Tôi
còn nhớ là những Sĩ quan cấp bậc Trung tá phải trình diện tại Trường
học Don Bosco, Gò Vấp trong ba ngày từ 14, 15 và 16 của tháng 6 năm
1975. Tôi trình diện ngày giữa để không sớm mà cũng không trễ.
Chúng tôi ngoan ngoãn như những con cừu non mang theo đủ số thuốc
men, đồ đạc và tiền để học tập ba tháng rồi sẽ trở về với gia đình (Theo
thông cáo). Vợ tôi đã khuyên tôi trốn về quê hoặc nơi nào khác một thời
gian rồi sẽ tính sau. Nhưng vì sự đi đứng của tôi khó khăn (Chống gậy)
và hơn nữa với 21 năm trong Quân đội và Hành chánh nên được nhiều người
biết sẽ dễ bị lộ tông tích. Tôi cũng sợ liên lụy đến vợ con nếu tôi
không ra trình diện.
Trong thời gian chờ thanh lọc, bọn CS nhốt chúng tôi tại trại Long
Giao, căn cứ của Trung Ðoàn 48 thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Nơi đây tôi có
gặp gỡ nhiều chiến hữu cùng cấp bực và nhiều vị Chỉ huy cũ của tôi như
các cựu Ðại Tá Tôn Thất Soạn, Nguyễn Thế Lương, Nguyễn Năng Bảo, NT
Nguyễn Thành Trí, cựu Tư lệnh phó Sư đoàn, sau khi tôi đã rời Binh
chủng.
Tôi vẫn còn nhớ một hình ảnh khó quên về cựu Ðại Tá Tôn Thất Soạn,
một chiến đoàn trưởng TQLC đã lập nhiều chiến công hiển hách trong thời
gian ông chỉ huy các Tiểu đoàn TQLC hành quân trên 4 miền Chiến thuật.
Sau cùng ông là Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa khi tôi làm Quận trưởng Ðức Hòa.
Ông cũng được mọi thành phần Quân Cán Chính mến thương như lúc ông còn
là Chiến đoàn trưởng vì tính hiền hậu và nhã nhặn của ông ấy. Tôi không
bao giờ quên và tội nghiệp cho một anh hùng lỡ vận. Mới vài tháng trước
đây ông là một vị Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa uy quyền, hôm nay thấy ông vác
củi rừng và mặc bộ đồ Kaki vàng lượm được đâu đó đã rách tả tơi. Tôi rất
xúc động và căm hờn. Tôi nghĩ rằng tinh thần của Ðại Tá Soạn cũng như
tôi lúc bấy giờ còn tả tơi hơn bộ đồ Kaki rách rã rời này nữa. Ôi! một
thời oanh liệt nay đã tiêu tùng theo vận nước!
Trước khi chở ra Bắc, bọn CS đưa tất cả Sĩ quan từ cấp Tướng đến cấp
Tá về trại tù Suối Máu mà trước kia Chính quyền miền Nam giam tù phiến
Cộng. Nơi đây trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, bọn chúng có giường ngủ,
chăn màn đầy đủ.
Chúng được ăn uống theo tiêu chuẩn Quốc tế cho nên tên tù Việt Cộng
nào cũng mập béo. Các phái đoàn Mỹ và ngoại quốc đến thăm viếng thường
xuyên. Trại được xây cất nơi thờ phượng cho các Tôn giáo. Khi chúng tôi
vào trại Suối Máu thì những căn trại trống không, phải nằm đất và cơm
ngày hai bữa với canh rau nấu muối hột, thỉnh thoảng có chú cá loại rẻ
tiền hôi tanh khó ngửi.
Có một lần bọn CS cho chúng tôi ăn hủ tiếu đã lâu ngày bị mốc meo nên
hầu hết anh em tù đều bị kiết lỵ, một số người bị chết vì không có
thuốc trị. Vấn đề vệ sinh rất là bẩn thỉu, tồi tệ. Nhưng chẳng thấy phái
đoàn nào đến thăm chúng tôi. Tôi còn nhớ là vài tháng trước ngày 30
tháng 4, 1975, phái đoàn của Ni sư Huỳnh Liên, v.v… đã gây khó dễ với
Chính quyền Tổng Thống Thiệu là phải được vào thăm bọn Việt Công bị giam
tại Suối Máu. Khi chúng tôi vào trại này, các nơi thờ phượng đều bị bọn
man rợ đập phá, các tượng Phật, tượng Chúa đều gẫy nát, không khác nào
bị bọn ma quỷ phá nhà chay.
Mỗi buổi sáng chúng tôi cố phóng tầm mắt xa ra ngoài lộ xem có thấy
bóng dáng vợ con mình lai vãng hay không cho thỏa lòng nhung nhớ! Vì CS
đâu cho thăm nuôi.
Tại Suối Máu tôi rất mừng gặp lại một đồng nghiệp sau cùng ở tỉnh Hậu
Nghĩa là cựu Trung Tá Bùi Văn Ngô, một vị Quận trưởng lâu năm ở đây.
Tôi đã được thuyên chuyển từ Dĩ An về Hậu Nghĩa hơn một năm rồi lại được
trở về Dĩ An một tháng cuối cùng. Nhưng tôi cũng biết ông là một Quận
trưởng có khả năng, luôn nghĩ đến Binh sĩ và hiền hòa dễ mến. Tôi xin
hết lòng cám ơn ông Ngô đã tận tình giúp bạn bè lúc khổ nhọc vì mỗi
chiều sau giờ cơm ông hay rủ tôi cùng đi tắm để ông xách nước giếng giùm
tôi vì bàn tay mặt của tôi đã bị tàn phế do thương tích. Ông Ngô và gia
đình đi diện HO, các con nay đã thành gia thất và thành công trên xứ
người. Vợ chồng chúng tôi xin chúc mừng hai ông bà và các cháu.
Tôi cũng không quên ơn Mũ Xanh Trung Tá Lê Văn Khánh ở tù chung trại 1
Yên Bái đã nhiều lần xách hộ tôi chiếc Valise đựng quần áo mỗi khi
chuyển trại. Ông luôn giúp đỡ tôi vì chân tôi đi khập khểnh khó khăn.
Nếu không có ông Khánh trợ giúp thì tôi có thể té nhào xuống sông bến
Tân Cảng vì phải đi qua chiếc cầu rất nhỏ từ bến xuống tàu Sông Hương
chở ra Bắc. Tôi còn nhớ có một người trong chuyến tàu này mang túi đồ
nặng trĩu trên vai đã lọt xuống sông bị chìm mất dạng mà bọn bộ đội CS
vẫn đứng trơ mắt nhìn không tiếp cứu.
Nơi xứ này mỗi khi anh em có dịp gặp nhau là kể cho nhau nghe về đơn
vị cũ, chiến trường xưa và cũng không bỏ qua chuyện tù Cộng Sản vô cùng
nhục nhã khó quên.
Ðoạn đường xuôi Nam
Sau một năm bị giam cầm trong Nam và hai năm ở miền Bắc, bọn CS thả
những người tù già yếu và bệnh tật trong đó có tôi mà bọn chúng thấy
không còn lao động được nữa và bọn chúng nghĩ rằng có thả về nhà chúng
tôi cũng sẽ chết thôi.
Trước khi được thả về, bọn bộ đội CS ban Chỉ huy trại tù Yên Bái trả
lại quần áo mà chúng tôi mang theo lúc trình diện để học tập “ba tháng”
theo thông cáo. Tôi lấy bộ đồ mà tôi đã mặc đi trình diện ở Gò Vấp mặc
thử xem ra sao. Khi vừa mặc chiếc quần tây vào thì cái quần bị tuột
xuống tới chân làm cho tôi sững sờ vì không ngờ tôi ốm tới thế này, và
mấy anh bạn tù cùng lán cười rộ lên khi nhìn thấy cái thân người khỏa
thân của tôi nó teo nhách từ trên xuống dưới! Trong mấy năm tù có nhìn
thân mình trong kiếng soi bao giờ mà biết được cái độ gầy ốm của thân
người mình ra sao? mặt mày của mình như thế nào? Mấy năm đầu bọn Cộng
Sản không cho gia đình thăm nuôi và tiếp tế lương thực nên anh em tù bị
đói tả tơi, có người không chịu nổi cái đói đến kiệt sức mà chết!
Những người mập mạp lại càng tiều tụy hơn chúng tôi nhiều và càng dễ
chết do thiếu dinh dưỡng. Hôm ngày tập trung về Ðoàn để chuẩn bị trở về
Nam, một cựu Ðại Úy LLÐB đến chào hỏi tôi mà tôi không thể nhìn ra ông
ấy là ai. Ông ấy bèn nói rằng: Anh Năm (Colonel) không nhận ra em sao?
Em là Ðại Úy M… mập đây. Lúc bấy giờ tôi mới nhớ ra ông, vì ngày xưa ông
rất mập và bụng to đến đổi khi ông ngồi lái xe Jeep là cái bụng bệ vệ
và nặng nề của ông đụng tới cái Volant xe.
Ông ta bèn giở áo lên cho tôi xem cái bụng của ông có nhiều miếng da
xếp lại không khác nào cây đàn Accordéon. Gương mặt tròn trịa của ông
năm xưa nay bị hóp lại trông thật não nề!
Mọi người tù đều ốm yếu như nhau nên tôi cũng không nhận định được
thân người của tôi nó gầy ròm như thế nào? Khi đến đón tôi được thả về
tại cổng thành Ông Năm, Gò Vấp, vợ tôi chỉ nhìn ra tôi nhờ tôi chống gậy
đi khập khễnh từ sau ngày tôi bị thương tại vùng giới tuyến vào cuối
năm 1966, lúc tôi còn là Tiểu đoàn phó TÐ 3 Thủy Quân Lục Chiến.
Toán đầu được thả ra là những Sĩ quan thuộc ngành chuyên môn như Hành
chánh hay Kỹ thuật. Trong toán này có một anh Thiếu tá ngành Quân Nhu,
khi vùa tới cổng trại anh nhìn thấy bà vợ đang ngơ ngác nhìn tám người
tù đi ra mà không nhận dạng được chồng bà. Anh ấy bèn lên tiếng: Em! anh
là T… đây. Bà vợ nhìn chồng quá tiều tụy và xúc động đến ngã quỵ.
Anh Thiếu Tá cũng khóc sụt sùi nức nở nên bị giữ lại cho trở vào trại
để lên lớp cùng với chúng tôi đang mong chờ đợi phiên về kế tiếp.
Tên quản giáo nói rằng: “Đảng và nhà nước với chánh sách khoan hồng
đã nuôi các anh ăn học rất chu đáo để trở thành công dân tốt, chứ nhà
nước đâu có hành hạ mấy anh đâu mà tại sao các anh lại tủi thân mà khóc
với vợ con?”. Tôi bực mình và nói thầm: “Chúng tao đâu có chém trâu đốt nhà như loài Cộng sản chúng mầy mà được bọn bây giáo dục để trở thành công dân tốt?” Nghe
mấy câu nói nhàm tai này tôi càng tức sôi gan và tôi nghĩ rằng chắc quý
vị cũng rất bực mình nghe tôi kể lại câu chuyện này.
Bọn Cộng sản thả những người trong nhóm chúng tôi làm năm đợt, mỗi đợt tám người và cách nhau mỗi đợt một tuần lễ.
Cứ sáng ngày Thứ Năm trong tuần là anh em tù hồi họp chờ đợi tên cán
ngố đến gọi tên mình và dẫn ra cổng trại. Sống với bọn này lúc nào cũng
hoang mang và đầu óc luôn luôn bị căn thẳng!
Một cựu Trung Tá Phòng Nhì, lúc bấy giờ đã bảy mươi hai tuổi còn bị
giữ lại với tôi sau khi toán cuối cùng đã được về hai tuần qua rồi. Ðiều
này làm cho ông và tôi rất đắn đo vì tên thủ trưởng trại chẳng cho biết
lý do tại sao mà chúng tôi cũng chẳng dám hỏi. Ông ấy tự suy đoán và
nói với tôi rằng: Có lẽ tôi là Nhân viên phòng Nhì còn cậu làm Quận
trưởng lâu năm, chắc chúng mình thuộc thành phần “ác ôn” (Đây là danh từ
của bọn Cộng sản gán ghép cho những người của chế độ miền Nam). Thật là
nhức đầu với lối khủng bố tinh thần của lũ Cộng sản.
Về đến nhà tôi nhìn vào kiếng thấy người tôi chỉ còn da bọc xương,
hai xương vai nhô ra, đưa bộ ngực Oméga sâu hõm, mặt mày xanh xao như
tàu là chuối trông giống như người mắc bịnh Aids Disease mà bên Việt Nam
gọi là bịnh Sida. Ðứa con trai út của tôi tám tuổi hỏi mẹ nó sao ba bây
giờ không giống ba mấy năm trước vậy? Tôi buồn muốn rơi nước mắt vì tủi
thân và nghĩ rằng không biết tôi có thể khỏe mạnh lại như xưa không?
Khi đi trình diện tôi cân nặng 65 ký, bây giờ chỉ còn 40 ký. Tôi không
biết rằng có được hồi phục sức khỏe để nuôi bản thân tôi và lo cho gia
đình nổi không? Vì biết rằng tôi phải lao động cày cuốc theo chánh sách
của bọn chúng (CS) khi được thả về với gia đình.
Lần này chúng tôi được chở về Nam bằng xe lửa từ Yên Bái đến Vinh,
rồi từ Vinh đi bằng xe đò trong Nam ra đón chở thẳng về thành ông Năm,
quận Hóc Môn. Tôi cũng xin nói rõ thêm là trên đoạn đường về Nam anh em
chúng tôi được chuyên chở trong điều kiện thoải mái, không phải như lần
ra Bắc bọn Cộng Sản nhốt chúng tôi dưới hầm tàu Sông Hương rất khổ sở từ
bến Tân cảng Saigon ra Vinh rồi từ Vinh ra Yên Bái lại tiếp tục bị nhốt
trong những toa sắt chở hàng hóa như súc vật.
Trên đoạn đường từ phía Nam cầu Hiền Lương ngay vĩ tuyến 17, về tới
Saigon, tôi được nhìn thấy lại những phong cảnh và địa danh mà đơn vị
TQLC chúng tôi đã hành quân qua trong những năm chinh chiến và không
khỏi ngậm ngùi khi thấy và nhớ lại những mặt trận chạy dài theo Quốc lộ
số 1 mà anh em Chiến sĩ cùng tôi đã một thời tung hoành, oanh liệt và đã
cùng sống chết bên nhau trong các trận đánh đẫm máu với quân Cộng Sản
Bắc Việt. Lúc bấy giờ tôi thật xúc động và buồn lắm! Còn một điều nữa
làm cho tôi rất buồn và luyến tiếc là quê hương mình rất đẹp mà để quân
Cộng sản vào gây chiến tranh tàn khốc và gây biết bao cảnh đổ nát điêu
tàn, biết bao gia đình phải điêu linh!
Ðến thành phố Huế, hai “bộ đội” cho chúng tôi xuống xe để ăn trưa.
Ðồng bào hay tin tù cảo tạo được về Nam từ các trại tù miền Bắc đã đổ xô
tới bao vây chúng tôi. Các bà cụ già và các phụ nữ nhìn thấy chúng tôi
mặt mày xanh xao hốc hác, bơ phờ và ốm gầy nên động lòng khóc nức nở.
Chúng tôi bị cấm không cho tiếp xúc với đồng bào, nhưng khi nhìn qua ánh
mắt của mấy bà tôi hiểu là các bà rất thương cảm chúng tôi và họ hình
dung bóng dáng chồng con hay anh em của họ cũng tiêu điều như chúng tôi
vậy, nên họ mủi lòng không cầm được nước mắt. Có một bà cụ chửi khe khẽ
rằng: “Ðồ quân khốn nạn! Chúng bay đày đọa mấy người cải tạo ra nông nỗi
này!” Một điều làm cho tôi luyến tiếc là phố Huế ngày xưa thanh bình
thơ mộng, nay sao tôi thấy tiêu điều buồn tênh! Có lẽ phố Huế cũng buồn
theo vận nước?
Anh em chúng tôi chia ra từng toán vào các quán ăn cạnh nhau trên một
đường phố. Các người chủ quán đều không tính tiền và còn cho uống Beer
và nước ngọt thật ngon lành vì mấy năm nay đâu được có những thứ này.
Ngồi trên xe đò đi tiếp về Saigon, chúng tôi nghe các anh lơ và tài
xế chửi xỏ chửi móc chế độ Cộng sản thậm tệ bất cần hai “bộ đội” đi theo
chúng tôi. Nhưng lúc ấy tinh thần chúng tôi bị sa sút sau mấy năm trong
tù luôn bị đe dọa, bị khủng bố và hoang mang thành ra nhút nhát nên
nghe họ chửi rủa anh em chúng tôi cũng ngại lắm. Một anh bạn tù cắt
ngang những lời trách oán của anh lơ xe và hỏi anh lơ rằng: “Lúc này
nước nhà được giải phóng và được thống nhất chắc là đồng bào mình có
cuộc sống ấm no lắm phải không?” Tôi nghĩ là anh bạn tù này muốn hỏi để
cho anh lơ ấy không chửi nữa vì sợ ảnh hưởng không tốt cho anh ta, chứ
chúng tôi cũng biết dân miền Bắc khổ và đói rách lắm dưới sự cai trị của
bọn bạo tàn cộng sản đã mấy mươi năm qua, làm gì mà dân Nam có được
sung sướng? Nhưng anh lơ lại nói thêm: “Giải phóng cái con mẹ gì, giải
phóng là phỏng… đó mấy ông ơi! Dân khổ chết cha đi mấy ông, muốn mua gạo
ăn phải trình hộ khẩu và đăng ký, mua thứ gì cũng không có để mà xài,
vật giá leo thang và đồng tiền rẻ mạt vì bị mất giá.”
Xe đò chở chúng tôi đi qua Thành phố Sài Gòn đến Gò Vấp rồi từ từ vào
thành Ông Năm là trại giam Sĩ quan cấp Úy. Tôi rất ngậm ngùi khi thấy
quang cảnh điêu tàn và buồn tẻ, các cửa hàng khang trang của Sài Gòn năm
xưa đều đóng. Thủ đô Sài Gòn ngày nay không phải như trước năm 1975 mà
lúc xưa được gọi là hòn ngọc Viễn Ðông.
Lòng mãi u buồn nhớ Sài Gòn.
Tên ấy không còn với nước non.
Sài Gòn mất tên trong sử sách.
Giặc Cộng vào bôi dấu bia son.
Sài Gòn trải qua cơn hỗn loạn.
Tự do, hạnh phúc cũng chẳng còn.
Hòn ngọc Viễn Ðông nay tan biến.
Lòng mãi u buồn tiếc Sài Gòn.
MC
Khi chúng tôi vừa mới tới thành Ông Năm, tên “thủ trưởng” trại chịu
trách nhiệm toán chúng tôi nói rằng: “Các anh học tập tốt được Cách mạng
cho về đây ăn học tiếp.” Tôi nói thầm: Tốt chỗ nào? Lao động khổ sai
đói rét muốn bỏ mạng mà gọi là học tập, bọn chúng mầy lúc nào cũng nói
láo. Ðầu óc chúng tôi rất hoang mang không biết còn phải ở tù thêm bao
lâu nữa? Hay lại chuyện gì sẽ xảy ra đây, trong khi tên trưởng trại tù
Yên Bái đã nói rằng chúng tôi được về sớm vì lý do già yếu, bịnh nặng
gần chết và tàn phế, v.v… Thật là chánh sách của Đảng dạy bọn chúng mầy
là nói láo, nói láo từ trên xuống dưới và nói láo từ nơi này đến nơi
khác.
Trước khi chúng tôi được về có anh Trung Tá H… tùy viên quân sự của
Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại nước ngoài và một số tù cải tạo ở chung
trại số 1 Yên Bái với tôi được chúng bảo chuẩn bị hành trang để được
thả về. Nhưng một thời gian sau đó anh em đi vào rừng gặp lại anh H…đang
lao động với anh em của trại khác. Một anh tù đã hỏi rằng: Sao anh
H…còn ở đây? Chưa về với gia đình sao? Anh H…khe khẽ chửi thề: “Ðồ bọn
nói láo, mấy anh đừng có tin chúng nó.”
Nhớ lại câu chuyện này tôi càng hoang mang lắm mặc dù đã về trong Nam
rồi, nhưng tôi nghĩ rằng dù sao đi nữa về đây ở tù thêm cũng được gần
gia đình và khí hậu ấm áp hơn.
Nỗi lo âu và tinh thần bị khủng hoảng khi về với gia đình.
Về nhà mừng vui được sum hợp gia đình nhưng không khí rất là ngộp thở
vì những tên Công an Khu vực tới nhà xét bất cứ lúc nào. Lúc bấy giờ
những tù cải tạo khi được thả về gia đình phải trình diện mỗi tuần hoặc
hai tuần hoặc mỗi tháng một lần tùy ý của bọn công an địa phương. Vợ tôi
phải đi báo cáo ngay cho công an khu vực khi vừa về tới nhà. Ngày hôm
sau tôi phải trình diện đồn quân trấn Thủ Ðức và sau đó mỗi tuần một
lần. Tôi nghe nói tên công an trưởng đồn quân trấn lúc trước là anh thợ
vá vỏ xe đạp tại chợ Thủ Ðức. Tôi không bao giờ có ý chê bai hay khi dễ
những người ít học. Tôi rất thông cảm hoàn cảnh sống nghèo khổ của mỗi
người. Nhưng tôi rất bực mình thái độ đã vô học lại còn vô giáo dục với
bản chất hèn hạ và nhỏ mọn của quân Cộng sản như lũ chém trâu đốt nhà và
ăn hại đồng bào.
Mỗi lần tôi trình diện, tên này luôn luôn có cái bản mặt mày hằn học
với tôi lắm, vì theo giấy ra trại hắn biết tôi trước năm 1975 là Quận
trưởng Dĩ An, Biên Hòa và quận Ðức Hòa, Hậu Nghĩa. Còn tên Công an Khu
vực cứ mỗi ngày đến kiểm soát tôi và hắn ta nói rằng: “Tôi tới thăm anh
Châu khỏe không? và tiến bộ ra sao sau khi Cách mạng nuôi ăn học một
thời gian”.
Tôi tức căm hờn với những câu nói này vì bị bọn Cộng sản chúng nó đày
đọa gần chết mà nói ăn học cái gì? Chúng tôi đã nhiều lần nghe những
lời nói y rập một khuôn của bè lũ này từ lúc vào Long Giao đến trại Suối
Máu rồi ra Yên Bái. Tên Công an Khu vực thường đến nhà đúng lúc vợ tôi
đi chợ về là hắn lục lạo vào giỏ đi chợ xem vợ tôi đã mua thứ gì để theo
dõi hằng ngày mình ăn món gì, nhưng hắn nói trớ là xem vợ tôi “có mua
đủ thức ăn cho tôi bồi dưỡng không”, theo ngôn ngữ của bọn Cộng sản.
Trong thời gian tôi làm việc tại quận Dĩ An, anh em Chiến sĩ Địa
phương chúng tôi đã không ngại gian khổ hành quân ngày đêm nên tiêu diệt
gần hết thành phần hạ từng cơ sở trong Quận. Vài tên còn lại phải bỏ
vùng hoạt động và ẩn náu giũa hai liên ranh Dĩ An và Tân Uyên. Cho nên
sau hai tháng được miền Bắc thả về, bọn Việt Cộng địa phương đến bắt tôi
lại để trả thù, nhưng chúng nói là tôi được Công an tỉnh Sông Bé và
Biên Hòa mời tôi lên đó làm việc với chúng trong 10 ngày. Chúng nó cho
tôi mười phút chuẩn bị đồ đạc và thuốc men đủ dùng trong hai tuần lễ.
Nhìn mặt chúng lộ vẻ đằng đằng sát khí nên tôi nghĩ chúng sẽ giết tôi
để trả thù hay sẽ làm nhục tôi trước dân chúng tại quận Dĩ An nơi tôi
làm việc trước kia, cũng như chúng đã bắt vài Sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy
chi khu của tôi đi quét đường và làm vệ sinh quanh khu phố. Tôi quyết
định dùng thuốc tự sát thà chết tại nhà với vợ con hơn là bị bọn chúng
làm nhục trước công chúng. Tôi đoán chắc rằng bọn nó sẽ giết tôi và vùi
xác nơi nào đó mà vợ con không hề biết được. Tôi bèn mở tủ thuốc lấy một
ống Optalidon mang vào phòng tắm vì không muốn cho hai con gái lớn của
tôi thấy và uống gần hết ống thuốc. Sau đó vài phút tôi bắt đầu xây xẩm
mặt mày và biết chắc chắn rằng tôi sẽ chết. Không còn sợ chi nữa và rất
bực tức, tôi trở ra phòng trước chửi bọn chúng dữ dội và nói rằng chánh
sách của bọn chúng bây là nói láo, đừng hòng mà bắt tao lại để trả thù.
Ngay lúc đó vợ tôi đi vắng nhà vừa về và tôi chỉ còn nói được ú ớ vài
tiếng rồi ngã vào vòng tay của vợ tôi và ngất lịm luôn.
Sau khi tỉnh lại, được vợ tôi thuật rằng chúng muốn chở tôi đến Bệnh
viện Sông Bé để bọn chúng lo. Vợ tôi đoán rằng bọn Cộng sản sẽ giết tôi
nên nhứt quyết không cho chúng chở đi. Trước sự giằng co dữ dội của vợ
con tôi cùng sự chứng kiến của người cùng xóm, bọn Việt Cộng đành để vợ
con tôi đem tôi ra xe chở vào Bệnh viện Nguyễn Văn Học và đuổi theo
chúng tôi sau đó. Tôi đã may mắn được người cháu là Bác Sĩ Nguyễn Xuân
Tùng đang là BS trực tận tình cứu tôi trong khi đó tên “BS” Cộng sản
Trưởng khu cấp cứu nói rằng: Anh này đã chết rồi, anh Tùng không cần
chạy chữa nữa. Tên “BS” Việt Cộng ra lịnh cho y tá rút ống dưỡng khí ra,
nhưng vợ tôi và BS Tùng mạnh dạn kháng cự lại. Thật rõ ràng là bọn
chúng muốn giết tôi chết. Tên này và bè lũ quả thật dã man, tàn ác.
Trong thời gian này vợ tôi vất vả vô cùng vì sợ chúng giết tôi nên mỗi
đêm phải nằm túc trực tại hành lang phòng hồi sinh để theo dõi và canh
chừng tôi.
Sau ba ngày đêm nằm nơi phòng hồi sinh tôi tỉnh lại và tìm mọi lý do
nằm thêm môt hai tuần nữa vì còn yếu sức để nghĩ ra mưu kế trốn thoát
khỏi Bệnh viện vì vợ chồng chúng tôi được bà BS M…và cô Y tá A…, bạn học
cũ Gia Long với vợ tôi, đã mật báo cho vợ tôi biết là mỗi buổi sáng khi
bàn giao phiên trực, tên “BS thủ trưởng” đều lưu ý tất cả Nhân viên là
hãy coi chừng và theo dõi một tên Trung Tá ngụy đang nằm chữa bệnh. Tôi
đã biết là chúng nó sẽ bắt tôi tại bệnh viện. Lúc bấy giờ tôi cũng được
hay tin có một số Sĩ quan về cùng lúc với tôi cũng bị bọn CS bắt lại,
không biết số phận của các ông ấy đã ra sao?
Những phút giây hồi hộp.
Vào một buổi sáng bà BS M… mật báo cho vợ tôi biết là tên “thủ trưởng
sẽ ra lịnh cho tôi xuất viện lúc 4 giờ chiều ngày mai”. Vợ chồng chúng
tôi hiểu ngay là bọn chúng sắp đặt âm mưu để bắt tôi lại khi tôi ra khỏi
cửa nhà thương. Vợ chồng chúng tôi quyết định phải trốn khỏi bịnh viện
vào lúc sáng sớm ngày hôm sau.
Thấy tình hình nguy kịch, chị cả của tôi là một Soeur của nhà dòng
Vinh Sơn và cũng là Y tá trưởng của Khoa Nhi Ðồng đang làm việc tại đây
đã cùng vợ tôi đến gặp vị Linh mục của nhà thờ nằm ngay phía sau của
Bệnh viện Nguyễn Văn Học để cầu cứu. Chị tôi kể sự việc của tôi đã xảy
ra cho Linh mục nghe và nói rằng: “Bọn Việt cộng sẽ bắt em tôi lại tại
Bệnh viện này vào chiều ngày mai, vậy nhờ Cha cho chúng con dẫn em con
đi qua cửa sau để tẩu thoát, nếu không sẽ nguy cho tánh mạng của em con
lắm.”
Linh mục được biết hoàn cảnh nguy hiểm của tôi liền chấp nhận và nói
rằng: Sáng mai từ lúc 5 giờ Cha sẽ chờ và sẵn sàng mở cửa sau khi các
con tới. Chị tôi nay đã trên tám mươi và đã về hưu, còn vị Linh mục đã
cứu giúp tôi không rõ còn sống hay không?
Lúc bấy giờ tôi còn quá yếu, mặc dù bà chị và vợ tôi dìu hai bên giúp
tôi đi cho nhanh, nhưng tôi lê lết từ bước chân đi âm thầm, chậm rãi và
thật hồi họp dưới ánh đèn lờ mờ vào khoảng gần 5 giờ sáng, lúc bệnh
nhân còn ngủ nên không ai hay biết. Vừa đến cửa sau thì linh mục nhanh
tay mở cửa ngay cho chúng tôi đi qua. Sau khi chúng tôi vào phòng khách
của nhà dòng vợ tôi lập tức gọi xe Taxi chở thẳng về nhà ông bà ngoại
của mấy cháu tại Chợ Lớn.
Thế là một lần nữa tôi được thoát khỏi gông cùm Cộng sản trong gang
tấc. Tôi không quên ơn cháu BS Tùng hiện đang hành nghề tại thành phố
Winnibeg, Canada, đã cứu sống tôi. Cám ơn bà BS M… và bà Y tá A… đã mật
báo cho vợ chồng tôi biết trước những âm mưu của Cộng sản trong lúc tôi
đang nằm điều trị. Những ơn nghĩa lớn lao này chúng tôi còn mang mãi
trong lòng đến trọn đời.
Vừa về tới nhà cha mẹ vợ ở đường Trần Hoàng Quân thì cháu gái lớn của
chúng tôi xuống nhà báo cho biết là bọn Công an đồn Quân trấn Thủ Ðức
đến bao vây và xét nhà để tìm tôi. Bọn chúng hỏi cháu rằng tôi đã ra
khỏi bệnh viện rồi, bây giờ ở đâu? Cháu đã được vợ tôi căn dặn trước là
tôi sẽ trốn ra khỏi nhà thương nên cháu trả lời là không hay biết gì, vì
hai tuần nay phải ở nhà trông nom các em nhỏ. Tên công an trưởng ra
lịnh cho con tôi là sáng ngày hôm sau phải ra trình diện đồn Quân trấn
Thủ Ðức.
Chúng tôi dư biết rằng bọn man rợ sẽ bắt giam con gái tôi để điều tra
nên chúng tôi bảo sáu đứa nhỏ phải lén trốn khỏi nhà ở Thủ Ðức mà về ẩn
náu tạm nơi nhà bà chị tôi ở Gia Ðịnh. Con gái lớn chúng tôi lúc đó mới
được mười bốn tuổi cùng một cháu gái con của cựu Trung Tá Tiểng, Tỉnh
trưởng Ban Mê Thuột, ở Cư xá Kiết Thiết giúp đỡ phải dẫn dắt năm em nhỏ
âm thầm chạy trốn trong lúc trời còn mờ sương chưa sáng.
Sau đó vợ tôi đưa mấy cháu về Chợ Lớn sống nhờ với ông bà ngoại để vợ
tôi rảnh tay mà đối phó với tình hình vô cùng nguy hiểm của tôi. Chú
Thím Châu còn nhớ ơn của cháu Trang đã không ngại nguy hiểm để lo cho
mấy em được an toàn.
Tôi ngẫm nghĩ lại chế độ Tự do của miền Nam chúng ta quá rộng lượng
và quảng đại. Trong thời gian tôi làm Quận trưởng, từ cơ quan Chính
quyền đến Quân đội, anh em chúng tôi không bao giờ khuấy nhiễu hay hành
hạ thể xác hoặc tinh thần của gia đình bọn Việt Cộng địa phương đang nằm
trong lòng bàn tay quyền lực của chúng tôi. Nếu thế cờ Quốc tế đảo
ngược lại, miền Nam thắng và chế độ Cộng sản sụp đổ, chúng ta sẽ đối xử
chúng với khí thế quân tử của đại trượng phu. Miền Bắc sẽ không phải là
một trại tù khổng lồ như miền Nam sau 30 tháng 4 năm 1975. Bọn Cộng sản
chúng nó thật là quân hèn hạ và vô liêm sỉ!
Tôi còn nhớ trong thời gian tôi làm Quận trưởng Dĩ An, có một bà vợ
bé của tên Tướng Việt Cộng Ðào Sơn Tây được chúng tôi để sống rất bình
yên trước Bộ Chỉ Huy Quận của chúng tôi. Tướng VC Ðào Sơn Tây này trước
kia là Công nhân của sở Hỏa xa tại Dĩ An hồi thời Pháp thuộc.
Những ngày tháng buồn não nề trên gác trọ.
Sau khi trốn ra khỏi nhà thương, tôi tuyệt đối không tiếp xúc với bất
cứ ai ngoài vợ tôi. Mỗi chiều tối vợ tôi phải lén lúc đến nơi tôi sống
ẩn dật để tiếp tế. Trong người tôi chỉ có tờ giấy ra trại và giấy chứng
nhận trình diện của đồn công an Thủ Ðức mà nay đã vô dụng rồi. Tôi phải
dùng tờ giấy Chứng cử tri của em trai kế tôi. Nhờ trên hình của tờ giấy
rất thô sơ không có đóng mộc, thành thử tôi chỉ thay tấm hình của tôi
vào mà xài mỗi khi di chuyển hay đổi chỗ ở. Mỗi lần đi vượt biên cũng
xài giấy Công nhân giả do bạn tôi chứng nhận tôi đi công tác sửa chữa
máy đèn. Bây giờ nhớ lại cũng buồn cười là tôi chẳng có biết chút kinh
nghiệm gì về việc sửa chữa máy đèn hay máy phát điện. Nhưng cũng nhờ bọn
Công an ngu ngốc không biết hạch hỏi tôi hoặc là nếu chúng nó nhờ tôi
sửa máy đèn thì tôi chẳng biết gì và sẽ bi lộ tẩy ngay là tôi xài giấy
tờ giả mạo.
Trong hoàn cảnh tôi là tù vượt ngục ai cũng rất ngại ngùng sợ bị mang
họa cho gia đình họ nếu tôi bị phát giác và bị chúng nó bắt lại. Sau
hơn sáu tháng sống rày đây mai đó rồi tôi cũng liều mạng cứ trụ lại một
chỗ tương đối kín đáo tại cư xá Lữ gia, Phú Thọ. Người chủ nhà là một Sĩ
quan cấp bực Chuẩn úy bà con dám chứa chấp tôi ở luôn. Nhưng mỗi khi
nghe tin Công an sẽ xét nhà tôi lập tức dời đi nơi khác. Có một lần ông
chủ nhà toa rập với bọn Việt Cộng giữ kho sơn tẩu tán một số sơn bột của
Mỹ và cất giấu trong nhà ông ta. Ðã nghèo lại mắc cái eo, nhận thấy
tình hình nguy hiểm quá tôi phải dời đi nơi khác một thời gian vì sợ vụ
buôn lậu bị bại lộ thì tôi cũng lộ mặt luôn.
Tôi sống âm thầm cô đơn trên từng gác trọ thật không khác nào kiếp
sống tù, nhưng dù sao tôi cũng được no ấm hơn anh em còn kẹt lại trong
các trại tù ngoài Yên Bái. Lúc bấy giờ tinh thần tôi bị khủng hoảng trầm
trọng vì sợ bọn Cộng sản tìm ra tôi và bắt lại là đời tàn. Cứ vài ba
tháng tôi lén lút về thăm các con đang sống nhờ nơi nhà ông bà ngoại mấy
cháu. Có một đêm nhằm lúc tôi về, tên Công an Khu vực đến xét hộ khẩu,
tôi phải thoát ra cửa sau ẩn trốn cạnh chuồng gà. Ôi! thật là nhục nhã
cho cuộc đời lính bại trận.
Trong thời gian đó vợ tôi luôn tìm đường dẫn tôi vượt biển để bảo
toàn tánh mạng. Trong hoàn cảnh trốn chui trốn nhủi tôi bắt buộc phải
vượt biển đơn thân độc mã đi trước. Thật là đau đớn không khác nào ra đi
mà bứt tim gan để lại vì không biết đến bao giờ mới gặp lại vợ con?
Nhưng tôi quyết phải ra đi để tìm con đường sống rồi sẽ tính tới việc
gia đình sau.
Mối căm thù này không phải chỉ của riêng tôi mà cũng là của
biết bao nhiêu Chiến sĩ đồng đội của tôi trong cùng một hoàn cảnh. Tôi
không bao giờ quên mối hận này được, cho nên mặc dù qua Mỹ đã lâu rồi và
tôi rất thương nhớ Quê hương, nhớ vài anh chị em ruột thịt còn kẹt lại
bên quê nhà, nhưng tôi thật sự không muốn trở về lúc này để nhìn thấy
lại mặt mày bọn man ri, mọi rợ và tôi cũng không muốn thấy lá cờ máu hôi
tanh của bọn chúng!
Xuân, Hạ, Thu, Ðông, đã mấy lần?
Sống kiếp lưu vong, buồn quốc hận!
Mong ngày nào trở về quê cũ.
Nước thanh bình, thỏa thích vui Xuân!?
(Trích bài thơ bốn Mùa Trên Quê Hương – N.M.Châu )
Sau hai lần ra Nha Trang mà chuyến đi không thành phải trở về. Lần
thứ ba có chuyến vượt biển từ Cà Mau nhưng bị đình hoãn. Vợ chồng chúng
tôi rất khổ sở vì chuyến đi bị đình hoãn nhiều ngày rồi lại bỏ cuộc, nên
trong hai tuần lễ ăn ở chờ đợi đã hết tiền. Vợ tôi phải bán mấy bộ đồ
chúng tôi mang theo để sống qua ngày, đến cuối cùng không còn gì để bán
ngoài bộ đồ đang mặc. Thật là thất vọng vô cùng! vì chẳng quen biết ai
nơi đây mà xin xỏ hay vay mượn tiền, và lúc này cuộc sống của mọi nhà
đều rất khó khăn. Tôi nói đùa với vợ tôi rằng: không lẽ chúng mình bán
hết cả bộ đồ đang mặc và mặc đồ tắm biển mà trở về Sàigòn hay sao? Chúng
tôi chỉ còn đủ tiền đi quá giang xe chở gạo đến nhà thờ Phụng Hiệp, Cần
Thơ, để xin tiền bà chị tôi lúc đó đã đổi về làm bà Nhứt tại một nhà
dòng tu nhỏ nơi đây để xin tiền mới có đủ mà mua vé xe chợ đen về đến
Saigon. Thật là khốn cùng!
Cứ mỗi lần đi không được tôi quá thất vọng và chán nản vì phải tiếp
tục cuộc sống âm thầm lén lút trên gác trọ với bao nỗi lo âu! Muốn tìm
mảnh đất Tự do để dung thân không phải là dễ dàng. Hai chữ “Tự Do” thật
là quí giá vô cùng!
Vấn đề di chuyển vào những năm đó rất khó khăn vì xe đò bị kiểm soát
và rất hạn chế. Trong những lần đi tìm đường vượt biển vợ chồng chúng
tôi ngủ bến xe rất thường cũng như bao nhiêu hành khách phải nằm bến xe
để dành ưu tiên “Đăng ký” mua vé, nếu chậm trễ là hết. Muốn di chuyển từ
Saigon ra Nha Trang hay từ Sàigòn xuống tỉnh cũng phải vất vả như thế.
Có những khi chúng tôi phải ngủ bờ ruộng hay ngủ gò mã vì không dám vào
khách sạn dễ bị bọn Công an chú ý. Tôi đã quen những cảnh ngủ bờ ngủ bụi
gian khổ như thế này trong những năm chinh chiến, nhưng trong cái thế
hào hùng của người của người lính trận đi hành quân diệt giặc. Bây giờ
trong hoàn cảnh của một kẻ tù vượt ngục và vượt biển thật là nhục nhã ê
chề. Tôi thật thương vợ tôi vô cùng, tội nghiệp và xót xa cho vợ tôi
phải chịu cảnh vất vả, đắng cay như thế này Cuối cùng tôi đi được an
toàn đến bờ biển Thái Lan trên một chiếc thuyền con chỉ dài hơn chín
thước. Sau khi được tin tức của tôi từ đất Thái, vợ tôi đã yên tâm và
rãnh tay tự một mình hướng dẫn và lèo lái chiếc ghe nhỏ dẫn dắt sáu đứa
con thơ đến bờ biển Mã Lai bình yên vô sự.
Thật là một ơn phước lớn của Thượng đế đã ban cho gia đình chúng tôi!
Thế là từ đây một thời hoạn nạn khốn khổ của gia đình đã qua. Chúng tôi
cũng nghĩ rằng mưu sự tại nhân và thành sự tại Thiên. Chúng tôi rất
mang ơn Thượng đế đã giúp gia đình chúng tôi được sớm đoàn tựu và đã ổn
định cuộc sống nơi xứ người.
Nhưng ngày nay lại rủi thay! với hoàn cảnh hiện tại tôi không hiểu
rằng khi đất nước thật sự được Thanh bình và tự do dân chủ tôi có thể
trở về lại quê nhà được không?!
Tôi xin ghi vài dòng thơ đơn giản nói lên một ước mơ ngày về thăm quê hương.
Nếu Tôi Về…
Nếu về, tôi xuống miền quê Cao Lãnh.
Viếng mồ cha mả mẹ ngủ thiên thu.
Ði trên đường đê, tìm ngôi trường cũ.
Thăm lớp học vỡ lòng thời thơ ấu.
Nếu về, tôi thăm Trà Vinh yêu dấu.
Nhớ lại một thời thiếu niên lận đận.
Sống đời côi cút, sống cảnh cơ bần.
Lao động, học hành, mong được tiến thân.
Nếu về, tôi thăm Gia định, người thân.
Tạ ơn anh, nuôi tôi sống an lành,
Nhớ chị, thay mẹ dạy dỗ thành danh.
Có một hành trang cho đời khôn lớn.
Nếu về, tôi thăm đồi Tăng Nhơn Phú.
Nơi đây được rèn binh thư, võ luyện.
Giúp tôi trở thành một người lính chiến.
Giữ yên bờ cõi, giữ vững giang san.
Nếu về, thăm vùng chinh chiến gian nan.
Tìm lại vết tích một thời oanh liệt.
Tìm kỷ niệm vui buồn đời lính chiến.
Và nhìn lại những danh lam thắng cảnh.
Nếu về, tôi đến Dĩ An đất lành.
Thăm các Chiến sĩ địa phương anh dũng.
Ðã cùng tôi diệt Cộng phỉ nằm vùng.
Gặp đồng bào, thăm xóm làng thân ái.
Nếu về, tôi sẽ lên miền Yên Bái.
Thăm bạn tù nằm giữa núi hoang vu.
Nơi bọn dã thú đày ải người tù.
Chỉ vì cái tội giúp dân cứu nước.
Nếu về, tôi đến Nghĩa Trang Quân Ðội.
Tìm lại hình bóng Pho Tượng Tiếc Thương.
Thăm những đồng đội gục ngã chiến trường.
Tưởng niệm anh hùng bỏ mình vì nước.
Những điều tôi muốn chỉ là mộng ước.
Vết đạn thù làm đời tôi nghiệt ngã.
Xe lăn bánh mỏi mòn trên đất lạ.
Chỉ mong ngày về trong đống tro tàn!
Nguyễn Minh Châu
TÐ3 Soibien
0 comments:
Post a Comment