
Hạ Đình Nguyên - Báo Hoàn Cầu Trung Quốc đe dọa Việt Nam: “Việt Nam sẽ rất đau đớn nếu thân Mỹ”.
Thật ra, phải hiểu rằng đó là một thông điệp rõ ràng của chính Bắc
Kinh, là một câu nói thẳng vào mặt, đầy nộ khí: Việt Nam! Theo ai? Theo
Mỹ để bao vây Trung Quốc, hay theo Trung Quốc, với tư cách là thằng đàn
em, để chống Mỹ?
Tấm màn màu mè đầy giả dối 16 chữ vàng và 4 tốt,
Bắc Kinh đã xé toạc và quăng xuống sân khấu. Ánh sáng sự thật tràn
ngập. Tuy không ngoài dự kiến, nhưng Việt Nam không tránh khỏi bối rối
trước sự trắng trợn này. Lịch sử Việt Nam không hề u mê để các lãnh đạo
không biết bộ mặt thật của chúng, mà ngược lại, biết sâu sắc thấu suốt
bằng nhiều xương máu của bao thế hệ. Nhưng vì đâu mà tấm màn giả dối kia
cứ phơ phất che mắt người dân suốt 20 năm nay? Không phải đã không có
những tiếng thét lên và kêu gào của những bậc sĩ phu đích thực và kể cả
của người dân ở đường phố. Nhưng tất cả đều bị ém lại, bị triệt hạ, đôi
khi bị lăng nhục và miệt thị không tiếc lời bởi một số quan chức Việt
Nam. Thậm chí, những chiến sĩ, những người con của đất nước, đã chiến
đấu và hy sinh cho Hoàng Sa, Trường Sa, biên giới phía Bắc, biên giới
Tây Nam đã không được làm lễ tưởng niệm công khai, cả các bia đá cũng bị
đục bỏ và lặng lẽ khiêng đi.
Chẳng qua, vì phải nín nhịn, và bận làm các lễ
nghi về tấm màn nhung kia, với ảo tưởng cầu mong cái giả trở thành cái
thật. Ảo ảnh tất phải tan vỡ, nhưng vì sao?
Phải chăng là do đường lối ngoại giao có tính du
kích không còn phù hợp thời đại, mang nặng vết tích bí mật của thời
chiến tranh, trên nền của một thể thế không minh bạch và thiếu dân chủ?
Nhưng, trong thời đại này, một đứa trẻ dám cất lên tiếng nói đích thực
của mình, người lớn cũng không dám ăn hiếp, nói chi đến một quốc gia đã
độc lập! Những đảo quốc nhỏ bé gấp nhiều lần Việt Nam, họ vẫn cất lên
tiếng nói dõng dạc, đường hoàng, chẳng ai dám làm gì. Một Hun Sen dám
hành động theo ý mình, vì quyền lợi của đất nước nhỏ bé và không có vai
trò gì lớn, đã công khai lắc đầu với Việt Nam và ASEAN để bắt tay với
Bắc Kinh. Ở Việt Nam, một thời gian dài sau Lê Duẩn, Nguyễn Cơ Thạch,
không có bản lĩnh nào so sánh, để không dám có cái lắc đầu công khai như
thế với Bắc Kinh, mà chỉ có cái bắt bằng hai tay dư mức trịnh trọng.
Việt Nam, vì đâu bỗng dưng thiếu tự tin, vì đâu lại mang đầy mặc cảm,
khi đứng trên nền một lịch sử đã hàng ngàn năm chiến đấu oanh liệt và
tồn tại? Ngọn cờ độc lập, tự do, kiên cường, bất khuất cuốn giấu ở đâu,
để thay bằng một nụ cười cầu hòa vô nghĩa lý trước cái trừng mắt của kẻ
thù? Thế mới biết giá trị về khí phách lẫm liệt của ông cha xưa. Dù nước
nhò, dân ít, tướng Lý Thường Kiệt vẫn tự tin, dõng dạc đưa tuyên ngôn
cho phương Bắc biết: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư.” không một dáng dấp e
dè sợ sệt.
Nguyên thủ của một Quốc gia thì phải nói đúng
tiếng nói của Quốc gia, chứ không nói quanh quẹo ngoại giao cầu cạnh,
theo kiểu mềm dẻo mà bạc nhược. Không khí ngoại giao bạc nhược bao trùm
các cấp, đến nổi ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, là người có học,
từng phụ trách giáo dục đại học, là hình ảnh của trí thức, cũng dịu
dàng, nhẫn nhục vuốt ve tấm màn nhung 16 chữ. Người dân, trí thức, thanh
niên trong cả đất nước đang nghĩ gì về những động thái khệ nệ ấy, khi
mà tấm màn nhung đó bị đối phương xé toạc?
Vì lý do nào mà nhà nước Việt Nam kiên nhẫn và chịu nhục công khai như thế? Vì muốn hòa bình, và vì sự tồn vong của cái gì?
- Vì chủ nghĩa xã hội? Điều này không do một
hoàn cảnh nào bắt buộc cả, bất kể từ đâu, kể cả Bắc Kinh, mà chỉ do
thuần tưởng tượng ra thôi, nên không phải là lý do đáng để bàn cãi, quá
lắm chủ nghĩa xã hội chỉ là cái áo để Đảng mặc trước dân chúng.
- Vì Tổ quốc Việt Nam? Thì hẳn từ lâu đã không
hành xử như thế. Vì Tổ quốc thì không thể nín chịu và giấu giếm, không
cho dân chúng biết khi để mất lãnh thổ phía Bắc, mất đảo, mất biển,
không để đục văn bia, không cho dời cột mốc biên giới, không thể âm thầm
cấm làm lễ tưởng niệm cho những chiến sĩ ngã xuống vì đã chiến đấu
chống xâm lược Bắc Kinh, không triệt hạ đàn áp biểu tình chống xâm lược,
không để kẻ thù xâm thực bằng sức mạnh mềm vào khắp đất nước, không bóp
nghẹt tiếng nói dân chủ, không mộng mị những khẩu hiệu suông “dân giàu
nước mạnh” mà không thể hiện qua một thể chế xã hội công dân…
- Vì Đảng Cộng sản Việt Nam? Rõ là vì thế! Chính
trong NQ 4, ông Tổng Bí thư đã khẳng định và lo lắng: “Vì sự tồn vong
của Đảng”, tất cả còn lại không được nhắc tới vì là thứ yếu. NQ4 còn
khẳng định cụ thể: “Không tam quyền phân lập”, đất đai của toàn dân thì
do “nhà nước thống nhất quản lý” như cũ. Vì Đảng là tinh hoa của nhân
dân, là cốt lõi của chủ nghĩa xã hội? Vì yêu chủ nghĩa xã hội là yêu
Nước? Do đó, Đảng là biểu trưng cao cả nhất, là trên hết; Đảng là Tổ
Quốc, mà Tổ Quốc chỉ là từ ngữ trừu tượng, là cái bóng mờ theo sau Đảng,
chỉ khi cần thì Đảng sẽ nhân danh. Vì nữa, Đảng lãnh đạo toàn diện!
Đó là não trạng và tư duy chính thống của bộ máy
lãnh đạo hiện nay? Thế nhưng Đảng đang đau đầu, có lẽ rất đau đầu, vì
buộc phải chọn lựa thái độ trước câu hỏi dứt khoát không hề lịch sự của
Bắc Kinh: Thân ai? Cũng không chỉ là lời đe dọa suông, mà kèm theo hàng
loạt hành vi khiêu khích ở biển, đảo.
Một lần nữa, trước thời điểm căm go của lịch sử,
các lãnh đạo Việt Nam không ai lên tiếng bày tỏ lập trường, thái độ để
dân chúng hiểu, mà tuyệt đối im lặng, giữ bí mật, lại có những biểu hiện
ngược. Các đoàn thể quần chúng do Đảng lãnh đạo cùng im phăng phắc. Mọi
việc để Đảng lo! Đồng thời các biện pháp trấn áp sự bày tỏ thái độ của
người dân được triển khai đều khắp, từ nhẹ nhàng đến thô bạo. Dân chúng
hoang mang về thái độ của lãnh đạo trước sự đe dọa chiến tranh của Bắc
Kinh, nhưng sự phản ứng của người dân về số phận đất nước là quyền
thiêng liêng, không một tổ chức nào, nhân danh bất cứ lý do nào lại có
quyền ngăn cản! Đặc biệt, không thể dùng luận điệu quá vu vơ, nông nổi
và tầm thường để vu khống, chụp mũ, miệt thị, cũng như thực hiện những
hành vi tồi tệ đối với những người biểu tình bày tỏ thái độ bảo vệ đất
nước. Một hành vi cao cả đáng tôn trọng, đáng khuyến khích, đáng nuôi
dưỡng lại được đáp ứng theo cách đối lập hằn học một cách đáng tiếc.
Tai họa chiến tranh xâm lược của Bắc Kinh không
phải là chuyện hoang đường. Hàng vạn thanh niên chiến đấu và hy sinh ở
biên giới phía Bắc, hàng vạn hy sinh ở biên giới phía Nam, đều là con em
của nhân dân, không nhập khẩu từ một sự hiến tặng nào, và nỗi đau hãy
còn đó. Biển và đảo còn đang bị chiếm đóng, ngư dân hằng ngày đang bị
hành hạ, trấn lột, tiếng gào thét xung phong của bọn xâm lược đang vang
vọng trên các diễn đàn và biển cả. Thế mà tuần qua, Ủy ban Nhân dân TP
Hà Nội còn ra thông cáo quy tội người biểu tình chống Bắc Kinh là “chia
rẽ quan hệ Việt-Trung”. Chia này là rẻ, hay quá đắt? Thân ai, có lẽ là
bí mật quốc gia mà nhà nước muốn giấu kín?
Một người dân Việt Nam viết trên mạng, ông Thái
Văn Cầu (nhà khoa học không gian, hiện đang làm việc tại California,
Mỹ), thật nhẹ nhàng khiêm tốn đã kêu gọi: “Nhà Nước Việt Nam nên thân
Việt Nam trước đã!”. Tuy nghe có lạ tai, nhưng chính xác đến độ xé lòng.
Hãy lật lại hồ sơ của hai mươi năm qua, của một năm qua, thì khắc biết
mối quan hệ hữu nghị ấy với Bắc Kinh đã nhào trộn trong đó các hành vi
nham hiểm tham lam và tráo trở cỡ nào!
Bộ đội Hải quân ta đã chửi thề vào mặt bọn Tàu
lấn chiếm ở Biển Đông, dù không tác dụng gì, nhưng đã làm dân chúng hả
dạ biết bao về thái độ dứt khoát của các chiến sĩ, làm vơi đi ít nhiều
bực bội do những lời lẽ ỡm ờ của các quan chức miệt thị người biểu tình,
lại vô cùng lịch sự với 16 chữ vàng. Người dân và chiến sĩ không cần
lịch sự gì với chúng. Lâu nay chúng vẫn một thái độ hồ đồ, đe dọa, hống
hách, mắng mỏ ta trên các phương tiện truyền thông; lại xua hàng bầy tàu
vào múa may ở Biển Đông, thoạt nhìn như đội tàu của Tào Tháo ở trận
Xích Bích. Rồi sẽ có ngọn Đông Phong chờ chúng .
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng thúc giục: “Tiến
lên chiến sĩ, đồng bào!”. Lúc nào cũng có Đồng Bào bên cạnh Chiến Sĩ, đó
là thành phần đại chúng khắng khít, chấp nhận chiến đấu, chấp nhận hy
sinh. Đồng bào ta cũng đang chửi thề vào bọn bành trướng ở khắp mọi nơi
trên đất nước, trong hang cùng ngỏ hẻm, từ đồng ruộng đến phố phường.
Dân căm tức, xuống đường trong trật tự ôn hòa,
để lịch sự nói với chúng rằng, dân là chủ, chúng không thể lũng đoạn
được nhân dân đâu. Thế mà lãnh đạo đó đây không ủng hộ, lại triển khai
các loại đội hình trấn áp, bao vây, xé nhỏ, lôi kéo, bóp cổ, đạp vào mặt
để sỉ nhục, và các hình thức khủng bố tinh thần khác… Tham gia vào đội
hình này lại có những màu áo khác nhau của vài đoàn thể quần chúng. Đưa
Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên, Lực lượng Thanh niên Xung
phong, các tổ chức Thanh niên Dân phòng… vào tham gia đối phó, ngăn
chận, đàn áp những người biểu tình là cách làm tự sát, là khiến người
dân nghĩ ngay đến tổ chức Hồng Vệ Binh, vốn là thủ đoạn đầy tội ác của
Mao Trạch Đông nhằm gây nhiễu nhương, tao loạn trong nội bộ nhân dân, là
vô tình (?) có thể tạo nên bộ phận thanh niên lạc hướng, cản trở tinh
thần yêu nước chống ngoại xâm (mà hiện tại chúng đã xâm chiếm một phần
lãnh hải và đang đe dọa chiến tranh). Rồi sau đó, thân phận của Hồng Vệ
Binh này sẽ hẩm hiu và trở thành bi kịch như thế nào, sau khi bị sử
dụng, có lẽ nhiều người đã biết.
Ông Nguyễn Thế Thảo, tuy không vô danh nhưng dân
trong nước vẫn ít biết ông là ai, bỗng chốc nổi tiếng. Nổi tiếng vì
những điều nói ra quá tầm thường, và tầm thường đến mức phải nổi tiếng!
Không thể có một cách nói sáng tạo nào khác, thông minh hơn, hợp lòng
dân hơn, mà có đạo lý hơn, để nói lên được tầm nhìn của người lãnh đạo
cao hơn tầm của một sai nha? Chỉ toàn bộc lộ một thái độ miệt thị, phản
ảnh một tư duy coi thường dân chúng. Dân Thủ đô đã từng bị chì chiết, bị
bôi nhọ như thế: làm mất trật tự, bị lợi dụng, bị giật dây, nghe theo
kẻ xấu, kẻ cơ hội, thế lực thù địch… Đối thoại và tiếp xúc với nhân dân
thì giao cho bộ máy cảnh sát và công an đảm nhiệm, đáng lẽ các bộ phận
chức năng khác phải làm, thì lẩn tránh, núp kín trong những tấm màn bảo
hiểm! Nhưng chắc chắn một điều, nhân dân không bị Bắc Kinh giật dây, sai
khiến, lũng đoạn, tiếp tay hay bị mua chuộc bởi bất cứ hình thức nào,
dù tinh hay thô, lớn hay nhỏ. Một điều “nhạy cảm” lớn hơn là họ không
“sợ hãi” Bắc Kinh. Đối với dân, sự sợ này không bằng sợ mất nước, sợ thì
cái gì “quý hơn độc lập, tự do” đây?
Một câu hỏi lớn và cấp bách đang đặt ra mà nhân
dân đều quan tâm: Đi theo hướng nào, thân ai để Việt Nam phát huy được
sức mạnh dân tộc, giữ được độc lập, bảo vệ được giang sơn?
Thân ai? Bắc Kinh? Bắc Triều? Hay Mỹ, Nga và tất
cả các quốc gia không thù địch trên toàn thế giới? Câu trả lời chắc
chắn nhất, luôn luôn đúng, là “thân Việt Nam” trước hết. Thân Việt Nam
là thân với nhân dân, tôn trọng nhân dân, tin tưởng nhân dân như đã từng
thể hiện qua các cuộc kháng chiến thành công, là thương yêu chính đồng
bào ruột thịt của mình, đã từng đồng cam cọng khổ qua các cuốc chiến
tranh, đó là đông đảo những người dân bình thường, hay nông dân trên
đồng ruộng họ đã làm nên tất cả. Người xưa nói “Thân dân – minh triết”.
Có thân với dân – tức nhân ái, dân chủ, nhân bản – thì mới có tầm suy
nghĩ sáng suốt, mới có chính sách phù hợp, có đường lối công khai, có
thái độ đối xử minh bạch, mới có sức mạnh của nhân dân, mới chống được
ngoại xâm. Đó là minh triết. Câu nói của nhà tư tưởng lớn thời cổ đại,
Mạnh Tử, mà nhân dân Trung Quốc từng biết, từng tôn vinh là một bậc
Thầy, Việt Nam cũng từng biết, mà Trung Quốc thời Cộng sản đã từng vùi
lấp xuống bùn đen, bỗng hiện lên chói sáng như một tấm gương để tự soi
mình: “Dân vi quý, Xã tắc thứ chi, Quân vi khinh”. Câu nói tuy đã cũ,
nhưng vẫn rất mới cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người đang có
trọng trách với quốc gia. Lấy dân làm gốc, lấy xã hội làm trọng, lấy
năng lực của mình phụng sự xã hội. Đằng này, bọn lãnh đạo Bắc Kinh, và
những kẻ chịu ảnh hưởng chúng, coi dân như bị thịt, coi xã hội như sòng
bài, coi tổ chức nhà nước là cuộc đỏ đen với nhau, lại tự cho mình có
danh giá ở trên cao.
Hãy nhanh chóng quay lại thực hiện chính sách
“Thân Việt Nam trước đã” và cũng là mãi mãi, để thể hiện các khẩu hiệu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh qua các chính
sách cụ thể mà người dân có thể sờ tay vào được, thay vì mãi nói ba hoa
mà tưởng rằng dân nghe theo. Để củng cố, chấn chỉnh về “suy thoái tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống” như NQ 4 đề ra, thì trở về với lòng
yêu nước trong sáng, không kèm theo món hàng ế xã hội chủ nghĩa, xây
dựng thể chế dân chủ như Hiến pháp khẳng định, mà ở đó mọi tiếng nói của
người dân được tôn trọng và lắng nghe, hình thành một xã hội công
dân thật sự, mà ở đó mọi người dân đều có thể đóng góp sức mình vào các
vấn đề lớn nhỏ của đất nước, thay cho một xã hội bị thâu tóm trong tay
một nhóm người có quyền lực, chỉ biết vơ vét và nhân danh, làm cho xã
hội ngày càng tồi tệ, lấy minh bạch làm chính sách, lấy dân chủ làm căn
cứ để phát triển sức mạnh nội sinh của dân tộc. Tức khắc, tham nhũng sẽ
hết hoành hành. Hiềm một nổi, giặc cướp đã vào trước cửa, mà trong nhà
cuộc đỏ đen vẫn còn náo nhiệt!
May thay, đất nước ta không có kiêu binh (như
bọn kiêu binh diều hâu Bắc Kinh), nhưng tức thay, lại có nhiều kiêu
quan, khệnh khạng, hãnh tiến, giả dối với nhân dân, dựa vào sự thiếu
minh bạch của chính sách mà đục khoét tài sản của quốc gia, lại hù dọa
nhân dân dưới các mỹ từ nhân danh “đoàn kết, hữu nghị, phát triển”, đó
là thành phần những con sâu sẵn sàng lao vào vòng tay của giặc khi trời
chưa kịp sáng, là những kẻ nội thù nối giáo cho chúng.
Đúng vậy, phải nhanh chóng thanh lọc bộ máy, dẹp
sạch các trò đỏ đen, thực hiện chính sách “thân Việt Nam trước đã”.
Thân với bên ngoài bất cứ là ai, mà nhạt nhòa với bên trong, sớm muộn
cũng chỉ là con đường mất Nước.
H. Đ. N.
0 comments:
Post a Comment