PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
THÂN THẾ VÀ THÂN THUỘC DƯƠNG TỘC
Năm
2015 là năm Ất Mùi tức là năm con dê. Tên Hán- Việt của dê là Dương.
Tên khoa học của dê là Capra hircus hay dài dòng hơn là Capra aegagrus hircus thuộc gia đình Bovidae như trâu bò. Dê là loài động vật có vú, có xương sống, có máu đỏ, sinh con.
Dê
có vóc dáng của nai và chó. Khác với chó, dê có sừng. Sừng dê ngắn.
Sừng nai dài và có nhiều nhánh. Dê đực và dê cái đều có râu và có móng
đặc. Dê có mặt giống thỏ. Cả hai loại thú này đều ăn cỏ, lá cây, các
loại lá có mùi nồng như lá bù xít Ageratum conyzoides. Nhiều nơi ở Việt Nam gọi bù xít là hoa cứt lợn. Người Anh gọi là goat’s weed có lẽ vì dê thích ăn loại lá có mùi hôi nồng này. Dê con ăn cả lá dứa, lá bã đậu và cây xương rồng. Lá so đũa Sesbania grandiflora
là thức ăn ưa thích nhất của dương tộc. Dê đực già có râu và có sừng.
Thỏ chỉ có tai dài. Dê và thỏ đều sợ ẩm. Phân dê và phân thỏ đều cứng
và không có công dụng lớn trong đời sống nông nghiệp ở Việt Nam. Ở Việt
Nam chỉ có cộng đồng người Ấn hay người Chàm nuôi dê để ăn thịt và uống
sữa mà thôi.
Dê
được các dân tộc Á Châu và đông Địa Trung Hải thuần hóa cách đây 9,000
năm. Ngày nay dê được nuôi khắp thế giới. Dê có thể sống ở vùng khí
hậu khô hạn, miền núi và miền khí hậu ôn đới, lạnh hay bán hàn đới như
Alaska, tây bắc Canada và Hoa Kỳ. Có 600 giống dê khác nhau trên thế
giới.
Ở
Trung Đông và Hy Lạp có nhiều loại dê hoang. Loại dê núi lông trắng,
thẳng và dày ở Alaska, tây bắc Canada và tây bắc Hoa Kỳ là loại dê
hoang. Loài dê này có thể nhảy từ vách núi này sang vách núi kia một
cách dễ dàng. Điều này cho thấy chân của dương tộc rất khỏe nên có thể
leo cây, leo núi và nhảy từ mõm đá này sang mõm đá khác dễ dàng.
Giống dê nhỏ nhất là dê lùn Pakistan cao lối 46 cm (1.5 feet) và cân nặng 09 ki-lô (20 pounds). Trái lại dê Ibex Capra aegagrus
sống hoang dã trong miền núi ở Trung Á, Nubia, Ai Cập, núi Alps, Tây Bá
Lợi Á cao đến 1.07 m (3.45 feet) và cân nặng đến 135 ki-lô (300
pounds).
Về
màu sắc dê có lông màu đen, trắng, xám, đỏ và hung đỏ. Dê đực và cái
đều có râu. Dê đực già có sừng cứng, dài và nhiều râu. Loại dê Tahr
trên dãy Hi Mã Lạp Sơn Hemitragus jemlahicus, dê núi Oreamnos americanus ở tây bắc Canada và Hoa Kỳ, dê Markhor Capri falconeri
có lông dài và dày để chống lạnh. Dê từ 01 tuổi đến 1.5 tuổi rưỡi có
thể bắt cặp. Dê mang thai trong 145- 150 ngày thì sinh con. Mỗi con dê
cái sinh từ 02 đến 03 con. Dê mới sinh có thể đứng dậy vài phút sau khi
sinh. Dê con lớn rất nhanh. Sau khi sinh hai ngày dê con vừa bú sữa
mẹ vừa tập ăn lá cây và tập leo, nhảy trên các mõm đá. Dê mẹ sinh con
sau 05 tháng thì có thể bắt cặp để có những lứa dê con khác.
Người
ta nuôi dê Saanen, Toggenberg, Alpine để lấy sữa. Một con dê Saanen ở
Thụy Sĩ có thể cho 900 lít sữa mỗi năm. Dê Nigeria cung cấp da. Dê
Angora cho lông trắng mịn rất đẹp dùng để dệt vải mohair nổi tiếng. Dê La Mancha và dê Tây Ban Nha Capra pyrenaica (tiếng Tây Ban Nha: cabra montes) cho nhiều thịt, sữa, lông và da.
Thân thuộc gần của dê là trừu mang tên khoa học Ovis aries.
Về hình dáng và trọng lượng dê và trừu gần như nhau. Tuổi bắt cặp (1.5
tuổi) và thời gian mang thai của trừu và dê cũng ngang nhau: 145- 150
ngày. Trừu có nhiều lông hơn dê. Những loại dê vùng khí hậu ôn, hàn
đới cũng có lông dày. Lông dê thẳng; lông trừu dày và xoăn lại. Đuôi
dê và trừu đều ngắn. Đuôi dê dỉnh lên; đuôi trừu cụp xuống. Dê năng
động, leo trèo khi ăn lá cây trên cao. Trừu có vẻ chậm chạp và hiền hòa
hơn. Tuy dê và trừu là thân thuộc rất gần, sự pha chủng giữa dê và trừu
đến nay vẫn chưa được kiểm chứng rõ ràng ngoại trừ một trường hợp thành
công khi chủng giống giữa một con dê đực và một con trừu cái. Nhưng đây
là một trường hợp thành công đơn lẻ.
Sơn dương ( chamois) mang tên khoa học Rubicapra rubicapra
là thân thuộc của dê ở miền núi. Móng chân sơn dương rất đặc biệt nên
khi phóng nhảy trên vách núi đá không bị trợt hay té ngã. Sơn dương
được tìm thấy nhiều trên bán đảo Balkans, dãy núi Caucasus, Altai, Alps.
Ở miền Nghệ An và Hà Tĩnh có một loại sơn dương được liệt vào loài sơn
dương hiếm quí vì ít thấy trên thế giới.
Linh dương ( antelope)
là thân thuộc xa của dê có vóc dáng to lớn, sừng dài và uốn khúc trong
khuôn mặt dê, trừu và thân xác khá to của bò con. Có những con linh
dương Eland cân nặng đến 1,000 ki- lô! Địa bàn sống của linh dương là
các thảo dã Phi Châu. Các loài linh dương thường thấy là linh dương
Kudu Tragelaphus strepsiceros, linh dương Eland Taurotragus oryx rất nặng cân, linh dương Nilga Boselaphus tragocamelus, linh dương Duiker Sylvicapra grimmia
ăn lá cây, trái cây, chuột, ếch, nhái và có thể nhịn khát trong một
thời gian dài. Khi trời mưa chúng không cần uống nước. Linh dương
Duiker cái to lớn và nặng cân hơn linh dương đực. Linh dương Statunga Tragelaphus spekei thường được tìm thấy ở các đầm lầy.
Linh dương Eland
DƯƠNG TỘC TRONG XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI
Loài
người biết thuần hóa dương tộc từ 9,000 năm trước. Dê trừu được nuôi
thành đàn để lấy thịt, sữa, lông và da. Trên thế giới hiện nay có gần
01 tỷ con dê và trên 01 tỷ con trừu. Trung Hoa có 150 triệu con dê; Ấn
Độ: 125 triệu con. Á Châu là nơi có nhiều dê nhất thế giới với 512
triệu con; Phi Châu: 295 triệu; Úc Đại Lợi: 3.5 triệu; Âu Châu: 16 triệu
và Mỹ Châu: 38 triệu. Trung Hoa nuôi nhiều trừu nhất thế giới với 136
triệu con; Úc Đại Lợi: 80 triệu; Ấn Độ: 65 triệu; Iran: 53 triệu; Tân
Tây Lan: 34 triệu; Anh: 33 triệu.
Người
Ấn Độ dùng thịt dê để nấu cà ri. Người Trung Hoa cho rằng dương nhục
bổ dương nên trân quí món dương nhục hầm thuốc Bắc. Người Hy Lạp, Ý Đại
Lợi, các dân tộc Trung Á, Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh thích ăn thịt dê,
huyết dê, gan dê và ngoại thận của dê.
Da dê dùng làm giày, bóp, túi xách. Ngày xưa ở Âu Châu người ta dùng da dê làm bình chứa rượu nho.
Lông dê dùng để sản xuất vải Mohair. Sữa dê dùng để uống, làm yogurt, làm phô- mai (cheese) .
Sữa dê bổ và dễ tiêu hóa hơn sữa bò. Vùng Brie thuộc hạt Seine et
Marne ở Pháp nổi tiếng về việc sản xuất phô- mai từ sữa bò và sữa dê.
Phô- mai làm từ sữa dê gọi là chèvre (con dê). Vùng Poitou và
thung lũng sông Loire nổi tiếng về phô- mai sữa dê. Truyền thống này
có từ thế kỷ VIII khi đạo quân Hồi Giáo Moors đánh chiếm Tây Ban Nha và
tiến về Tây Nam nước Pháp nên việc chăn nuôi dê phát triển với sự hiện
diện của đạo quân Hồi này. Người Ý gọi phô- mai sữa dê là caprino.
Chân của loài dê rất mạnh nên người ta dùng xương dê kết hợp cùng xương cọp (hổ cốt), xương trăn, xương khỉ để nấu cao.
Người
Ấn Độ, các dân tộc du mục ở Trung Á ăn nhiều thịt dê. Các nước Ả Rập
theo đạo Hồi ở Trung Đông ăn nhiều thịt trừu hơn thịt dê. Các món ăn
thịt trừu được các dân tộc sống quanh biển Địa Trung Hải (người Hy Lạp,
Ý, Pháp, Tây Ban Nha và các dân Ả Rập theo đạo Hồi) ưa thích. Sữa trừu
được dùng như sữa dê. Nó dùng để uống, làm yogurt, làm phô-
mai Roquefort ở Pháp, Manchego (Tây Ban Nha), Pecorino romano (Ý) v.v.
Úc Đại Lợi nuôi nhiều trừu để khai thác lông. Trừu nuôi được 06 tuổi
mới bắt đầu cắt lông dùng trong kỹ nghệ dệt len, sản xuất áo ấm. Thịt
trừu cũng được ưa thích tại đây.
Có
lối 800 loại trừu khác nhau trên thế giới. Các giống trừu nổi tiếng là
trừu Merinos, Rambouillet, Lincoln, Leicester, Costwold, Romney,
Suffolk, Hampshire. Dê và trừu mang nhiều lợi ích kinh tế cho loài
người. Dê tương đối khỏe mạnh hơn trừu. Về lợi ích kinh tế trừu có vẻ
quan trọng hơn dê vì cho nhiều thịt, sữa nhất là lông. Vào thế kỷ
XVII, XVIII Tây Ban Nha nổi tiếng với trừu Merinos. Họ cấm xuất cảng
loại trừu này. Nhưng cũng vì chăn nuôi nhiều trừu mà nhiều đất đai của
Tây Ban Nha trở nên cằn cỗi vì bị xâm thực. Vào thế kỷ XIX trừu bị bịnh
than ( anthrax) và chết rất nhiều ở Pháp và Âu Châu. Nhà bác học Louis Pasteur nghiên cứu vi trùng bịnh than Baccilus anthracis và bào chế ra thuốc chích nhằm chận đứng chứng bịnh tệ hại này hầu cứu vãn ngành chăn nuôi trừu của Pháp.
Ở
các xã hội du mục ở Trung Á, Trung Đông, Phi Châu, sự giàu có được đánh
giá qua đàn dê, trừu hay bò. Dê núi Ibex được người Ba Tư và Ai Cập
sớm thuần hóa. Trong các mộ cổ của vua chúa Ba Tư ngày xưa có tượng dê
Ibex. Hình ảnh dê cũng được tìm thấy trong mộ của vua Ai Cập
Tutankhamun.
Trong ngôn ngữ Việt Nam chữ dê xồm
trở thành một hinh dung từ ám chỉ người đàn ông thích tán tĩnh người
khác phái. Cho đến bây giờ người viết cũng chưa hiểu rõ ý nghĩa bóng
gió của hai câu thơ sau đây:
Dê xồm ăn trái khổ qua,
Ăn nhằm đậu đũa chết cha dê xồm.
Ăn nhằm đậu đũa chết cha dê xồm.
Đó
là thức ăn ngon của dê? Hay dê ăn các món đó thì ngã lăn ra chết? Khổ
qua và đậu đũa có hợp chất hóa học gì kỵ nhau? Dê ăn xương rồng có
gai và nhựa vẫn không bị trúng độc. Câu thứ hai nói về đậu đũa Vigna unguiculata? hay so đũa Sesbania grandiflora mà dê ưa thích?
- Trừu tổ cũng có nghĩa tương đương với dê xồm.
- Cà dái dê Solanum melongena là trái cà tím có hình giống ngoại thận của con dê đực.
- Treo đầu dê bán thịt chó là những cụm từ nói lên sự phỉnh gạt của người buôn bán bày hàng tốt nhưng bán hàng xấu.
- Dâm dương hoắc là một loại thảo mộc mang tên khoa học Epimedium grandiflorum
được dùng làm thuốc kích dục dựa vào thói quen của loài dê thường hay
tìm dê cái giao tình sau khi ăn lá cây dâm dương hoắc. Người Trung Hoa
gọi là Yin yang huo (Âm Dương Hoắc) hay Tiên Linh Bì ( Xian ling pi).
Chữ Dương trong Âm Dương Hoắc không liên hệ gì đến loài dê cả (Âm -;
Dương +). Chữ Âm (Yin) được âm trại thành Dâm. Người Anh gọi dâm dương
hoắc là horny goat weed (dương giác thảo) .
- Dương giác (sừng dê), dương can (gan dê), dương huyết (huyết dê), dương nhu (sữa dê), dương nhục (thịt dê), dương thận (ngoại thận của dê đực) được xem như những bài thuốc bổ dương trong Đông Y.
- Cừu non là từ ngữ ám chỉ người ngây thơ, thiếu kinh nghiệm. Chữ sheep ngoài nghĩa là con trừu con có nghĩa là ngây thơ, nhút nhát.
Tương
truyền rằng năm 1883, lúc vua Hiệp Hòa làm lễ đăng quang, nhà vua thấy
một đàn dê đi qua cầu. Vua cho đó là điềm bất lành vì dê là Dương.
Người Âu Châu kể cả Pháp được gọi là người Tây Dương. Lúc bấy giờ người
Pháp muốn thiết lập nền bảo hộ ở Bắc và Trung Kỳ. Vua Hiệp Hòa muốn
thương nghị với Pháp để loại bỏ ảnh hưởng của hai quan nhiếp chánh lộng
quyền lúc bấy giờ là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Hiệp ước năm
Quí Mùi 1883 (hòa ước Harmand) được ký kết công nhận sự bảo hộ của Pháp ở
Trung- Bắc Kỳ. Hiệp ước vừa ký xong vua Hiệp Hòa bị ép uống thuốc độc
chết. Quan phụ chánh Trần Tiễn Thành bị giết chết tại nhà vì không cùng
đường lối cực đoan với hai quan phụ chánh Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn
Tường.
Từ
khi đề 40 con được phổ biến sâu rộng ở Nam Bộ, dương tộc mang số 35.
Từ đó số 35 tượng trưng cho người có nhiều dương tính thích ve vãn phụ
nữ.
Trong truyện Tàu có Tô Vũ (Su Wu), sứ giả nhà Hán, bị Hung Nô đày lên Bắc Hải chăn dê.
Trong khoa phong thủy ( geomancy) Trung Hoa có thế đất Hổ trục quần dương (cọp đuổi đàn dê) được xem là thế đất tốt mang lại lợi lộc và quyền hành.
Văn sĩ Alphonse Daudet của Pháp có viết về dê trong Le Chèvre de Monsieur Seguin. Văn sĩ Rabelais đề cập đến Dê trong Garguantua et Pantagruel.
La Fontaine có bài ngụ ngôn Le Loup et l’Agneau (Chó Sói và Cừu Non) mở đầu bằng câu La raison du plus fort est toujours la meilleure (Lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng) như một chân lý cay đắng phũ phàng bất di dịch với không gian và thời gian.
Capra là tiếng La Tinh chỉ con Dê. Những chữ capri, capric, caprice, capricious (hay thay đổi), Capricorn đều có liên hệ đến dương tộc.
Ở Ý có đảo Capri rộng 14 km2. Vào thập niên 1950, 1960 ở Âu Châu có một loại xe gắn máy hiệu Capri.
Ở Namibia (Phi Châu) có dải Caprivi Strip dài 450 km và rộng từ 30- 105 km.
Capri fig hay goat fig là một loại trái sung mang tên khoa học Ficus carica sylvestris.
Capric acid hay Decanoic acid C10 H20 O2 là ác xít tìm thấy nhiều trong sữa dê. Ác xít capric có mùi khó ngửi. Nó được dùng trong ngành sản xuất nước hoa, đồ plastic, cao su, kỹ nghệ dược phẩm, mỡ dầu cho máy xe.
Goat weed là cây bù xít có mùi rất nồng. Nông dân thường chặt cây bù xít đặt dưới các mô khoai lang để khoai có nhiều củ.
Tiếng Pháp chèvre là con dê. Chèvrefeuille là kim ngân hoa Lonicera japonica.
Trong thực vật học có gia đình dương diệp Caprifoliaceae.
Trong thiên văn học có sao Capricorn tức Dương Tinh. Chòm sao Capricorn nằm giữa chòm sao Sagittarius và Aquarius.
Trong la bàn tử vi Tây Phương sao Capricorn
nằm trên cung thứ 10. Người sinh trong khoảng thời gian từ ngày 22
tháng 12 đến 19 tháng giêng dương lịch chịu ảnh hưởng của sao Capricorn. Người Anh cũng dùng chữ Goat (Dê) để ám chỉ người dâm loạn.
Trong 40 số đề Dê chiếm số 35 sau con Nai (số 34) và trước con Chồn (số 36).
Dê
là một trong 12 con giáp được biết dưới tên Mùi hay Vị. Năm Mùi theo
sau năm Ngọ và đứng trước năm Thân. Năm Mùi là năm Âm (-). Ta có:
- Ất Mùi (1895, 1955, 2015, 2075)- Hành Kim
- Đinh Mùi (1907, 1967, 2027, 2087)- Hành Thủy
- Kỷ Mùi (1919, 1979, 2039, 2099)- Hành Hỏa
- Tân Mùi (1871, 1931, 1991, 2051, 2111)- Hành Thổ
- Quí Mùi (1883, 1943, 2003, 2063)- Hành Mộc
Giờ Mùi kéo dài từ 01 giờ trưa đến 03 giờ trưa
Tháng
Mùi là tháng 06 Âm Lịch. Năm Mùi ứng vào sao Thiên di (thường hay di
chuyển, sống xa sinh quán, làm công việc có tính cách lưu động v.v.).
Người có mắt dê (goat’s eyes) thì cô đơn, ương ngạnh và sớm mồ côi.
Tuổi
|
Hợp
|
Không Hợp
|
Mùi
|
Mão, Hợi, Ngọ
|
Thìn, Tuất, Sửu, Tí
|
BIẾN CỐ LỊCH SỬ QUAN TRỌNG VÀO NĂM MÙI CỦA THẾ KỶ XX
- 1907: Phong Trào Duy Tân ở Việt Nam; Trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội; hội nghị hòa bình La Haye
-
1919: Hiệp ước Versailles; sự ra đời của Cộng Hòa Weimar ở Đức;
Phong Trào Ngũ Tứ ở Trung Hoa; Chương Trình Tám Điểm của Nhóm Ngũ Long ở
Paris do Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh sau này) mang đến hội nghị
Versailles.; Hoa Kỳ thực hiện chuyến bay vượt Đại Tây Dương lần đầu tiên
trên thế giới; sự ra đời của Camicia Nera ở Ý (Đội Quốc Gia Chiến Đấu Áo Đen); sự thành lập Tổ Chức Quốc Tế Lao Động (ILO)
-
1931: Báo động ở Quảng Ngãi dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Đông
Dương; Nhật chiếm Mukden (bây giờ là Shenyang- Thẩm Dương) ở Mãn Châu;
tác phẩm Good Earth của Pearl Buck, nữ văn sĩ Hoa Kỳ biết
nhiều về phong tục, tập quán của người Trung Hoa; Mao Zedong (Mao Trạch
Đông) lập Cộng Hòa Sô viết Giang Tây (Jiangxi)
-
1943: Trận đánh Stalingrad; quân Hoa Kỳ đổ bộ lên Ý Đại Lợi; Thủy
Quân Lục Chiến Hoa Kỳ chiếm đảo Gilbert tức đảo Kiribati bây giờ (Thái
Bình Dương); hội nghị thượng đỉnh ở Teheran (Churchill- Stalin-
Roosevelt); hội nghị Quebec (Anh và Hoa Kỳ).
-
1955: Hội nghị thượng đỉnh Anh- Pháp- Hoa Kỳ- Liên Sô ở Geneva;
trưng cầu dân ý ở miền Nam Việt Nam nhằm lật đổ quốc trưởng Bảo Đại
(23-10); hiệp ước Thân Hữu, Hợp Tác và Hổ Tương ký ở Warsaw giữa Liên Sô
và 07 quốc gia Cộng Sản Đông Âu (không có Liên Hiệp Nam Tư-
Yugoslavia).
-
1967: Hội nghị Manila giữa tổng thống Hoa Kỳ Johnson và tướng Nguyễn
Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ; hiến pháp đệ nhị VNCH; tướng Nguyễn Văn
Thiệu đắc cử tổng thống; chiến tranh 06 ngày giữa Do Thai- Ai Cập+
Syria+ Jordan.
-
1979: Chiến tranh biên giới giữa CHXHCNVN và CHNDTQ sau khi quân Cộng
Sản Việt Nam xâm chiếm Cambodia lật đổ chánh quyền Pol Pot theo chủ
nghĩa Maoist; vua Pahlavi của Iran bị lật đổ; Iran trở thành Cộng Hòa
Hồi Giáo Iran; 63 người Hoa Kỳ bị bắt làm con tin.
-
1991: Chiến tranh vùng Vịnh; đảo chánh ở Liên Sô; Gorbachev bị lật
đổ. Ông trở thành người lãnh tụ Cộng Sản cuối cùng. Liên Sô tan rã.
-
2003: Phi thuyền con thoi Columbia bốc cháy, 07 phi hành gia tử nạn;
Liên Bang Yugoslavia (Nam Tư) đổi quốc hiệu Serbia & Montenegro;
chiến tranh Iraq do Anh và Hoa Kỳ chủ động; Hu Jintao (Hồ Cẩm Đào) cầm
quyền ở CHNDTQ (chủ tịch và tổng bí thơ đảng Cộng Sản); Trung Quốc phóng
phi thuyền Shenzhou 5 (Thẩm Châu) có người; bức nhiệt ở Paris (44 độ C-
112 độ F- 144 người chết; cựu tổng thống Iraq Saddam Hussein bị bắt ở
nơi sinh quán Tikrit (13- 12).
NHÂN VẬT QUAN TRỌNG SINH VÀO NĂM MÙI
1. Mikhail S. Gorbachev
(1931- ) là người lãnh đạo trẻ tuổi nhất ở Liên Sô (54 tuổi).
Gorbachev có tư tưởng cởi mở hơn tất cả các nhà lãnh đạo Cộng Sản ở Liên
Sô từ thời Stalin đến Chernenko. Người ta cho rằng ông chịu ảnh hưởng
của vợ ông, Raisa, người từng dạy ông ở đại học. Thực tế ông Gorbachev
ghê sợ chế độ Cộng Sản. Gia đình của ông là nạn nhân của chế độ và trải
qua những phút kinh hoàng dưới thời Đại Thanh Trừng do Stalin phát
động. Đường danh vọng của ông mở rộng nhờ khả năng và sự nhẫn nhục của
ông nhất là sự giúp đỡ tận tình của ông Andropov, người đồng hương với
ông. Andropov (1914- 1984) là trùm KGB và lãnh đạo của Liên Sô từ năm
1982 đến 1984 sau khi Brezhnev chết. Gorbachev lên cầm quyền với tư
cách chủ tịch nhà nước và tổng bí thơ đảng năm 1985 sau khi Chernenko
chết đột ngột. Ông thực thi perestroika nhằm cải cách kinh tế và xã hội và glasnost
tức đường lối cởi mở, lành mạnh hóa xã hội chống tham nhũng và tệ đoan
xã hội. Đối với các nước Tây Phương ông chủ trương tài giảm binh bị.
Năm 1988 Liên Sô rút quân khỏi Afghanistan. Năm 1989 chế độ Cộng Sản
sụp đổ ở các nước Đông Âu. Đông và Tây Đức thống nhất. Năm 1989 là năm
Gorbachev ban hành luật bầu cử bắt buộc đảng viên Cộng Sản phải ra
tranh cử đương đầu với ứng cử viên không Cộng Sản. Năm 1990 ông được
bầu làm tổng thống đầu tiên của Liên Sô. Cũng năm này ông lãnh giải
thưởng Nobel Hòa Bình. Năm 1991 Gorbachev bị đảo chánh. Chế độ Cộng Sản
cáo chung ở Liên Sô.
2. Boris Yeltsin
(1931- 2007) là tổng thống Nga đầu tiên sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ ở
Liên Sô. Yeltsin xuất thân từ một gia đình nông dân khá giả trước cách
mạng tháng 10. Vì lẽ đó cha ông bị xem là thành phần chống chế độ Cộng
Sản và bị đưa vào trại cải tạo tập trung lao động. Khác với Gorbachev,
Yeltsin không phải là một người học giỏi mà một người hiếu động, thích
thể thao, đánh vật. Vì trộm một trái lựu đạn và vì không biết sử dụng
lựu đạn nên lựu đạn nổ làm có một bàn tay của ông bị mất gần hết các
ngón. Yeltsin được sự nâng đỡ của Gorbachev. Ông là người mạnh dạn xé
thẻ đảng Cộng Sản và công khai chỉ trích Gorbachev cải cách quá chậm.
Khi xe tăng đảo chánh Gorbachev xuất hiện ở Moscow ông đứng trên xe tăng
lên án các quân nhân chủ trương đảo chánh. Cá nhân ông Gorbachev được
an toàn nhưng ông phải từ chức. Liên Sô giải thể. Yeltsin được bầu
làm tổng thống đầu tiên của Liên Bang Nga (1991). Dưới thời cai trị của
ông nước Nga rơi vào tình trạng hỗn loạn, vô trật tự do tệ nạn du
đãng, tứ đổ tường, sự suy lụn kinh tế gây ra. Yeltsin là người nghiện
rượu. Trong cuộc khủng hoảng giữa hành pháp và lập pháp ông giải tán
quốc hội và cho nã đạn bắn vào quốc hội. Năm 1996 ông tái đắc cử.
Nhưng sự lãnh đạo của ông càng ngày càng kém cỏi hơn. Năm 1999 ông từ
chức và chọn Putin xử lý quyền tổng thống cho đến khi tổ chức cuộc bầu
cử khác. Ông mất năm 2007.
3. John Maynard Keynes
(1883- 1946) là nhà kinh tế lỗi lạc của Anh giữa hai thế chiến và giáo
sư đại học Cambridge nơi cha ông giảng dạy và bản thân ông từng tốt
nghiệp đại học nổi tiếng này. Ngay từ lúc mới vào lớp mẫu giáo Keynes
đã nổi tiếng về khả năng toán học. Ông đậu cử nhân toán với điểm số cao
nhất vào năm 1904. Giáo sư và là nhà kinh tế nổi tiếng Alfred
Marshall khuyến khích Keynes theo học kinh tế học. Năm 1909 bài viết
kinh tế đầu tiên của Keynes được phát hành. Năm 1911 ông là chủ bút tờ Economic Journal.
Ông Keynes có tham dự hội nghị Versailles năm 1919. Ông khó chịu trước
những đòi hỏi bồi thường quá nặng của Pháp đối với Đức. Ông viết The Economic Consequences of Peace
(Những Hậu Quả Kinh Tế Thời Bình) để tiên liệu những khó khăn kinh tế
mà Đức phải đương đầu sau hiệp ước Versailles. Ông Keynes chỉ trích Anh
duy trì kim bảng vị. Đồng bảng Anh có giá trị cao nhưng gây trở ngại
cho việc xuất cảng hàng hóa Anh, nạn thất nghiệp tăng vọt thời hậu đệ
nhất thế chiến. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới Hoa Kỳ và Anh
bị ảnh hưởng nặng nề. Kinh tế gia Keynes chủ trương chống tăng thuế,
chống chánh sách khắc khổ, chống việc sụt giảm chi tiêu của chánh phủ.
Ông chủ trương chánh phủ phải can thiệp để chấm dứt khủng hoảng kinh tế,
gia tăng vay mượn nợ và chi xài để tạo công ăn việc làm cho một số tài
nguyên nhân lực thất nghiệp ngồi nhà chịu đói khổ vì không có công ăn
việc làm. Năm 1942 John Maynard Keynes được phong tước quí tộc. Ông
tham dự hội nghị Bretton Woods với Hoa Kỳ và có vai trò quan trọng trong
dự án thành lập World Bank (Ngân Hàng thế giới) và International
Monetary Fund (Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế). John Maynard Keynes mất năm 1946.
4. Benito Mussolini
(1883- 1945) là nhà độc tài phát xít Ý gốc là một giáo viên, một hạ sĩ
trong đệ nhất thế chiến. Ông đả kích những sắp xếp của hội nghị
Versailles và thành lập đảng cực hữu cấp tiến gọi là đảng Phát Xít ( fascio:
bó, chùm tượng trưng cho sự liên kết, liên minh). Mussolini thành công
trong việc cướp chánh quyền bằng bạo lực năm 1922. Ông có tham vọng
biến nước Ý thành một đế quốc như đế quốc La Mã ngày xưa. Năm 1936 Ý
sáp nhập Ethiopia. Trong ba quốc gia trong phe Trục, Nhật ở Á Châu; Đức
và Ý ở Âu Châu, Ý là quốc gia yếu nhất trong phe Trục. Từ tham vọng
đế quốc Mussolini phải nhờ sự giúp đỡ và bảo vệ của Đức Quốc Xã. Quân
Đồng Minh đổ bộ vào miền Nam nước Ý năm 1943. Mussolini lẩn trốn ở
Salo ở miền Bắc. Năm 1945 ông bị Cộng Sản Ý bắt cùng với tinh nhân là
Clara Petacci. Cả hai bị xử bắn ở làng Giulino di Mezzegra. Thầy của
Mussolini bị treo ngược đầu ở thành phố Milan.
5. Juan Dominico Peron
(1895- 1974) là nhà độc tài quân nhân ở Argentina. Ông làm tổng thống
ba lần: 1. từ 1946- 1951, 2. từ 1951- 1955 (bị đảo chánh), 3. 1973-
1974. Ông có ba đời vợ. Bà vợ thứ nhất là Aurelia Tizon chết năm 1938.
Bà vợ thứ hai là Eva Duarte là người đã giúp ông trên đường danh vọng.
Người vợ thứ ba là Isabel Martinez. Ông cưới bà Isabel năm 1961 sau
khi mất chánh quyền 06 năm. Năm 1955 Peron bị lật đổ. Ông bỏ chạy sang
Panama rồi sống lưu vong ở Tây Ban Nha dưới sự che chở của nhà độc tài
Franco. Năm 1973 Peron về nước và được đắc cử tổng thống. Vợ ông, bà
Isabel, là phó tổng thống. Năm 1974 ông mất. Bà Isabel trở thành nữ
tổng thống đầu tiên ở Tây Bán Cầu. Bà vợ thứ hai và thứ ba của Juan
Peron đều sinh vào năm Mùi và có tên tuổi lớn trên chánh trường
Argentina.
Bà Eva Duarte Peron được biết dưới tên Evita
(1919- 1952) là một ngôi sao điện ảnh. Bà trở thành một huyền thoại ở
Argentina. Chính những công tác xã hội và tôn giáo của bà giúp cho
tướng Peron thành công lớn trong sự nghiệp chánh trị. Bà luôn luôn đấu
tranh cho nữ quyền, cho người lao động, cho những người mình trần không
áo che thân ( Descamisados). Bà giữ chức tổng trưởng Y Tế và
Lao Động dưới thời tổng thống Peron. Năm 1951 bà được Peron đưa lên làm
phó tổng thống. Năm sau bà mất vì bịnh nan y trước sự thương tiếc của
giới lao động, các nhà hoạt động từ thiện Thiên Chúa Giáo. Hàng trăm
ngàn người tiễn đưa bà đến nơi an giấc ngàn thu. Giới quân phiệt và
thượng lưu giàu có ở Argentina không có thiện cảm với bà. Evita (Tiểu Eva) là tựa đề của một cuốn phim nói về cuộc đời và những hoạt động xã hội, cứu tế và nhân quyền của bà. Bài hát Don’t Cry For Me, Argentina (Argentina, Xin Đừng Khóc Cho Tôi) nổi tiếng là bài hát tán tụng công đức của bà đối với quê hương Argentina của bà.
Bà Isabel Peron
(1931- ) là vợ thứ ba của Peron. Bà là một nữ ca sĩ gặp ông Peron năm
1955 ở Panama sau khi Peron bị lật đổ. Năm 1961 Peron cưới bà làm vợ và
đưa bà về Tây Ban Nha. Năm 1965 bà Isabel về Argentina móc nối với các
ủng hộ viên của tổng thống Peron. Năm 1973 Peron từ Tây Ban Nha về
nước tham dự cuộc bầu cử tổng thống và được đắc cử. Bà Isabel trở thành
phó tổng thống. Năm 1974 Peron mất. Bà Isabel trở thành tổng thống
xứ Argentina. Khác với bà Evita, bà Isabel là người thất nhân tâm,
không được sự mến chuộng của dân chúng Argentina. Bà không có đường lối
hay chánh sách gì rõ rệt mà mải mê bói toán. Bà áp lực tổng thống
Peron trọng dụng thầy bói José Lopez Raga trong chánh phủ. Ông này điều
khiển tổ chức 3A (AAA) tức Liên Minh Argentina Chống Cộng (Argentina
Anti- Communist Alliance) gây khủng khiếp cho các đảng viên Cộng Sản,
những người tả khuynh thân Cộng và những người đối lập với bà Isabel,
chỉ nhắm mục đích củng cố địa vị cho nữ tổng thống. Năm 1976 quân đội
đảo chánh. Bà Isabel Peron bị cầm tù đến năm 1981 mới được thả và sống
lưu vong ở Tây Ban Nha. Chánh phủ Argentina đòi dẫn độ bà về xứ để làm
nhân chứng về những hoạt động đẫm máu của tổ chức 3A nhưng chánh phủ Tây
Ban Nha từ chối viện lẽ bà đã già yếu (2008).
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
0 comments:
Post a Comment