TẾT VÀ TIẾNG KHÓC
Mậu Thân 1968:
VC tàn sát đồng bào vô tội tại Huế
Mới
sáng tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện
trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ.
Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính.
Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành
nhiều nhóm: công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng hòa, và
những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên
con cái nữa. Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang trách nhiệm
mọi mặt về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người
đại diện phải lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông người, trừ
khi được kêu đi dự mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin
đồn đãi...
Ngày
hôm sau, du kích và nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có
tên trong danh sách viết tay nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng
viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Một anh cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa
với sự hiện diện của một người Bắc Việt và hai sinh viên khác. Hai sinh
viên này chúng tôi biết...
Các
phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá
đông tại các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở
trong thành. Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì.
Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban
Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Ðắc
Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất
hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Ðọc và Nguyễn Thị Ðoan
điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên
truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết
lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức
khắc.
Sau
hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân
chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên
bạch nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng
bị bắn công khai. Nguyễn Ðọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân
đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày
thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm. Ngày thứ bốn, vì không
tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người chủ gia đình bị bắn
tức khắc. Dưới áp lực khủng bố gia tăng, nhiều người bỏ trốn, nhưng ít
kẻ thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo bè qua
sông sang làng Ðập Ðá. Thường bị bắn theo nhưng cố chèo.
Những
người nằm vùng xuất đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân. Bộ đội Bắc
Việt và quân chính quy Mặt Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm
vùng địa phương lo việc chính trị, hành chính, bình định, tuyên truyền,
và tiêu diệt kẻ thù. Ðám này bắt và giết người bất kể, nhiều khi chỉ vì
hiềm thù cá nhân. Cán bộ miền Bắc có mặt ở tòa án nhân dân xem ra ít nắm
vững chuyện chính trị và đóng vai trò ít quan trọng trong các bản án.
Ðịa phương quyết định mọi chuyện. Trước khi lên danh sách, thường đám
nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn việc ra lệnh thanh toán những
ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng, thà giết lầm hơn bỏ sót,
vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện. Một cách hệ thống, công
chức, quân nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng lãnh đạo
và có thể gây trở ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy
đều được đoái hoài. Danh sách bất tận.
Dân
chúng tập trung ở nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai
được đứng bên ngoài. Phụ nữ và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Ðàn ông và
thiếu niên từ 15 tuổi trở lên đứng. Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã
diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập
trung vào bệnh viện vì cộng sản sợ giao tranh có thể xảy ra ở đó. Dân
lúc này còn sợ súng máy và hỏa tiễn trực thăng hơn quân chiếm đóng nên
ngoan ngoãn làm theo lệnh. Sau ba ngày, đàn bà con nít được lệnh ngồi,
đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận diện, trước mặt hai cán bộ
miền Bắc và hai bộ đội Mặt Trận. Hai người nằm vùng này mới được xổ tù
khi Việt cộng chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ cựu của Mặt
Trận. Một số người, trẻ có già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính
tòa.
Bên
trong nhà thờ đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước
ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam
lên Chùa Từ Ðàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam,
hướng Nam Giao. Ðàn bà trẻ con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha,
chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài thành. Một số bà đi theo xa
xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra đi có anh lính trẻ cộng hòa
và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này). Ngày kế tiếp, cuộc hành
trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Ðàm đi về hướng Nam
rồi bẻ hướng Ðông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc
trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi
một câu hỏi của ai đó "Ta đi mô đây". Có tiếng phụ họa "Lên núi hay tới
chỗ chết?".
Bộ
đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu
nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông
già đi bên cạnh Lương bỗng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông
già đi bên mình. "Bắt gió cho ông ta " tiếng ai đó vang lên... Lương ôm
lấy ông cho tới khi người canh gác tới. Mắt ông già hé mở trong chiều
xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào. "Xin để tui đi, để tui ở lại
đây", ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác. "Tui
không đi xa hơn được nữa".
"Ðứng dậy".
Ông
già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác
đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút
sau, một phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên.
Làm thế để chắc ăn, không ai chứng kiến. Xác ông được dập vào một hố gần
đó, hai tù nhân được lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào
khám phá.
Vô
vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người
gác càng hối thúc. Rồi có tiếng hô "Dừng lại". Lương thấy đám người phía
trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Ðám
canh gác phía sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ
khác... Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh,
chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị quân Mặt Trận tố có tội ác
với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận họ
vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía
lăng Ðồng Khánh.
Sau
một giờ đi họ lại được lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu
được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ
thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi. Như một ác mộng kinh hoàng thăm
viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do quỷ ma nào cả mà do chính con
người tạo ra.
Thoạt
tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người lính
trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt
vọng. Hai người thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám
người đói, lạnh, có kẻ đau, không ai dám quay về nhìn thành phố thân
yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối sau lưng họ. Họ đào đã hai, ba
tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Hố đào là để trú ẩn và
làm mương dẫn nước, người ta nói thế. Một tiếng nổ kèm với tiếng la
vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây?
Ða
số họ là công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh
lịch sử phải bước vào lính như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên
khắp thế giới đến tuổi khác.
Sau
khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ
đêm. Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người
bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người
hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như
điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy,
nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát. Ác mộng tiếp tục. Người
la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng. Lương ở trong một đám khá
đông đang bước đi. Ðám người khập khễnh lê lết xuyên qua một đám cây
rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương lách người lao
vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn
nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và
chạy theo dòng nước hướng về phía Ðông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị
khuất động bởi trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra thấy
mình băng qua một con đường sắt. Từ đó tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng
mong ngóng sớm thoát được vùng tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía
Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mãi tới ngày 16 tháng 2 Lương mới về lại được
thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra...
Người
ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về
hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mãi tới trung tuần tháng
9-69 người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Ðá Mài,
con suối chảy ra khe Ðại đổ vào sông Hương... Trong số 428 bộ cốt tìm
được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác, gia đình
họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc
đời nơi khe suối này...
Mồ Tập Thể
Mồ tập thể được khám phá đầu tiên
ở trường trung học Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần
đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân
dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may
mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14
hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số
hố rải rác trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203,
gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ.
Trong
số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã
bỏ vô bưng theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về
bắt các sinh viên khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên
được phép chọn hoặc vô bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và
chôn tại trường. Những sinh viên khác của Gia Hội không theo Mặt Trận
cũng chịu chung số phận. Có hố vừa chôn được hai hoặc ba tuần; số còn
lại rất mới. Những xác đầu tiên được lính Thủy Quân Lục Chiến Cộng Hòa
khám phá ngày 26-02-1968.
Trong
số nạn nhân có cô Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào
không đoán được sẽ ghi lại đúng như tác giả đã ghi - Người dịch), 26
tuổi, rất xinh, bán hàng ở chợ, nhà tại đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị
quân Mặt Trận, theo lời kể của chị/em cô, vào nhà bắt đi đưa vào trường
điều tra ngày 22 tháng 2, rồi chẳng thấy trở về. Xác cô chân tay bị
trói, miệng nhét đầy giẻ, mình mẩy không thấy một vết thương nào. Xác cô
nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai trong số đó có bà con với
chị/em dâu cô. Trong số các nạn nhân khác có bà góa Dương Thi Co, 55
tuổi, nghề bán guốc, 4 con. Bị bắt tại nhà ngày 22-02, đưa vào trường
Gia Hội và bắn chết. Xác bà được các con nhận diện ngày 26-02. Người thứ
ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự
lớp huấn luyện ngày 14-02. Xác được gia đình phát hiện và nhận diện ngày
16-03, chung hố với hai nạn nhân khác trong khuôn viên trường.
Người
thứ tư là Trần Ðình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị
bắt ngày 06-02, tìm thấy xác ngày 26-02. Người thứ năm Nguyễn Văn Dong,
cảnh sát 42 tuổi, bị bắt ngày 17-02 ở nhà một người quen và bị chôn
sống, tay trói tại trường Gia Hội. Tìm thấy xác ngày 26-02. Người thứ
sáu là Lê Văn Phú, 47 tuổi, cảnh sát. Bị bắt tại gia ngày 08-02. Vợ con
van xin Mặt Trận cho phép chồng ở lại nhà, nhưng tối hôm đó bị hành
quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy ngày 26-02, ở khuôn viên trường.
Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt
trên đường lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị trói, miệng nhét đầy
giẻ; mình mẩy không bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị chôn sống. Những
xác khác tìm thấy gồm một đại úy cộng hòa, hai trung úy, ba trung sĩ và
mấy viên chức hành chánh. Bốn xác người của Mặt Trận.
Vùng mồ lớn thứ hai được khám phá gồm 12 hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada, thường gọi là Tăng Quang Tự.
Vùng thứ ba
tại Bãi Dâu với 3 hố, 26 xác. Trong số nạn nhân ở Chùa có ông Phan Ban
Soan, 60 tuổi, sinh tại Phú Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến Thành,
có gia đình, 5 con. Ông Soan làm nghề thợ may, trước có tham gia vụ
Phật giáo chống tổng thống Diệm. Năm 1961 bị bắt vì chống chính quyền,
được thả năm 1967. Bị Việt cộng bắt đi tối 12-02 trên đường Chi Lăng,
Gia Hội. Cộng sản phân công ông chôn xác chết và phân phối gạo. Xác ông
tay bị trói, bị bắn xuyên đầu, dập cùng hố với 7 người khác.
Một
người khác tìm thấy ở Chùa là ông Ðặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị
bắt tại gia ngày 06-02, tìm thấy xác ngày 26-02. Một người khác nữa là
ông Ngô Thông, 66 tuổi, nhân viên hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08-02,
xác dập chung với 10 người khác. Một số tử thi có vết thương, một số
tay bị trói giật cánh khỉ bằng dây thép gai, và một số miệng bị nhét
giẻ.
Lần
đầu tiên nói chuyện với đồng bào trong vùng, tôi tưởng chỉ có 16 xác ở
Chùa và 3 xác khác ở Bãi Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố
chôn. Tất cả ở đây chết vì bị trả thù. Một vài người là thành viên Mặt
Trận nhưng bị giết vì muốn ở lại thành. Họ đều là dân Gia Hội. Bốn tháng
sau, tháng 08-68, tôi trở lại đây để tìm hiểu thêm uẩn khúc của những
cái chết. Thân nhân các nạn nhân lẫn dân địa phương đều xác nhận những
điểm trên.
Tiết
lộ về "mồ chôn tập thể" đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày
28-02-68, khi phát ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm "ghê gớm ở
Cồn Hến gồm 100 xác công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng".
Cũng theo phát ngôn viên, "các nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ
không được lành lặn". Cồn Hến nằm giữa sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận
không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị trí chiến lược cho
việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra vùng cát Ðông Nam, vùng họ
chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101 xác trong hầm. Theo
đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang
quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo
dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người
bận thường phục. Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi
các nạn nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ;
họ xác nhận là không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết; một
vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng
theo họ, là của quân thù.
Vùng chôn thật sự thứ tư
nằm sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba
người Việt làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ là ông
Miller và ông Gompertz, nhân viên USOM, và xác một giáo sư trung học
người Pháp bị giết vì lầm là người Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm
thấy và liệm ngày 09-02. Xác hai người Mỹ và người Pháp được đưa về Ðà
Nẵng.
Quận Tả Ngạn, vùng thứ năm,
do một quân nhân người Úc khám phá ngày 10-03-68. Ba hầm rãnh với 21 tử
thi, tất cả đều nam giới, tay bị trói, đạn bắn xuyên đầu và cổ. Một hầm
khác, vùng thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về
hướng Ðông, được khám phá ngày 14-03-68 do một cố vấn quân sự Mỹ cùng
toán lính Việt đi kèm. Hai lăm xác, tất cả đều bị bắn vào đầu, tay trói
giật cánh khủyu. Nhờ một cánh tay của một nạn nhân nhôi ra khỏi mặt đất
mà hầm được khám phá.
Phía Nam Huế qua hoàng thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Ðức và Ðồng Khánh. Nơi đây là vùng chôn tập thể thứ bảy.
Ðây đó trên dưới hai chục hầm, có cái giữa đất bằng, có cái dưới bụi
cây, có cái bên bờ suối. Bên cạnh hầm lớn, có những hố nhỏ chứa một, hai
hoặc ba xác. Hầm đầu tiên được khai quật ngày 19-03-68, nhưng mãi cho
tới tháng 6-69 vẫn còn xác được tiếp tục phát hiện. Ban đầu còn dễ nhận
dạng, vài xác mang quân phục, ngoài ra còn lại thường phục. Ðặc biệt ở
đây không có xác phụ nữ và trẻ con. Càng về sau việc nhận diện trở nên
khó khăn. Dù vậy, cuối hè 1969, người ta cũng nhận diện được xác bố của
ông thôn trưởng thôn Than Duong. Vì con trai vắng mặt nên cụ già bị bắt
thay con. Về sau con đi tìm cha mãi không gặp. Xác cha, đạn xuyên đầu và
ót, được tìm thấy tháng 6-69.
Cũng
trên đường hướng Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác
liệt trong thời gian cộng sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh
quân chiếm đóng phía Nam thành phố rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện
xây cách đây 26 năm, cách Huế 6 cây số hướng Nam, vào ngày 21-02. Lúc
đó Tu viện đang là nơi lánh nạn cho hơn 3000 người. Mặc cho các cha dòng
van xin, cộng sản đã cho thần hỏa thiêu rụi tòa nhà chính trong vòng
hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ sinh kế của nhà dòng cũng bị lửa đạn
thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố và thủ bút quý thời vua chúa
cũng chung số phận.
Cha
Dom Romain Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính
Việt cộng bắn vào vai lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu
hết dân tỵ nạn. Một linh mục người Việt bị bắn vào chân. Khi rút khỏi
đống gạch vụn Tu viện ngày 25-02, Cộng quân mang theo trên 200 người,
trong đó 2 linh mục người Pháp, cha Urbain, 52 tuổi, và cha Guy, 48 tuổi
và một số tu sĩ linh mục, tập sinh và người giúp việc. Những người này
bị lọc bắt trong thời gian cộng quân chiếm Nhà dòng và được dẫn đi về
hướng Nam. Ða số bọn họ kết liễu cuộc đời gần chỗ lăng các vua. Tới
tháng 6-69, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số nạn nhân ở lăng
Tự Ðức có Ðoàn Xuân Tòng, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt
Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06-02-68. Xác em được
thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19-03-68, chôn chung với năm
người khác cùng làng. Tại lăng Ðồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp
cùng một hố với 10 người khác. Một người Việt khai quật xác cho tôi hay
tay linh mục bị trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị
chôn sống. Xác ông liệm ngày 23-03-68 và sau đó được một linh mục đồng
dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là tay cha
Urbain có bị trói hay không. Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ
trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không
phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc
chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn
thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục
người chết luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn
kiếp.
Vì
thế nguyên tắc của đối phương là phải giấu nạn nhân thế nào để không bị
khám phá, mà nếu có bị khám phá thì cũng không nhận diện được là ai.
Ngoài
thi hài cha Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy
trong một hầm riêng ngày 27-03-68 gần lăng Ðồng Khánh, với vết đạn ở đầu
và cổ.
Vùng chôn thứ tám
ở cầu An Ninh khám phá ngày 01-03 với 20 xác. Trong số tử thi có ông
Trương Văn Triệu, trung sĩ lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5 con.
Du kích cộng sản địa phương bắt ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông
ẩn trốn. Bị trói và dẫn đi. Nhờ dân chúng gần đó cho hay Việt cộng có
chôn xác người gần cầu nên vợ ông đã tìm được xác chồng sau đó.
Xác
ông Trần Hy, thuộc lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp
cùng hầm với ông Triệu. Ông bị bắt ngày 20-02 khi đang trốn trong nhà
một láng giềng. Tay bị trói cánh khuỷu, người không có vết thương nào.
Vùng chôn thứ chín
ở cửa Ðông Ba, nơi xảy ra giao tranh lớn. Ðây chỉ có một hầm 7 người bị
bắt tại gia và giết sau đó. Trong đó có ông Tôn Thất Quyền, 42 tuổi. Có
gia đình với 10 người con, bị bắt và dẫn đi hôm 08-02-68. Gia đình tìm
được xác ông ngày 05-05-68.
Ðịa điểm thứ mười
là trường tiểu học An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có cảnh sát Trần
Triệu Túc, 52 tuổi, có vợ 7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi ngày
05-02-68. Xác tìm được ngày 17-03-68 ở trường, mang vết thương ở đầu và
cổ. Ba xác còn lại: một sinh viên, một quân nhân và một cảnh sát.
Ðịa điểm thứ mười một
là trường Van Chi, một hầm 8 xác. Trong đó có anh Lê Văn Loang, thợ
máy, 35 tuổi, có vợ 6 con. Theo lời chị Loang, anh bị bắt đi dự lớp huấn
luyện ngày 06-02. Khi bị dẫn đi, chị và các cháu chạy theo van xin
nhưng vô hiệu. Họ ra lệnh mẹ con chị phải quay trở về. Xác anh được
những gia đình đi tìm xác người thân tìm thấy ngày 10-03-68 gần trường.
Một vài xác bận quân phục, 4 xác chắc chắn là thường dân, trong đó có
một sinh viên.
Ðịa điểm thứ mười hai
ở chợ Thông, cách nội thành 2 cây số về hướng Tây. Tìm được 102 xác.
Trong đó có ông Nguyễn Ty, 44 tuổi, thợ xây gạch, có vợ 6 con. Bị bắt
ngày 02-02-68 và có lẽ bị giết ở chợ cùng với nhiều nạn nhân khác. Tìm
được xác ngày 01-03, tay bị trói, một viên đạn từ ót bung ra cửa miệng.
Nhiều người khác cũng bị bắn, tay trói. Có nhiều xác đàn bà nhưng không
có trẻ con.
Ðịa điểm thứ mười ba
là vùng lăng Gia Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương, cách thành phố
khoảng 16 cây số hướng Nam và cách Ðàn Nam Giao cỡ 13 cây số Tây Nam.
Gần 200 xác được tìm thấy dưới các đám cây và bụi rậm, gồm học sinh,
sinh viên, nhân viên hành chính, quân nhân và nhiều phụ nữ. 27 người
thuộc làng lân cận. Sau khi an ninh tạm vãn hồi, các bà đi tìm chồng đã
khám phá ra địa điểm này. Lúc đầu, họ không dám đi quá xa. Nhưng hai
ngày sau, 25-03-68, họ đụng vào một miếng đất mới đào trên triền một
trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ nằm nơi đây,
tay bị trói cánh khủy, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng.
Có
nhiều rãnh hầm nối nhau với nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành,
những người khác từ các làng lân cận. Một số là sinh viên từ Huế về nhà
ăn tết.
Ðịa điểm thứ mười bốn
nằm ở giữa Chùa Tăng Quang và Tường Vân, 2,5 cây số Tây Nam Huế. Ở đó
có xác 4 người Ðức, 3 bác sĩ và một bà vợ, tìm thấy ngày 02-04-68.
Ðịa điểm mười lăm ở Ðông Gi, 16 cây số phía đông Huế trên đường ra bờ biển, tìm thấy ngày 01-04-68. 101
xác, đa số bị trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả đều nam giới, trong đó
có15 sinh viên, nhiều quân nhân và nhân viên hành chính, già lẫn trẻ.
Một vài xác không thể nhận diện được.
Tới
tháng 05-68, tổng cộng có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được
tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính... Ðầu năm 1969 nhiều
địa điểm khác được khám phá.
Ðiểm chôn thứ mười sáu:
Ðầu tiên ở làng Vinh Thái. Ðịa điểm thứ hai ở làng Phú Lương. Ðịa điểm
thứ ba ở làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả được tìm thấy
trong khoảng từ tháng 01 tới tháng 08-69. Quận này với quận kế bên bị
cộng sản chiếm nhiều năm và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài
nhiều tháng. Mãi tới đầu năm 1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng
này...
Ba
làng này cách thị xã Huế chừng 15 cây số về các hướng Ðông và Ðông Nam,
cách bờ biển từ 3 tới 5 cây. Theo các viên chức địa phương, trên 800
xác được tìm thấy trong các vùng trên trong vòng 6 tháng. Có hầm đào
sâu, có hầm cạn. Nhiều xác chôn lâu rồi, quần áo đã mục...
Trong
số nạn nhân người ta nhận diện được 16 học sinh trung học, theo học ở
Huế nhưng về quê ăn tết. Cả nhân viên hành chính, đàn ông, đàn bà, trẻ
em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói, đa số đều chôn cùng một hố. Vùng
làng Vinh Thái đào được 135 xác; làng Phú Lương 22; và làng Phú Xuân đợt
đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375 xác. Dù thời gian qua
lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn
có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở
cổ và đầu. Ða số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và
một vài người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và
chủng sinh của các làng lân cận mất tích từ hơn 20 tháng kể từ biến cố
tháng 02-68. Trong số 357 xác có cha Bửu Ðồng, một cha sở quận Phú Vang
và 2 chủng sinh. Cha Đồng dấu được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên
người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba
lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho
bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8-11-69).
Các con yêu dấu,
«Ðây
là bút tích cuối cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh
Phêrô trên thuyền bão táp... (3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc
của Cha ngày đầu xuân cho mọi công việc Tông đồ của Cha giữa chúng con,
nhớ... (hai chữ đọc không ra) khi sự sống của Cha sắp kết liễu theo ý
Chúa.
«Hãy
mến Mẹ sốt sắng lần hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với
Cha, xin Chúa tha tội cho Cha và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha
được sống trong tin tưởng, kiên nhẫn, trong khắc khổ để kiến tạo hòa
bình của Chúa Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và mọi người trong Mẹ
Maria. Xin cầu nguyện cho Cha bình an sáng suốt và can đảm cùng mọi sự
đau khổ tinh thần, thể xác và gởi mạng sống cho Chúa qua tay Ðức Mẹ.
«Hẹn ngày tái ngộ trên nước Trời. Chúc lành cho chúng con”.
(Chữ ký Cha Ðồng)
Ðiểm
chôn thứ mười bảy ở làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa, bên bờ sông Tả
Trạch, một phụ lưu sông Hương phía Nam lăng Gia Long. 11 xác được tìm
thấy giữa các lùm cây trong tháng 07-69. Chỉ có ba xác nhận diện được là
người của làng bên cạnh. Tất cả đều mang vết thương cổ và đầu, dấu chỉ
của sự hành quyết.
Ðiểm thứ mười tám
ở Thúy Thạnh, quận Hương Thủy, tìm thấy tháng 04-69, và ở làng Vinh
Hưng, quận Vinh Lộc, tìm thấy tháng 07-69. Cả hai làng nằm trong vùng bị
cộng sản chiếm từ lâu... Trên 70 xác, nhiều xác không còn nhận diện
được nữa, đa số là đàn ông, vài đàn bà và trẻ con. Họ được nhận diện là
người của các làng lân cận và vài người có thể bị chết vì chiến cuộc bởi
mình họ mang nhiều vết thương và xác không toàn vẹn. Các nạn nhân khác
bị bắn ở cổ và đầu.
Ðiểm thứ mười chín
tìm thấy vào tháng 09-69 ở Khe Ðá Mài, quận Nam Hòa, một con suối nhỏ
chảy vào Khe Ðại, phụ lưu sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có xương
đủ bộ, có xương nằm riêng, sọ nằm riêng; tất cả được nước suối mài
trắng tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy địa điểm này. Nạn nhân có lẽ đã được
chôn bên bờ suối trong mùa mưa và nước suối đã dần soi mòn đất để lộ xác
ra, cũng có thể là nạn nhân bị vất xuống suối, chứng cớ là các mảnh
quần áo được tìm thấy dọc bờ hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp nạn
nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều
này có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới đây hoặc được mang tới
đây sau khi bị bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong mùa suối khô, thì
sự kiện xảy ra trong khoảng từ tháng 06 tới 10.
Có
lẽ để giữ bí mật khi rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn
nhân tại đây. Theo luật thông thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn,
kẻ thù thường chôn cất xác đồng đội đàng hoàng. Tuy nhiên cũng có thể
đây là xương và sọ của lính Mặt Trận và Bắc Việt. Như vậy thì số phận
nào cho những người Phủ Cam bị mất tích?
Nghiên
cứu các phúc trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc lớn
hoặc của máy bay B52 nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn
vào hạ tuần tháng 04-68, một địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả
lại lập luận mang người bị chết vì bom B52 băng qua vùng đất gập ghềnh
để đưa về chôn ở suối này quả không vững. Ðường lên núi dễ dàng hơn
nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ thù bị thiệt hại nặng ở trận Lộc Sơn và, theo
thói quen sẵn có, đã mang xác 500 đồng đội đi thì hẳn lộ trình phải là
hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều, chứ làm sao mà chọn băng qua
cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này.
Trong
thời gian cuộc tấn công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài
từ Huế qua Bến Ngự, tới gần cầu Nam Giao và trong Nhà dòng Thiên An.
Nhưng đã không có tiếp tục đánh nhau lớn về mạn Nam, khi quân thù chọn
đường rút lui lên núi, hướng trái với Ðá Mài. Khe Ðá Mài nằm cách thành
phố 40 cây số về hướng Nam, bên ngoài vùng lăng tẩm; nơi nầy được coi là
vùng không người, chỉ có cộng quân lai vãng. Khe chứa 500 sọ. Ðịa thế
cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách đá cho thấy người ta
không muốn để số xác kia, xác của những người mang từ Huế ra bị khám
phá, mà nếu có khám phá thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với xương
là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội
miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận. Các sọ vỡ xương trán tất thảy cho thấy
bị đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở
xương, đây có thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả
hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an
bình... Sau khi Ðá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích.
Trong số đó có một số sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn
Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức
hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công giáo, Phật giáo, tu
sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin tức.
Bên
cạnh các hầm chôn tập thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi.
Có khi cả gia đình bị tiêu diệt như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị
bắn cùng vợ và 5 con tại nhà. Ông Ngô Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp
chiếu bóng địa phương và ông Phan Văn Tường, lao công, bị giết ngoài nhà
ông với bốn đứa con...
The Vietcong Massacre at Hue. Vintage Press, New York, 1976
0 comments:
Post a Comment