho biết : Hắn là người Cộng Sản mà không
có đảng” (Il est Communist sans party)
Đinh Văn Đệ
Tờ báo viết: “Ông Đinh Văn Đệ bị
động viên đi lính rồi trở thành trung tá Chánh văn
phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (1954-1961). Làm
Tỉnh trưởng Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt
(1963). Tỉnh trưởng Bình Thuận (1964-1967).
Năm 1967, ra ứng cử dân biểu Quốc
hội. Giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện.
Tổng thống Thiệu cử ông làm “trưởng phái đoàn”
sang Mỹ xin viện trợ khẩn cấp. Kết quả chuyến đi,
ông Đệ được Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam
tặng thưởng Huân Chương Chiến Công hạng nhất.”
Đinh Văn Đệ phát biểu: “Tôi được
giáo dục từ nhỏ, mang sẵn trong lòng tình yêu nước
thực sự, yêu con người thực sự, không phân biệt
tôn giáo, không phân biệt chính thể. Bị động viên,
tôi đành phải đi lính, và luôn luôn giữ cái tâm
lành, trung thực, ngay thẳng. Bao nhiêu năm đeo
lon, đeo súng, tôi không một lần sát sanh. Bây giờ
xuất gia, theo đạo Cao Đài”.
Đinh Văn Đệ sinh năm 1924, mồ côi
cha lúc 15 tuổi. Nhà nghèo, học hết Trung học đệ
nhất cấp rồi ra đi dạy học, theo đạo Cao Đài.
3.2.2. Người có công xây
dựng gián điệp U 4
Năm 1969, danh sách điệp viên của
tình báo chiến lược Việt Cộng có thêm một tên mới,
Đinh Văn Đệ, bí số U 4.
Người có công đầu, móc nối, tác
động, xây dựng U 4, là Đinh Văn Út, chú của Đinh
Văn Đệ. Út có bí danh là Chín Mẫn, sinh năm 1919
tại Châu Đốc. Chín Mẫn thuộc phòng tình báo T4 của
Thành Ủy Sài Gòn Gia Định, thuộc Trung Ương Cục
miền Nam, còn gọi là Cục R, B2 và “Ông Cụ”. T4 do
Mười Hương phụ trách.
Năm 1969, Đinh Văn Đệ cung cấp
tài liệu kinh tế hậu chiến của VNCH, chính Đệ lấy
xe riêng đưa người và tài liệu đến nơi an toàn.
Cũng năm nầy, Đệ thoả thuận và tiếp nhận toàn bộ
qui ước liên lạc, mực mật, giấy viết mực mật,
thuốc hiện mực mật, vật ngụy trang, mật khẩu giao
liên… nói chung, Đinh Văn Đệ, Chủ tịch Ủy Ban Quốc
Phòng Hạ Viện Quốc Hội VNCH, đã chính thức trở
thành một gián điệp của Việt Cộng, mang bí số U 4
trực thuộc phòng Tình báo mật danh J.22 của Cục R
(còn gọi là B2). Em của Đinh Văn Đệ là Đinh Văn
Huệ, trước làm chính trị viên tiểu đoàn giao thông
vũ trang thuộc J. 22
Đinh Văn Đệ
1). Kế hoạch oanh kích Lộc Ninh
“Sau khi ta (VC) giải phóng Phước
Long ngày 6-1-1975, đồng chí Phạm Hùng muốn biết
địch (VNCH) có ý định tái chiếm Phước Long hay
không? Tôi được giao phó nhiệm vụ trả lời câu hỏi
nầy.
Trước hết, tôi điện qua Phủ Thủ
Tướng, mời Tổng trưởng Quốc Phòng ra điều trần
trước Hạ Viện, tại sao thất thủ Phước Long? Trách
nhiệm của ai?
Tại buổi điều trần, Tổng trưởng
QP đổ mồ hôi hột, bối rối vì bị chất vấn sôi nổi,
tới tấp. Tôi binh vực và đề nghị, mỗi lần điều
trần như thế nầy vất vả lắm, vậy Bộ QP cấp cho tôi
cái giấy được tự do ra vào các nơi liên hệ, để hỏi
trực tiếp các cấp chỉ huy phần hành. Thế rồi, với
tờ giấy trong tay, tôi đến Phòng Hành Quân, thì
gặp ngay người quen biết cũ, là một chuẩn tướng,
ông ta nói: “Đại ca đừng lo. Ai lại dại gì kéo
quân đi lấy lại nơi mà mình phòng thủ đã bị thất
bại. Tôi sẽ trả thù bằng cách dội bom cho nát Lộc
Ninh”.
Tôi báo cáo tin đó. Vài hôm sau,
địch (VNCH) đã ném bom Lộc Ninh, nhưng quân ta
tránh được thiệt hại.
2). Trung Ương Cục ở đâu?
Trung Ương Cục Miền Nam (TWCMN)
hay Cục R, B2, “Ông Cụ”, là cơ quan đại diện cho
Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, để chỉ đạo chiến
trường miền Nam. Ban Anh ninh TWCMN do thiếu tướng
Cao Đăng Chiếm phụ trách từ năm 74 đến 75.
Ban An Ninh T4 thuộc về Thành Ủy
Sài Gòn Gia Định do Mười Hương phụ trách.
TWCMN hỏi tôi là địch (VNCH) có
biết Cục R ở đâu không?
Tôi gọi điện qua Bộ QP/VNCH xin 3
chiếc trực thăng, cho tôi là Chủ tịch Ủy Ban
QP/HV, cho Trung tướng Tôn Thất Đính, nghị sĩ, Chủ
tịch UB/QP Thượng Viện và cho Trung tướng Trần Văn
Đôn, Phó Thủ tướng, mỗi người một chiếc trực
thăng, thành lập một phái đoàn đi ủy lạo binh sĩ
đang cố thủ tại Pleiku, Đà Nẳng và Bến Cát (SĐ 5
đóng ở Bình Dương). Đi đến đâu tôi cũng hỏi các
cấp chỉ huy “Địch nó biết rõ vị trí của ta, vậy ta
có biết Cục R ở đâu không? Tôi đúc kết các câu trả
lời và báo cáo về Cục R.
3). Xin viện trợ để cắt viện trợ
“Tôi tham gia phái đoàn sang Mỹ
để xin viện trợ khẩn cấp, vì Thiệu ngoan cố, cố
chống giữ. Phái đoàn chia nhau đi “vận động hành
lang” với các cơ quan và chính khách Mỹ. Trước khi
đi, tôi suy nghĩ, làm thế nào để vận động xin viện
trợ mà kết quả là bị cắt viện trợ. Khi sang Mỹ,
mỗi dân biểu, nghị sĩ đều có nhân viên của toà đại
sứ đi kèm, nếu sơ hở là bị lộ ngay.
Với cái chiêu “nói vậy mà không
phải vậy”, làm cho các đại biểu trong đoàn thấy
tôi là người tận tâm, tha thiết nhất trong việc
xin viện trợ để cứu chế độ Sài Gòn.
Với mục đích làm cho Mỹ nản chí
và bỏ cuộc, tôi đưa ra hình ảnh của người lính
VNCH không còn muốn chiến đấu, đã bỏ chạy bằng
cách níu càng trực thăng, trốn ra khỏi chiến
trường, thì người Mỹ hiểu ngay là họ phải làm gì.
Khi tiếp phái đoàn, Tổng thống G.
Ford cho biết: “Thôi các bạn cứ yên tâm ra về, tôi
sẽ cử một viên tướng qua thị sát tình hình rồi sẽ
có quyết định sau”. Nghe vậy, tôi hiểu là Mỹ đã bỏ
cuộc”.
Theo chỉ thị của trên, Đinh Văn
Đệ đã đưa một gián điệp mang bí danh “Số 6” vừa
tốt nghiệp cao học nước ngoài vào làm việc trong
Ủy Ban QP của Hạ Viện QH/VNCH.
Năm 1972, tình báo Hà Nội đã nhận
đầy đủ chi tiết về hệ thống tổ chức, về quân số ở
các quân khu, về ngân khoản QP/VNCH, thậm chí còn
nhận những khoản viện trợ không công khai cho
VNCH, ẩn dưới chương trình PL (Program Law),
thương mại hoá, tức không viện trợ bằng tiền, mà
bằng hàng hoá, để VNCH bán lấy tiền dùng cho quân
sự.
Sau khi 2 giao liên Ngô Viết
Triều và Nguyễn Thị Thành bị bắt, cuối năm 1971,
Đinh Văn Đệ được chuyển sang hoạt động đơn tuyến,
nhận lịnh trực tiếp của Cục R thông qua một nữ
tình báo giao liên.
Đinh Văn Đệ
Có một điều Đinh Văn Đệ dấu đầu
lòi đuôi là “tôi luôn luôn có cái tâm lành, trung
thực và ngay thẳng”. Một tên gián điệp phản quốc,
sống dối trá, hành động phản bội mà còn cái gì gọi
là tâm lành, trung thực, ngay thẳng cho được?
4. Sinh viên nằm vùng
4.1. Danh sách 16 sinh viên bị
chính quyền VNCH bắt giữ
Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê
Thành Yến, Phùng Hữu Trân, Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng,
Lê Anh, Võ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế
Hương, Trương Hồng Liên, Trương Thị Kim Liên, Võ
Thị Tố Nga.
4.2. Danh sách sinh viên thoát ly
ra căn cứ Bắc Lộ 7, Campuchia
Phan Công Trình, Nguyễn Đình
Mai,Tôn Thất Lập, Trần Long Ân, Nguyễn Văn Sanh,
Lê Thành Yến, Trương Quốc Khánh, Huỳnh Ngọc Hải,
Huỳnh Quang Thư, Dương Văn Đầy, Trần Ngọc Hảo, Hai
Nam, Năm Sao, Trần Thị Ngọc Dung, Hà Văn Hùng,
Trương Quốc Khoách.
4.3. Sinh viên Việt Cộng nằm vùng
Huỳnh Tấn Mẫm
4.3.1. Huỳnh Tấn Mẫm
Huỳnh Tấn Mẫm tên thật là Trần
Văn Thật, sinh năm 1943 tại Sài Gòn. Trước 1975 là
một đảng viên cộng sản nằm vùng, hoạt động công
khai ở Sài Gòn. Sau 1975, học tiếp y khoa, ra bác
sĩ. Sang học Liên Xô về Triết học Mác Lênin.
Trở về VN được cử làm Tổng Biên
Tập báo Thanh Niên. Là thành viên của Mặt Trận Tổ
Quốc và hội viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên.
Với những chức vụ như thế, Huỳnh
Tấn Mẫm (HTM) trở thành một cán bộ thuộc hàng cao
cấp, có tiếng tâm của Sài Gòn.
Huỳnh Tấn Mẫm
Con đường hoạn lộ của HTM bị
nhiều trắc trở, vì thực tế sau 1975 cho thấy, cái
quan điểm tự do dân chủ kiểu “tư sản” của miền Nam
không còn được áp dụng trong chế độ chuyên chế
XHCN. Ngoài HTM ra, các sinh viên VC khác cũng đều
vở mộng, cho nên đã thể hiện những hành động bị
cho là “chệch hướng”, không được lòng đảng vì khác
đường lối, nên bị hạ tầng công tác, loại trừ.
Đã vậy, vợ của cán bộ cao cấp lại
làm chủ hụi và giựt hụi. Vợ ra toà lãnh án đã
đành, Huỳnh Tấn Mẫm còn bị kêu ra toà làm chứng
chống lại vợ, nên mất uy tín.
Thế là một cuộc đảo chánh trong
nội bộ, đã khai trừ HTM ra khỏi tờ báo Thanh Niên
năm 1990. Được chuyển về Hội Hồng Thập Tự, làm bác
sĩ phụ trách phòng mạch miễn phí, thế là hết cơ
hội chấm mút, thu hoạch như các đồng chí khác trên
đường hữu sản hoá cán bộ trong thời đổi mới, mở
cửa.
Mở phòng mạch ngoài giờ, chuyên
chăm sóc da mặt, nặn mụn cho phụ nữ, nhưng chẳng
có ai chiếu cố tới, vì bác sĩ cách mạng, có một
thời không được bịnh nhân tin tưởng bằng “bác sĩ
ngụy”. Riêng cá nhân HTM, trước kia chỉ lo biểu
tình, đấu tranh, chạy trốn và ở tù, thì còn ngày
giờ đâu mà học với hành. Hơn nữa, đảng cần “hồng”
hơn “chuyên”, chỉ cần có quan điểm lập trường 101%
cộng sản là một bác sĩ tốt rồi. Phòng mạch ế. Bị
gán là bác sĩ chính trị, mà thứ chính trị của CNCS
đã bị ném vào sọt rác từ lâu rồi. Người ta nhận
xét: “bác sĩ nửa vời, chính trị nửa vời, cuộc đời
cũng nửa vời, gia đình tan nát, sự nghiệp tiêu
tan. Hình ảnh “anh hùng” vang bóng một thời, làm
rung chuyển chế độ miền Nam đã chấm dứt trong cay
đắng, chán chường, tiêu cực, mệt mõi”.
Kể ra ông trời cũng có con mắt.
5. Thành Đoàn Cộng Sản Sài Gòn Gia Định lộng hành
Thành Đoàn là tên gọi tắt của
Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đang hoạt
động trong nội thành Sài Gòn.
5.1. Thành Đoàn Cộng Sản giết
sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật
Ngày 28-6-1971, Biệt Động Thành
bắn chết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật ngay tại hành
lang trường Luật Sài Gòn.
Ban ám sát Thành Đoàn cử 2 tên
tới Đại Học Luật Khoa, số 4 đường Duy Tân, nhận là
người nhà muốn gặp Lê Khắc Sinh Nhật có việc cần.
Lúc đó, sắp tới mùa thi cuối năm, Nhật đang hướng
dẫn sinh viên năm thứ nhất về cách thức thi cử tại
một giảng đường. Nhật vừa ra tới hành lang, thì
một tên móc súng bắn liền 3 phát vào ngực. Hắn
phóng lên một chiếc Honda nổ máy chờ sẵn. Hắn ném
lại một quả lựu đạn nhưng may mắn, lựu đạn không
nổ. Cảnh sát gác bên ngoài bắn 3 phát chỉ thiên.
Nhạc sĩ Vũ Thành An sáng tác một bài hát tưởng
niệm Lê Khắc Sinh Nhật.
Lý do giết SV Lê Khắc Sinh Nhật
Thành Đoàn CS giết SV Lê Khắc
Sinh Nhật (LKSN) vì 2 lý do:
Một là răn đe các sinh viên thuần
túy, có tinh thần quốc gia
Hai là để trả mối hận bị đánh bại
trong 2 cuộc bầu cử, mà Liên danh của LKSN đã
thắng Liên danh SV Việt Cộng Trịnh Đình Ban, trong
cuộc bầu cử Ban Đại Diện SV trường Luật niên khoá
1970-1971. Và đã thắng Liên danh SV/VC trong tay
Thành Đoàn trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện Tổng Hội
Sinh Viên Sài Gòn, tại Trung Tâm Quốc Gia Nông
Nghiệp (Nông Lâm Súc) ngày 20-6-1971. Trong cuộc
bầu cử nầy, khi thấy kết quả nghiêng về phía Liên
danh LKSN do SV Lý Bửu Lâm đứng đầu, thì bọn SV/VC
giở ngay bản chất côn đồ, nhảy lên bục “đá thùng
phiếu để hủy bỏ kết quả bầu cử” và ấu đả, hỗn
chiến xảy ra” (Trích trong “Trui rèn trong lửa đỏ”
trang 21 của thiếu tướng Trần Bạch Đằng)
Bị thất bại trong cuộc bầu cử,
Thành Đoàn CS cay cú, đưa ra 2 quyết định:
Một là, sát hại SV Lê Khắc Sinh
Nhật
Hai là, chỉ thị cho SV Huỳnh Tấn
Mẫm, tập họp một số SV tại Tổng Vụ Thanh Niên Phật
Tử, số 294 Công Lý, vào ngày 28-7-1971 để bầu ra
một tổ chức ma, chưa bao giờ có, đó là “Tổng Hội
Sinh Viên VN” do Huỳnh Tấn Mẫm làm Chủ tịch. Tổ
chức nầy không đại diện cho ai cả, ngoài đám SV/VC
và một số ít bị lừa.
Quyết định hạ sát SV Lê Khắc Sinh
Nhật là một hành động tội ác của Thành Đoàn CS/SG.
5.2. Thành đoàn CS/SG giết GS
Nguyễn Văn Bông
Ngày 10-11-1971, SV/VC Vũ Quang
Hùng (bí danh Ba Diệp, năm thứ 3 Khoa học) và tên
Lê Văn Châu, dùng chất nổ ám sát chết GS Nguyễn
Văn Bông, Viện trưởng Quốc Gia Hành Chánh, tại ngã
tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản. Hai tên Hùng và
Châu thuộc Trinh sát võ trang bí số S1, hoạt động
nội thành SG-GĐ, thuộc Ban An ninh T4 của Thành Ủy
SG-GĐ (trong mật khu). Cả hai bị bắt, đày đi Côn
Đảo.
Sau ngày 30-4-1975, Vũ Quang Hùng
viết : “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng” và rất
hảnh diện về thành tích đó. Tên Hùng giải thích lý
do giết GS Nguyễn Văn Bông như sau: “Tin tình báo
cho biết, GS Nguyễn Văn Bông sẽ làm thủ tướng vì
chính quyền ngụy muốn chuyển từ quân sự sang dân
sự. GS Bông là một trí thức rất có uy tín mà lên
làm Thủ tướng, thì cách mạng sẽ khó khăn hơn. Để
giữ bí mật, tôi đặt tên mục tiêu phải giết với bí
số G.33”.
Đến tháng 4 năm 2000, trong lễ kỷ
niện 25 năm ngày “chiến thắng 30 tháng 4”, nhà báo
chuyên về tình báo Nam Thi của báo Thanh Niên,
cũng kể lại “thành tích” nầy, trong đó có sự trợ
giúp đắc lực của SV kiến trúc Nguyễn Hữu Thái,
người đã theo tướng Dương Văn Minh đến đài phát
thanh để tuyên bố đầu hàng trong ngày 30-4-1975.
Chính SV Nguyễn Hữu Thái làm “xướng ngôn viên bất
đắt dĩ”, đã giới thiệu tướng DVM đọc tuyên bố. Sau
đó, Nguyễn Hữu Thái xuất cảnh sang Canada theo
diện đoàn tụ gia đình.
Phu nhân của GS Bông có lẻ đã
biết tên tòng phạm nầy.
Trong phỏng vấn của đài RFA, ký
giả Mạc Lâm ghi lại như sau: “Đã hơn 40 năm, những
nạn nhân như bà Lê Thị Thu Vân, tức bà Jackie
Bông, phu nhân của cố giáo sư lừng danh Nguyễn Văn
Bông, bị tên SV Vũ Quang Hùng ám sát, tuy không
bao giờ quên nổi biến cố bi thương, bổng ập xuống
cuộc đời bà và các con nhỏ dại của bà năm xưa.
Nhưng bà đã lấy tâm Phật mà “cầu nguyện cho ông ấy
(tức tên Vũ Quang Hùng, kẻ đã giết chồng bà) và
mong nhà cầm quyền Hà Nội “mở mắt ra”, “mở tấm
lòng ra”. (RFA ngày 5-5-2011)
Ngoài việc ám sát GS Nguyễn Văn
Bông, Thành Đoàn còn ném lựu đạn M-26 vào xe của
BS Lê Minh Trí, Tổng trưởng GD&TN ngày
6-1-1969.
Hai tháng sau, đến lượt BS Trần
Anh, Tân Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, bị bắn
chết trước cổng trường Chu Văn An, bên cạnh Đại
học xá Minh Mạng, ngang nhà thờ Ngã Sáu, Chợ Lớn.
BS Trần Anh đang đi bộ từ Bộ Y Tế trên đường về
nhà ở bên cạnh Đại học xá Minh Mạng.
6* Phan Nhật Nam tố cáo Việt Cộng nằm Vùng
6.1. Thiếu tá “VC Killer” Thái
Quang Chức
Trong bài viết tựa đề “Những tên
Việt Cộng nằm vùng”, một thiếu tá Hải quân có danh
hiệu là “VC Killer” mang tên Thái Quang Chức, em
của tướng Thái Quang Hoàng.
Năm 1957, thanh niên Thái Quang
Chức lội qua sông Bến Hải vượt tuyến vào Nam. Tốt
nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, về làm việc tại Bộ
Tư Lịnh Hải Quân Vùng 4, Sông Ngòi, Mỷ Tho.
Năm 1970, mang lon thiếu tá, nổi
tiếng là “VC Killer”, vì sau cuộc hành quân, xác
VC được kéo chạy trên sông để biểu dương ý chí
chống Cộng.
Trong những ngày sau cùng của
tháng 4 năm 1975, tướng Thái Quang Hoàng cho người
em xuống Mỷ Tho gọi Chức về để cùng gia đình di
tản, đương sự quyết định ở lại để góp phần xây
dựng quê hương.
Trình diện học tập cải tạo, Chức
được đưa đến trại Hoàng Liên Sơn.
Hai năm sau, năm 1977, một người
mặc thường phục đến bộ chỉ huy đoàn 776, đưa thiếu
tá “VC Killer” ra khỏi trại, về làm nhiệm vụ mới.
6.2. Trung úy Trần Trung
Phương, tiểu đoàn 3 Nhảy dù, VC nằm vùng
Do được giới thiệu, tác giả đến
một đường dây chạy giấy xuất cảnh. Đến một cơ sở
không có bảng hiệu, nhân viên thường phục tiếp đón
với thái độ “chúng tôi đã biết rõ tất cả”, “chào
anh Nam, anh có mạnh không?”. Anh ta nói: “Tôi
biết anh nhiều lắm”, rồi mở tủ hồ sơ lấy ra cho
coi Chứng Chỉ Nhảy Dù do Trung Tâm Huấn Luyện Sư
Đoàn Dù cấp, có ký tên đóng dấu của trung tá Trần
Văn Vinh.
Anh ta tự giới thiệu: “Trung úy
Trần Trung Phương, gốc Đại Đội 33, tiểu đoàn 3 Dù,
đơn vị cuối cùng là “Biệt Đội Quân Báo Điện Tử Sư
đoàn. Là nhân viên Đặc vụ Sở Phản Gián Bộ Nội Vụ
(Cộng Sản).
Điều kiện đưa ra, tôi có thể làm
hồ sơ cho anh ra khỏi VN tối đa là 8 tháng. Gia
đình anh tại Mỹ phải trả cho người của chúng bên
đó 2,000 đô là, và kèm theo một số điều kiện…
“Lẽ tất nhiên, tôi không chấp
nhận điều kiện của Phương, từ 2,000 đô la đến
“những điều kiện khác…”.
Sau đó, năm 1993, để giúp một
người quen cần phải xuất cảnh để giải quyết những
khó khăn, tôi tìm đến Trần Trung Phương ở một địa
chỉ mới, là một văn phòng ở khách sạn đường Nguyễn
Văn Trỗi, nhân viên văn phòng cho biết, ông Phương
đang Hoa Kỳ, ở vùng Westminster, Cali.
Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719,
Hạ Lào, những bãi đáp đổ quân, những vị trí tấn
công, toạ độ dội bom B-52 của SĐ Dù, đã bị quân
báo VC giải mã từ cơ quan đầu mối, tối cao, là
Biệt Đội Điện Tử và Phòng Hành Quân SĐ.
Ngày 30-4-1975, viên hạ sĩ quan ở
đơn vị đó mà tôi biết, đã dẫn trung tá Nguyễn Văn
Tư, Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh SĐ Dù, qua Camp
Davis để giao nộp hồ sơ trận địa của đơn vị mà hạ
sĩ quan nầy đã lưu giữ từ hơn 10 năm trước đó.
Phan Nhật Nam: “Tôi có bổn phận
chỉ đích danh những cá nhân tác hại, điển hình như
Trần Trung Phương, Thái Quang Chức, những hạ sĩ
quan và những công an VC, đã đi theo diện ghép với
những gia đình HO và ODP hiện tràn lan khắp các
cộng đồng người Việt hải ngoại”.
Ngoài những tên VC nằm vùng mà
ông Phan Nhật Nam nêu trên, còn có 1 tên vô cùng
lợi hại, đó là một thượng sĩ.
“Giữa tháng 4, 1975, Bộ Chính Trị
nêu vấn đề, nếu chúng ta đánh lớn, liệu Mỹ có nhảy
vào cứu nguy hay không?
Giải đáp câu hỏi nầy là công lao
của đồng chí Nguyễn Văn Minh, là thượng sĩ giữ hồ
sơ tuyệt mật của Cao Văn Viên. Lúc đó, thư của
TT/HK gởi cho Thiệu: “Cuộc chiến tranh VN coi như
đã chấm dứt đối với Mỹ, chi viện 700 triệu đô la,
còn mọi việc khác thì tùy theo quý ngài định
liệu”. Bản sao bức thư được gởi cho Cao Văn Viên.
Đồng chí Minh lập tức chép lại, gởi ra bộ chỉ huy
miền. Nhờ tài liệu nầy mà BCT nắm được điểm yếu
của địch, nên nêu phương châm tấn công “Thần tốc -
Táo bạo - Chắc thắng”.
7* “Những bí ẩn của báo Người Việt”
Đó là cái tựa của bài viết trên
tờ SGN ngày 28-7-2012.
Căn cứ vào 2 trang web Tân Đại
Dương và trang tài liệu 401k-plans, để xác định
“Nguoi Viet Daily News không phải là một công ty,,
“Corporation Nguoi Viet Inc.” như đã công bố trên
báo chí. Tác giả bài viết đặt câu hỏi: “Ai là chủ
thực sự của báo Người Việt?”
Đây là một câu hỏi cần được phải
trả lời để đánh tan những nghi ngờ gần như xác
định về báo Người Việt, đang sôi nổi trong những
ngày gần đây. Đương nhiên là báo NV có quyền không
trả lời, tuy nhiên, nếu không trả lời rõ ràng và
hợp lý thì dễ biến sự nghi ngờ trở thành xác định.
Hôm nọ, xem ông Ngô Kỷ liệt kê
“thành tích” của báo Người Việt trên You Tube, thì
quả thật, báo Người Việt rất đúng, chẳng sai tí
nào đối với những tố cáo của các đoàn thể vừa qua.
Hết phương chối cãi. Những lời lẻ binh vực xem như
ngụy biện, không thuyết phục.
8* Kết
Đem
tình trạng “Việt Cộng nằm vùng ở miền Nam trước
năm 1975”, đặt vào tình trạng của phong trào đấu
tranh cho một nước VN tự do, dân chủ, nhân quyền
hiện tại, thì mới thấy rõ bài bản, âm mưu và kỹ
thuật đánh phá của VC trong nước. Thời nào cũng
vậy, ở đâu cũng có bọn lưu manh nằm vùng cả. Bản
chất của bọn nằm vùng là gian manh, xảo trá và
phản bội, tôi ác của bọn chúng là đã góp phần
đưa dân tộc VN vào chế độ độc tài Cộng Sản hiện
nay.
Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn
năm bia miệng vẫn còn trơ trơ, đừng có tưởng chết
là hết.
0 comments:
Post a Comment