BBT:
Chúng tôi nhận được điện thư của bà Hàn Giang Trần Lệ Tuyền nói đến
việc nhận thức sớm sủa của VNCH về đại nạn Cọng Sản Việt Nam để so sánh
với nhận thức của ông Hà Tiến Nhất được bà cho là thiếu sót. Xin phổ
biến đến quý độc giả để có thêm nhận định về đề tài này.
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền VS Duyên Lãng Hà Tiến Nhất
1 - Điện thư của bà Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
From: Tran Marie
Date: Wed, 4 Feb 2015 00:08:09 +0100
Subject: Kính gửi quý vị ban Điều Hành Ba Cây Trúc
Date: Wed, 4 Feb 2015 00:08:09 +0100
Subject: Kính gửi quý vị ban Điều Hành Ba Cây Trúc
Trước 30/4/1975, tại miền Nam: VNCH đã biết, đã nói CSVN là tay sai của Tầu-Nga.
* Hàn Giang Trần Lệ Tuyền*
Kính thưa quý vị trên các diễn đàn,
Chúng tôi mới đọc được bài: “Hào quang hết sáng” hay câu chuyện “Cái Mũ Đổi màu” của tác giả Duyên Lãng Hà Tiến Nhất.
Kính thưa quý vị,
Từ
lâu, chúng tôi đã không muốn nhắc tới ông Hà Tiến Nhất. Thế nhưng, nay
với bài viết nói trên, trong đó, có những điều như ông Hà Tiến Nhất đã
trích của sử gia Phạm Văn Sơn, hay những “phân tích” về “người Miêu Tử,
Lô Lô, Mán, Lái, Lê, Dao, Xa, Đản, Đông, Man di…”, kể cả những chuyện
khác, thì chúng tôi không cần phải nói đến.
Tuy
nhiên, vì có một câu của ông Hà Tiến Nhất đã viết hoàn toàn sai, khiến
cho giới trẻ sẽ không biết đâu là sự thật. Vì thế, buộc lòng chúng phải
lên tiếng; nhưng người viết chỉ muốn nói với quý vị độc giả trong và
ngoài nước, chứ không phải nói riêng với ông Hà Tiến Nhất. Đó là câu
này:
“Ông
VT là nhà báo đầu tiên từ trong nước ra đã dám vạch trần tội ác Hồ Chí
Minh và đảng CSVN là làm tay sai cho Liên Sô và Tầu cộng”.
Ông
Hà Tiến Nhất, hoàn toàn có quyền bênh chủ. Việc làm đó, người ta thường
khen là “Trung Thành với chủ, có khi chủ chết rồi, vẫn ngồi bên cạnh mả
mà… khóc!”.
Thế
nhưng, khi ông Hà Tiến Nhất viết “Việt Thường là người đầu tiên vạch
trần tội ác Hồ Chí Minh và CSVN là tay sai cho Liên sô và Tầu cộng”, thì
hoàn toàn sai.
Là
người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa, trước Ngày Quốc Hận: 30/4/1975,
những người có kiến thức, ai cũng biết có nhiều vị đã viết về Tội Ác của
Hồ Chí Minh, cũng như đảng Cộng sản Việt Nam là tay sai của Nga-Tầu.
Mặc dù thế, nhưng chỉ những người thuộc hàng “chính khách” hoặc có tên
tuổi đã nói, đã viết ra, thì mới được lưu lại cho đến bây giờ và mai
hậu.
Và
một người đã được cả thế giới biết đến; đó là Ông Ngô Đình Nhu đã viết
những Lời Tiên Tri về đại họa Tầu cộng, cách đây hơn nửa thế kỷ trong
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM!
Người thứ hai, cũng đã viết lên thành một bản nhạc, đó là Nhạc sĩ Anh Việt Thu với bài: Vuốt Mặt!
Bài
Vuốt Mặt, đã do Nhạc sĩ Anh Việt Thu viết cho trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa,
1972. Và bài này, đã được CỤC CHÍNH HUẤN Việt Nam Cộng Hòa hát vào thời
điểm ấy.
Điều
này, đã cho mọi người thấy: Nếu như ông Hà Tiến Nhất là một “Sĩ Quan
Chiến Tranh Chính Trị” của QLVNCH, mà lại không biết tới bản nhạc này,
thì quả thật ông Hà Tiến Nhất là “Sĩ quan ma”. Bằng không, thì chỉ vì
nóng lòng phải bênh chủ, theo sự thường tình của “lòng trung thành với
chủ!”.
Mặt
khác, không riêng gì những công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa, mà
chính Lê Duẩn , đã không che giấu, khi công khai nói rằng: “Ta đánh
Mỹ, là đánh cho Liên sô, cho Trung quốc”.
Vậy,
nhân đây, người viết xin kính mời quý vị nghe lại bài Vuốt Mặt, của
Nhạc sĩ Anh Việt Thu. Một bài hát, mà vào trận chiến Mùa hè Đỏ Lửa 1972,
đã được phát thanh trên Đài Phát Thanh Quân đội, và các đài phát thanh
khác tại miền Nam, mà có lẽ nhiều người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa,
đã nghe, và hiện nay có lẽ vẫn còn nhớ. Bản nhạc này, có cả lời ca đầy
đủ như trong Video dưới đây:
Theo tiểu sử của Nhạc sĩ Anh Việt Thu:
Anh
Việt Thu tên thật Huỳnh Hữu Kim Sang sinh năm 1940 tại Mỹ Tho, là quân
nhân QLVNCH, thuộc binh chủng Địa Phương Quân tại Bình Triệu, Thủ đức.
Năm 1970 về Phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến Việt Nam Cộng Hòa. Mất năm
1974 tại Sài Gòn.
Vuốt
Mặt! với âm điệu và lời ca rất đau thương, khóc cảnh thường dân phải
bỏ nhà cửa mồ mả tổ tiên mà chạy loạn, tránh quân Cộng sản Bắc Việt đánh
vào Quảng Trị vào Mùa Hè đỏ lửa 1972.
Người viết nhớ những lời ca, có đoạn như sau:
“Tổ Quốc vấn khăn tang
Mây che phủ đầu
Trên xóm làng thị trấn thân yêu ...
Những gì người đã hứa : nào là dân chủ tự do.
Người hãy nhìn chân tay xương máu của dân mình !
Người hãy nhìn trên con đê phơi xác chết phanh thây !
Người hãy nhìn trên con sông trôi xác chết vật vờ
Trên gốc rạ trên lúa trên cây !
Trên búi cỏ trên rẫy trên nương !
Ô hay, ô hay, “chiến tích giải phóng, hòa bình” của Cộng Nô Bán Nước, là tay sai của Tầu-Nga…..
Tổ Quốc vấn khăn tang
Mây che phủ đầu
Trên xóm làng thị trấn thân yêu ...
Nhà nhà ra tro ra khói bốc cao trời
Người dân không cơm không áo rét căm căm
Người dân tay ôm tay bế bỏ quê nhà
Xa đất mẹ xa xóm xa thôn
Xa nấm mộ xa luỹ tre xanh……”
Mây che phủ đầu
Trên xóm làng thị trấn thân yêu ...
Những gì người đã hứa : nào là dân chủ tự do.
Người hãy nhìn chân tay xương máu của dân mình !
Người hãy nhìn trên con đê phơi xác chết phanh thây !
Người hãy nhìn trên con sông trôi xác chết vật vờ
Trên gốc rạ trên lúa trên cây !
Trên búi cỏ trên rẫy trên nương !
Ô hay, ô hay, “chiến tích giải phóng, hòa bình” của Cộng Nô Bán Nước, là tay sai của Tầu-Nga…..
Tổ Quốc vấn khăn tang
Mây che phủ đầu
Trên xóm làng thị trấn thân yêu ...
Nhà nhà ra tro ra khói bốc cao trời
Người dân không cơm không áo rét căm căm
Người dân tay ôm tay bế bỏ quê nhà
Xa đất mẹ xa xóm xa thôn
Xa nấm mộ xa luỹ tre xanh……”
Ba
bài ca này đăng trong tập nhạc “CA KHÚC ĐƯỜNG CHÚNG TA ĐI” của tác giả
Anh Việt Thu đã xuất bản và bày bán nhiều trong các tiệm sách ở Sài Gòn
vào Mùa Hè Đỏ Lửa, năm 1972.
Kính thưa quý vị,
Với
bài viết ngắn này, người viết chỉ muốn nói rằng: Ông Hà Tiến Nhất, nghe
nói là một “Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị” của QLVNCH, sống tại miền
Nam, mà lại không biết bài Vuốt Mặt , của Nhạc sĩ Anh Việt Thu, người
từng phục vụ tại Phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến Việt Nam Cộng Hòa, đã
viết vào Mùa Hè Đỏ Lửa, 1972, vì đúng ra một Sĩ Quan CTCT thật phải
biết. Thế nhưng, ông Hà Tiến Nhất đã viết một điều, chỉ một điều này
thôi, điều mà nhiều người dân miền Nam đã biết, riêng ông Hà Tiến Nhất,
một “Sĩ quan Chiến Tranh chính Trị” mà đã viết hoàn toàn sai. Chính vì
vậy, cho nên, những điều khác do ông Hà Tiến Nhất viết ra, thì dẫu cho
đến cả muôn vạn lần, hay muôn vạn năm sau cũng không thể tin tưởng được.
Ngoài
ra, trước đây, tác giả Châu Văn Thịnh cũng đã có hai bài viết về ông Hà
Tiến Nhất, người viết xin kèm theo dưới đây; kính mời quý vị đọc lại,
để biết thêm nhiều điều khác hơn:
Duyên Lãng Hà Tiến Nhất KHÔNG phải là truyền nhân của Việt Thường?
Duyên Lãng Hà Tiến Nhất có phải là Truyền Nhân của Việt Thường?
(http://www.hon-viet.co.uk/ChauVanThinh_DuyenLangHaTienNhatCoPhaiLaTruyenNhanCuaVietThuong.htm)
(http://www.hon-viet.co.uk/ChauVanThinh_DuyenLangHaTienNhatCoPhaiLaTruyenNhanCuaVietThuong.htm)
Và
để tạm kết thúc, bài viết ngắn này, người viết chân thành cám ơn quý vị
trên các diễn đàn, cùng quý độc giả tại quốc nội, cũng như tại hải
ngoại.
Kính chúc quý vị cùng gia đình một năm mới Ất Mùi, luôn được Bằng An & Thăng Tiến.
Paris, ngày 03/03/2015 Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
2- Bài viết của Duyên Lãng Hà Tiến Nhất được gửi đính kèm:
HÀO QUANG HẾT SÁNG hay câu chuyện CÁI MŨ ĐỔI MẦU
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Sau
bài viết " Lằn ranh quốc-cộng: con đường Moran, Westminster", chúng tôi
nhận được một số ý kiến phản hồi (feedback), chung trên internet có,
riêng bằng email cũng có, riêng nữa qua phone của bạn bè cũng có luôn.
Đa số đồng cảm. Một số bắt bẻ, xuyên tạc. Của thành phần nào quí bạn đọc
thấy được. Có người mỉa mai pha chút đểu cáng: "Duyên Lãng Hà Tiến Nhất
chạy tội cho má Thảo." Những người này có định kiến rằng, tôi bênh vực
tờ SG Nhỏ, bà Hoàng Dược Thảo. Bản thân, tôi biết rất rõ, tôi chỉ bênh
vực sự thật và lẽ phải, làm lộ mặt những tên tay sai VGCS ẩn núp trong
các cơ quan truyền thông tiếng Việt tại hải ngoại. Một bên - tờ Người
Việt - tôi chẳng ân oán gì. Một bên - tờ SG Nhỏ - cũng chỉ quen biết sơ.
Tờ SG Nhỏ thường lấy bài của tôi phổ biến trên internet để đăng. Chuyện
bài vở, tôi đã từng nói công khai, những bài tôi gởi lên "báo trời"
(internet) đều là của chùa, ai muốn sử dụng tùy ý, miễn là không sửa
đổi, không cắt xén. Vấn đề kiện cáo giữa hai tờ báo NV và SG Nhỏ, tôi
viết như thế - thiển nghĩ - là đủ rồi.
Nhưng
bỗng xẩy ra lá thư của nhà văn Phan Nhật Nam gởi cho khoa học gia bà
Dương Nguyệt Ánh phổ biến trên internet, kêu gọi bà Ánh không nên dính
vào vụ kiện cáo này, và một vài e-mail khác ông PNN gởi cho những người
liên hệ với ông chung quanh vấn đề trên. Vì lẽ đó, tôi muốn viết thêm ít
điều. Bởi quan niệm rằng các chuyện lớn, chuyện nhỏ liên quan đến việc
kiện tụng giữa NV và SG Nhỏ đã là vấn đề có tính cách cộng đồng, chứ
không còn phải là chuyện riêng tư nữa, nên tôi có quyền viết và nên viết
nếu thấy cần. Kẻ hèn này tham gia đóng góp ý kiến về vấn đề của ông,
chắc nhà văn PNN không phiền trách. Vậy xin vào đề.
1. Vấn đề nhà báo Việt Thường
Cái
bia (target) mà nhà văn PNN nhắm vào - có lẽ không mấy ai để ý nhưng
phải lấy làm lạ - là nhà báo Việt Thường chứ không phải vụ kiện tụng.
Trong một email ông PNN viết gởi ngày 28-01-2015 cho hai người bạn không
quân của ông là NVChin và NXNghia, nhà văn PNN viết: "Tôi cũng chuyển
theo đây bài viết năm 2008 ( và những attachement) để nói lại chủ
điểm chính : TÔI ĐẶT VẤN ĐỀ VỚI BẮC KINH/CỤC TÌNH BÁO HOA NAM/TẬP ĐOÀN
BỌN HOA CỘNG TRẦN HÙNG VĂN CHỨ KHÔNG LIÊN HỆ GÌ VỚI VỤ KIỆN HÔM NAY
(2014) GIỮA NHỮNG NHÂN SỰ NƠI BÁO NV/SGN. " (xin xem tham chiếu số 1
bên dưới)
Trần
Hùng Văn tức nhà báo Việt Thường chắc cũng chẳng xa lạ gì với đa số bạn
đọc trên Net nên chúng tôi xin khỏi phải kể lể dài dòng về ông. Ông
Việt Thường có một số quan điểm và đường lối chính trị mà một số người
thù ghét ông luôn nêu ra để đánh phá ông, chẳng hạn:
-
Nhà báo Việt Thường xỏ xiên TT Ngô Đình Diệm chỉ xứng đáng là một viên
tù trưởng …. Đây là một quan điểm lệch lạc, có tính cách xúc phạm. Tuy
nhiên, chính chúng tôi đã nghe thấy nhà báo Việt Thường công khai xin
lỗi cố TT Diệm về sự xúc phạm này ít nữa là 2 lần. Điều trớ trêu là có
người còn chửi bới cố TT Diệm, ông bà cố vấn Ngô Đình Nhu tàn tệ hơn
nữa, nhưng họ lại vẫn cứ vin vào điểm này để vu cáo và đánh phá nhà báo
Việt Thường.
-
Nhà báo VT kêu gọi người trong nước nên ứng cử vào Quốc Hội Khóa 13 của
VGCS. Thực ra nhà báo VT có kêu gọi người dân trong nước nên ứng cử vào
Quốc Hội của VGCS để chống cộng. Những người ghét VT thêu dệt ác ý, vu
cho là ông kêu gọi người tỵ nạn tại hải ngoại về nước ứng cử. Thử đặt ra
câu hỏi để cân nhắc lợi hại. Trước kia bọn tay sai VGCS như Ngô Công
Đức, Lý Quí Chung, Đinh Văn Đệ, Kiều Mộng Thu v.v. vào Quốc Hội VNCH để
đánh phá chúng ta. Tại sao người chống cộng trong nước lại không được
quyền sử dụng chiêu "gậy ông đập lưng ông" này như bọn tay sai CS để
đánh CS nhỉ? Những kẻ đánh phá ông VT lý luận rằng, ứng cử vào Quốc Hội
của CS là mặc nhiên công nhận chế độ CS rồi. Vậy họ có tin rằng bọn tay
sai CS trong Quốc Hội VNCH đã công nhận chế độ VNCH của chúng ta?
Những
người thù ghét nhà báo VT lại cố tình quên đi lập trường và đường lối
của ông đối với vấn đề Hồ Chí Minh và đảng VGCS. Ông VT là nhà báo đầu tiên từ trong nước ra đã dám vạch trần
tội ác Hồ Chí Minh và đảng CSVN là làm tay sai cho Liên Sô và Tầu cộng.
Ông đã tố cáo tội ác lớn nhất của Hồ và đảng CS của hắn đối với dân
tộc VN là tội bán nước, điều mà nhà chống cộng nổi tiếng, Lm Nguyễn Hữu
Lễ, đã không dám làm khi cha lễ thực hiện cuốn DVD tố cáo tội ác của
HCM. Nhà báo VT gọi quân đội miền Bắc là bọn lính đánh thuê cho Đệ Tam
Quốc Tế CS. Ông còn nêu ý kiến tập hợp lực lượng chiến sĩ VNCH tại hải
ngoại để đương đầu với VGCS, vì chỉ có tập thể này mới có khả năng làm
được việc đó.
Không
hiểu nhà văn PNN căn cứ vào đâu để kết án nhà báo Việt Thường Trần Hùng
Văn là Hoa cộng, nằm trong cục tình báo Hoa Nam của Bắc Kinh? Nếu nhà
văn PNN có đủ bằng chứng xác tín, xin ông vui lòng nêu ra trước công
luận, vì đây là vấn đề rất quan trọng liên quan đến vận mệnh của cả dân
tộc chứ không phải đùa. Nếu ông PNN đưa ra đủ bằng chứng, tôi sẽ là
người tình nguyện xin đứng cạnh ông PNN để đối phó với tên tình báo Tầu
cộng này. Còn như nếu ông PNN chỉ tố cáo khơi khơi cho bõ ghét thì tội
lỗi và thất đức lắm. Ông nên giữ lại cái đức cho con cháu mai này thì
tốt hơn.
Nhà
văn PNN còn nêu ra cái bút hiệu "Việt Thường" của ông Trần Hùng Văn làm
bằng chứng để tố cáo ông VT là Tầu cộng. Xin hãy mở lịch sử đọc xem chữ
Việt Thường từ đâu ra rồi hãy nói. Sách "Việt Sử Toàn Thư" của cố Đại
Tá Phạm Văn Sơn, sử gia, nguyên trưởng Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực
VNCH, viết:
-
( trích) Sách xưa chép ở phía Nam đất Giao Chỉ, cuối đời Chu nước Việt
Thường đã có phen thông sứ với Chu Thành vương và có cống một con bạch
trĩ. Nước Việt Thường xuất hiện có lẽ đã lâu lắm từ đầu đời nhà Chu ở
trên địa bàn cũ của nước Tam Miêu (ở giữa hồ Động Đình và hồ Phiên
Dương), trung tâm điểm của nước ấy là xứ Việt Chương. Vua 24 Việt Sử
Toàn Thư Sở Hùng Cừ (thế kỷ thứ 9) phong cho con út là Chấp Tỳ ở đây.
Nước Việt Thường bắt đầu suy từ khi có Sở thành lập ở miền Hồ Nam, Hồ
Bắc sau những cuộc lấn đất về phía Tây (của Việt Thường qua đến đời Hùng
Cừ đất Việt Chương ở miền hồ Phiên Dương thời hết). Người Việt Thường
cũng sinh hoạt bằng nghề đánh cá như người Giao Chỉ, có lẽ cũng có tục
xâm mình nhưng họ thông thạo nghề nông hơn. Theo thiên Vũ Cống thì miền
châu Kinh và châu Dương có những sản vật như vàng, bạc, gỗ quý để làm
nhà, các thứ trúc để làm nỏ, lông chim, da bò, ngà voi, da tê ngưu, vải
gai v...v... Dân Việt Thường còn biết chế đồ đồng đỏ. Trình độ kỹ thuật
đã tới trình độ đá mới. Họ cũng sống theo chế độ thị tộc và cũng có tín
ngưỡng "Tô Tem" như người Giao Chỉ. Mối quan hệ giữa người Giao Chỉ và
Việt Thường thế nào đến nay vẫn chưa được rõ rệt chỉ biết rằng khi Việt
Thường xuất hiện thì tên Giao Chỉ không còn nữa. Và địa bàn ức đoán của
Việt Thường choán một phần Đông Nam của Địa bàn ức đoán của người Giao
Chỉ.
Ngoài
ra Việt Thường với Giao Chỉ đều là người Man Di thuộc về Việt tộc là
giống người đã sinh tụ ở khắp lưu vực sông Dương Tử , từ miền Vạn Huyện
(đời Chu là nước Quí Việt) tỉnh Tứ Xuyên ra tới biển, nghĩa là suốt
châu Kinh, châu Dương trong Vũ Cống. Cứ những điều chúng ta biết về đặc
tính văn hóa thì Việt tộc vào thời đó có lẽ không thuộc ảnh hưởng chủng
tộc Mông Gô Lích một phần nào như người Hán, tuy chưa thể nói thấy tục
xâm mình là tục đặc biệt của các dân tộc thuộc giống Anh-đô-nê-diêng ở
miền Nam và Tây Nam Á Châu, (từ người Miêu Tử, Lô Lô, Mán, Lái, Lê, Dao,
Xa, Đản, Đông cho đến người Dayak ở đảo Bornéo đều là di duệ của người
Man Di). Đám người này, theo các nhà nhân chủng học chia ra hai giống
Tạng Miến (Tibéto-birman) và Anhđô nê-diêng. Nhưng họ không khác biệt
nhau mấy, ngay cả về đặc tính kỹ thuật. Theo các nhà bác học Leroy,
Gourhan về nhân loại học, người Anh-đô-nê-diêng và giống Tạng Miến gần
nhau quá, nếu có khác nhau thì sự khác biệt đó cũng hết sức mỏng manh,
có lẽ vì sự pha trộn tức là sự lai giống. Hai đám dân tộc này phải chăng
đã sống gần gũi nhau nên có sự trạng này hay là đã cùng thoát thai ở
một gốc? Và chúng tôi nghĩ rằng cái gốc người ta đề cập đó có lẽ là Việt
tộc. Các nhà tiền sử học và ngôn ngữ học phát biểu rằng suốt từ miền
A-Xam ở phía Bắc Ấn Độ trải qua Nam Bộ Trung Hoa xuống tới Nam Dương
quần đảo có một thứ văn hóa hiện nay còn di tích trong các dân tộc
Anh-đô-nê-diêng. Chúng ta có thể ngờ rằng người Việt tộc xưa có lẽ là
một nhánh của chủng tộc Anh-đô-nê-diêng. Chủng tộc này trong thời thái
cổ đã có mặt hầu khắp miền Đông Nam Á Châu . (hết trích) (Việt Sử Toàn
Thư, Phạm Văn Sơn p. 23 - 24)
Nhiều
sách sử cũng viết rằng, người Việt Nam chúng ta xuất hiện từ đời thượng
cổ ở miền Bắc Nam bộ Trung Hoa và dần dần tản mát xuống miền Bắc bán
đảo Hoa Ấn (Indochine).
Cũng
theo Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn thì chữ Việt Thường là
tên của vùng đất Quảng Bình và Quảng Trị của chúng ta ngày nay.
( trích) Bờ cõi của nước Văn Lang theo sử cũ gồm có 15 bộ:
1. Văn Lang: (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên).
2. Châu Viên: (Sơn Tây vùng núi Ba Vì).
3. Phước Lộc: (Miền đồng bằng).
4. Tân Hưng: (Hưng Hóa Tuyên Quang)
. 5. Vũ Định: (Thái Nguyên và một phần đất của Hoa Nam).
6. Vũ Ninh: (Bắc Ninh).
7. Lục Hải: (Lạng Sơn và một phần Quảng Tây).
8. Ninh Hải: (Quảng Yên và một phần Quảng Đông).
9. Dương Tuyền: (Hải Dương).
10. Giao Chỉ: (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình).
11. Cửu Chân: (Thanh Hóa).
12. Hoài Nam: (Nghệ An Hà Tĩnh).
13. Cửu Đức: (Lưu vực sông Đà, sông Mã).
14. Việt Thường: (Quảng Bình, Quảng Trị) không phải là vị trí nguyên thủy.
15. Bình Văn: (?). ( hết trích ) ( Việt Sử Toàn Thư, Phạm Văn Sơn p. 42 - 43 )
2. Châu Viên: (Sơn Tây vùng núi Ba Vì).
3. Phước Lộc: (Miền đồng bằng).
4. Tân Hưng: (Hưng Hóa Tuyên Quang)
. 5. Vũ Định: (Thái Nguyên và một phần đất của Hoa Nam).
6. Vũ Ninh: (Bắc Ninh).
7. Lục Hải: (Lạng Sơn và một phần Quảng Tây).
8. Ninh Hải: (Quảng Yên và một phần Quảng Đông).
9. Dương Tuyền: (Hải Dương).
10. Giao Chỉ: (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình).
11. Cửu Chân: (Thanh Hóa).
12. Hoài Nam: (Nghệ An Hà Tĩnh).
13. Cửu Đức: (Lưu vực sông Đà, sông Mã).
14. Việt Thường: (Quảng Bình, Quảng Trị) không phải là vị trí nguyên thủy.
15. Bình Văn: (?). ( hết trích ) ( Việt Sử Toàn Thư, Phạm Văn Sơn p. 42 - 43 )
Như
vậy thì Việt Thường là cái gì, và Trần Hùng Văn là ai, Chệt hay Việt
Nam? Việc ông đặt vấn đề với Bắc Kinh/Cục Tình Báo Hoa Nam đi đến đâu
rồi, kết quả ra sao, thưa nhà văn PNN?
(Vì bài hơi dài, chúng tôi xin cắt làm 2 phần và đăng làm 2 kỳ. Xin lỗi bạn đọc và xin cám ơn bạn đọc quan tâm)
Ngày 02-02-2015 Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
0 comments:
Post a Comment