Hồi
ký của ông Bảo Lộc, bút hiệu Hồng Châu, ông là Phó Tỉnh Trưởng Thừa
Thiên (Huế) trong thời gian Tết Mậu Thân, đã bị VC bắt khi chúng đột
nhập Huế…
Đây là chuyện thật của một nhân chứng sống sót trong biến cố Mậu
Thân tại Huế, ông may mắn không bị CS sát hại, nhưng bị đưa ra Bắc cầm
tù 13 năm từ 1968 đến 1980 và đã đào thoát được trong một trường hợp hy
hữu.
**********
Tôi thức dậy với tiếng nổ lớn phía cầu Kho Rèn vọng lại. Từ nhà tôi
đến nhà máy điện chỉ nửa cây số. Chấn động lan tỏa làm cửa ngõ và đồ đạc
trong nhà rung chuyển dữ dội. Tôi cố bật đèn để tìm chiếc máy điện
thoại, nhưng chỉ thấy tối om, điện đã bị cắt.
Dưới ánh sáng ngắn ngủi của chiếc bật lửa, tôi cố quay số gọi vài nơi
để tìm hiểu tình hình, nhưng vô ích, không nơi nào chuông đổ, đường điện
thoại đã bị đứt. Mở chiếc máy thu thanh bán dẫn nhỏ, tôi hy vọng qua
những làn sóng xa xôi, có thể bắt gặp vài tin tức hữu ích. Nhưng cố gắng
này của tôi cũng chẳng đem lại chút kết quả gì, chỉ có những bản nhạc
xa lạ và tiếng sè sè của những băng tần không phát sóng kéo dài chán
nản.
- Thôi anh ạ, có gì đợi sáng rồi sẽ hay. Bây giờ mình vào hầm trú ẩn đi, có thể chúng lại pháo kích tiếp như lần trước đấy.
Vợ tôi chia sẻ mối băn khoăn của tôi bằng hành động thực tế là nghĩ
đến sự an toàn trước mắt đã. Chúng tôi chạy vội sang phòng kế bên, ẵm
đứa con nhỏ đầu lòng mới tròn 6 tháng, đưa vào chiếc hầm nổi cất bằng
những bao cát nhỏ xếp lại ở góc hành lang nối liền phòng khách với phòng
ngủ, không vững chắc lắm, nhưng cũng đủ che chở cho một gia đình nhỏ
chống lại những quả đạn cối bắn trộm.
Trước đó, cũng như nhiều gia đình khác ở khu Tả ngạn, chúng tôi đã
mấy lần nếm mùi pháo kích Cộng sản và cảm thấy coi thường cái trò chơi
dọa nạt này khi chỉ với một chiếc hầm cất tạm, chúng tôi đã có thể yên
tâm tiếp tục giấc ngủ bị phá quấy, để sáng mai trở dậy thấy cuộc sống
vẫn bình thường như không có gì đã xảy ra.
Lần này, tuy những dấu hiệu mới cho tôi linh cảm đã có một cái gì
khác lạ. Nhưng sự im lặng tạm thời tiếp sau đó đã đánh lừa tính cảnh
giác trong tôi, để dần dần du tôi vào nếp nghĩ đã thành quán tính. Thiu
thiu ngồi đợi sáng trong căn hầm chật, tôi không còn nghe những tiếng nổ
gần và rời rạc như tiếng pháo đã có lúc ran lên giữa đêm.
- Chắc chúng đã rút đi rồi. Giờ nầy chúng không còn dám pháo nữa đâu,
sợ lộ tọa độ đó, đại bác của ta câu xuống là chúng hết đường chạy.
Anh Duy, người Cảnh sát Dã chiến trẻ tuổi vừa cưới vợ tháng trước,
được tôi cho ở nhờ căn nhà dưới, dè dặt góp ý. Anh đang vận động để được
biệt phái giúp việc cho tôi, nhưng chưa được. Anh cũng đang sốt ruột
đợi sáng để trở về đơn vị.
Tôi không tỏ ý kiến nào, nhưng trong trí tôi đang diễn lại những lần
trao đổi với Thiếu Tá Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu (Sau này là Đại Tá Tỉnh
Trưởng, còn bị Cộng sản cầm tù) về một biện pháp khả dĩ có thể trừ khử
những ổ pháo di động của Cộng sản ngay khi chúng vừa bắn lén vào Thành
phố. Thiếu Tá T. vừa khoe, sau nhiều tháng theo dõi, ông đã tóm cổ được
bọn đặc công đã tham gia vụ pháo kích Khách sạn Hương Giang trước đây
trong một cuộc hành quân lục soát ở quận Phú Thứ. Ông cũng nắm được tin
tức về những toán phá hoại khác, thường theo ngã Vân Dương từ phía Nam
lên hay Chín Hầm từ hướng Tây xuống để đặt pháo bắn vào Huế. Bọn này chỉ
dám bắn cấp tập từng đợt ngắn rồi rút ngay vì sợ phản pháo.
Khi chúng tôi dậy mở cửa nhìn ra đường thì trời đã sáng hẳn. Ngày
mùng 2 Tết bắt đầu với một vừng triêu dương xán lạn và những cơn gió
Xuân phớt đùa trên ngọn cỏ long lanh sương sớm, thiên nhiên vô tình như
không hề hay biết sự chết chóc, nỗi hãi hùng ngạt thở đang diễn ra đâu
đây dưới những mái nhà cửa còn khép kín. Con đường Lý Thường Kiệt trải
dài trước mắt tôi, vẫn thân thiết với những biệt thự nhu mì ẩn sau hàng
dậu gỗ thanh bai, sáng nay ngoài vẻ kín đáo thường nhật, có một cái gì
như hoang vắng, im lìm. Tôi vươn vai hít thở cái không khí ban mai tươi
mát cho bõ những giờ ngột ngạt dưới hầm. Chung quanh hoàn toàn yên tĩnh.
Anh Duy đã thay xong bộ y phục Dã chiến, định ra đi, còn cẩn thận nhắc
nhở tôi can thiệp dùm với cấp trên của anh nếu sau này lỡ anh bị kỷ luật
vì trình diện trễ.
Giữa khi đó thì tôi phát giác có những toán quân đang im lặng di
chuyển trên đường. Họ đi từng người một, cách nhau vài trăm thước, ở cả
hai phía vệ đường, từ phía cầu Kho Rèn hướng thẳng xuống nhà Bưu Điện
Trung Ương và Khu Đại học. Lặng lẽ, rất lặng lẽ, những bóng người áo
vàng, đầu trần, súng hờm sẵn đang tiến dần đến nhà tôi. Việt Cộng xuất
hiện trên đường phố giữa thanh thiên bạch nhật – cho đến giờ phút ấy
thật tình vẫn chưa hề có trong ý nghĩ tôi. Trong cái ấn tượng đột ngột ở
ngoài nhận thức, tôi cứ cho họ là một thứ quân nào đó của Quốc gia và
chỉ có thể là như thế. Vả lại, trông họ không giống với những hình ảnh
của những Việt Cộng nằm chết ngài trận địa mà tôi đã mấy lần trông thấy
từ mặt trận Cùa (Cam Lộ) cho đến Gia Đẳng, Nhan Biều (Triệu Phong) trên
mình chỉ có chiếc quần đùi và mảnh áo bà ba đen, với nắm cơm vắt tung
tóe bên người. Bọn này mặc Kaki, trên tay áo lại buộc một giải băng màu.
Tôi khép bớt cánh cửa để có thể tự do quan sát kỹ hơn. Tên đi đầu đã
ngang tới cổng nhà tôi. Một cảm giác lành lạnh chợt chạy suốt người tôi.
Tôi đã thấy rõ những ống quần xắn móng lợn cao thấu gối, những đôi dép
Bình Trị Thiên trên đôi chân đen đủi, nét mặt vàng vọt, với khẩu AK băng
đạn cong trên tay, lăm lăm họng súng đen ngòm. “Đúng là Việt Cộng rồi.”
Tôi tự nhủ thầm như thế, rồi như một phản xạ tự nhiên, tôi chạy vội vào
phòng lấy khẩu Carbine dấu sau cánh tủ, lắp đạn vào, đoạn trở lại phòng
khách, đứng sau cánh cửa khép hờ, nơi tôi có thể nhìn rõ mọi cử động
của chúng. Hồi đó, công chức chưa có lệnh vũ trang nhưng bác Thẩm,
Trưởng Ty Nội An, đã dúi cho tôi một khẩu Carbine Ấp chiến lược còn mới
nguyên, với lời dặn dò “Ông Phó cứ đem về nhà cất để dùng, biết đâu lại
chẳng có lúc phải cần tới nó.”
Đúng, giờ phút này tôi mới thấy một cây súng trong tay là cần biết bao và tôi thầm cảm ơn bác bạn già đã biết lo xa cho tôi.
Toán quân Cộng Sản này không di chuyển trên đường chính, mà chạy lom
khom dọc theo hai bên đường mương, mắt dáo dác nhìn quanh những ngôi nhà
cửa đóng kín. Những tên đi đầu đã vượt qua nhà tôi, đang xây lưng lại
phía tôi trong khi còn giữ một khoảng cách khá xa với những tên phía sau
. Tôi không ghìm được mình, hướng mũi súng về một tấm lưng gần nhất sẵn
sàng bóp cò. Tôi chưa hề giết người và cũng ghê tởm sự giết người, vốn
là một giới cấm trong tín ngưỡng của tôi. Nhưng hôm nay, khi đặt tay lên
cò súng, tôi như thấy mình đang làm một việc chính đáng.
Bỗng một bàn tay đặt lên vai tôi rồi một giọng nói nghe như van lơn, can gián :
- Đừng, đừng bắn, ông ơi. Họ đông lắm, ngã sau vườn mình cũng có họ
nữa. Nếu biết có mình trong này, họ tràn vào thì mình chống không nổi
đâu. Trong nhà còn có cô, có em nữa (Vợ và con tôi) ông cố đừng để cho
họ biết. Người Cảnh sát trẻ cố can ngăn tôi trong một cử chỉ thật đầy lo
âu.
Tôi thở dài, hạ mũi súng xuống đất, và ngẫm nghĩ : “Nếu ai cũng như
mình, tránh né trước kẻ thù thì đại cuộc sẽ đi về đâu ?” – Nhưng lời nói
của Duy cũng có lý, còn sinh mệnh của những người vô tội trong ngôi nhà
này nữa. Tôi không thể vô trách nhiệm đối với họ. Tôi bảo anh Duy đi
đóng chặt cửa ngõ lại, quyết tâm cố thủ, nếu chúng có ý định tấn công
nhà tôi. Chúng tôi củng cố lại chiếc hầm, đặt chướng ngại vật trên lối
đi, đoạn leo lên trần nhà quan sát. Từ chiếc cửa tò vò trên mái, tôi
thấy những hàng quân Cộng sản cứ tiếp tục đổ về hướng nhà Bưu Điện, chậm
chạp và thận trọng. Ngôi biệt thự hai tầng sơn trắng xế trước nhà tôi,
tư thất của Manhard, viên đại diện cao cấp nhất của Mỹ ở Huế, vẫn yên
lặng, nhưng thấp thoáng có bóng Việt Cộng ra vào. Tôi nhận rõ mối nguy
hiểm mới. Tòa Đại Diện Mỹ đã bị chiếm và Cộng Sản đang đóng chốt ở đây
dùng nơi này làm bàn đạp xuất phát cho những cánh quân tiền tiêu của
chúng. Sớm muộn gì chúng cũng khám phá ra tôi, vì nhà tôi đã bị lọt vào
thế bao vây của chúng.
Bỗng tiếng nổ chợt ran lên phía nhà Bưu Điện và ngã tư Lê Thánh Tôn –
Lý Thường Kiệt, một đầu mối giao thông quan trọng dẫn đến nhiều cơ sở
đầu não Việt, Mỹ. Cánh quân Cộng sản đã bị chận ở đây và chiến trận đang
diễn ra ác liệt. Tiếng nổ đủ loại súng đã tạo ra một lưới đạn khủng
khiếp đan chéo nhau ngay giữa mặt đường, đâm thẳng vào ngôi nhà tôi từ
cả 2 phía. Chính lưới đạn tai ác nầy, kéo dài từ ngày này qua ngày khác,
đã làm nhụt lòng những ai muốn tìm lại sinh lộ xuyên qua con đường bị
Cộng sản khống chế ngay từ phút đầu này.
Mặc dầu đạn vẫn bắn xối xả, phòng khách, phòng ăn nhà tôi đã bắt đầu
lỗ chỗ những vết đạn lớn nhỏ, tôi quyết trụ ở rầm thượng để dễ bề đối
phó với địch. Nếu xuống hầm, tôi sẽ bị mất khả năng theo dõi mọi động
tịnh chung quanh và trở nên bị động một cách nguy hiểm. Từ trên, tôi
nhìn thấy bao quát khu vực quanh tôi đang hoang vắng, một quang cảnh
chết chóc. Vắt ngang ngôi nhà kế bên của ông Thẩm phán Phạm Văn Hiền là
một chiếc dù hỏa châu màu trắng từ đâu rơi xuống nằm sóng sượt như một
giải băng tang. Bên kia đường là nhà ông Chánh án Nguyễn Khoa Hoàng, cửa
vẫn đóng im, không ngờ một bi kịch thương tâm đã xảy ra. Ngay hôm đó,
ông và người con, một luật sư trẻ tuổi, đã bị Cộng sản ập vào bắt dẫn
đi. Và cho đến nay, gia đình vẫn chưa biết họ đã chết ở đâu. Nhìn về
hướng đường Đống Đa, ngôi nhà sơn trắng nằm dưới hàng xoan xanh, nhà của
Đại tá Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn I, vẫn kín cổng, chưa có vẻ gì
bị đột nhập. Tôi tự hỏi giờ phút này ông ở đâu, đang cầm quân cự địch
hay cũng kẹt lại như tôi. Nhưng mối quan tâm của tôi hướng nhiều hơn đến
góc đường Lê Thánh Tôn, nơi mà các đợt xung phong dành kho bạc, nhà
giây thép, trụ sở Dân Ý Vụ vẫn xảy ra dữ dội. Tôi nghe như có cả tiếng
xích xe tăng đang nghiến mặt đường.
Cái biệt thự cao cao nằm kế bên nhà hàng Chaffanjon cũ đang phơi mình
hứng đạn từ bốn phía kia, là công ốc dành cho ông Chưởng Lý Bùi Hòe
Thực. Cụ Thực đã mấy lần đến năn nỉ tôi đổi nhà với cụ, vì muốn ở gần
những bạn đồng tòa như cụ Biện Lý Phạm Trung Côn, ông hội thẩm Hiền, đều
là láng giềng của tôi. Nếu tôi đồng ý với đề nghị của cụ, không hiểu số
phận gia đình tôi đã thế nào, có thể tốt hơn nhưng cũng có thể xấu hơn.
Cách đó trăm thước là tư thất Tướng Ngô Quang Trưởng. Ngôi nhà hai tầng
chỉ có một công sự nhỏ bằng bao cát để lính gác kiểm soát người ra vào,
nơi mà ông sống với gia đình, liệu có đứng nổi trước sức tràn ngập của
quân Cộng sản ? Nhớ lại tình hình chiều 29 Tết, khi Sĩ quan các đơn vị
lễ mễ mang những cành mai đến chúc Tết vị Tư Lệnh theo phong tục cổ
truyền, tôi đã thấy Tướng Trưởng nghiêm khắc ra lệnh cho họ phải về ngay
đơn vị để chuẩn bị đối phó với tình thế mới. Chứng kiến thái độ cảnh
giác của ông hôm ấy, tôi bớt thấy bồn chồn khi cảm thấy Việt Cộng như có
vẻ đã làm chủ tình hình khắp nơi. Thực tế, sau khi ban hành lệnh cấm
trại 100% cho tất cả Quân nhân, Tướng Trưởng đã có mặt tại Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn ngay đêm mồng một và từ đó ông đích thân Chỉ huy các cuộc phản
kích bảo vệ căn cứ, khi cuộc tấn công bắt đầu xảy ra.
Tôi đang loay hoay dựng lại những khúc gỗ cản đạn trên trần thì bỗng
“xoẹt, xoẹt”. Mái ngói trên đầu tôi vỡ toang hai lỗ lớn, hai viên đại
liên ghim thẳng xuống cách tôi vài phân. Một chiếc trực thăng vũ trang
UH-I A của Mỹ đang nghiêng nghé quan sát bên trên nhà Manhard, bỗng một
tràng thượng liên từ bên trong bắn lên làm chiếc máy bay hoảng hốt vọt
lùi và bắn trả nhiều loạt đạn dài, tiếng vang như sấm trước khi bay đi.
Viên đạn suýt trúng tôi là từ máy bay bắn xuống. Trong trí viên Phi
công, cả khu này đều đã lọt vào tay Cộng sản rồi, nhà nào cũng có thể có
Cộng sản ẩn núp bên trong, nên đã tự cho mình cái quyền tự do oanh
kích. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của tai họa khác.
Với việc di động ngày càng nhiều các đơn vị Cộng sản xuất phát từ
trường Thiên Hựu và các dinh thự bị chiếm cứ ven đường, khu Lý Thường
Kiệt bổng trở nên một bàn đạp nguy hiểm để Cộng sản phóng ra những trận
tấn công mới. Lực lượng giải tỏa đã thấy điều đó và những quả đạn cối
thăm dò đã bắt đầu rơi xuống. Lúc đầu còn thưa, nhưng sau càng ngày càng
dồn dập. Ngày đầu tiên chỉ có loại 60 ly, về sau là 80 ly, rồi đến đại
bác. Đạn rơi ngoài đường, đạn rơi quanh nhà, xuống nhà hàng xóm. Ngôi
nhà tôi vật vã dữ dội dưới sức ép và tiếng nổ như một cây nhỏ trước
cuồng phong, một đồn hoang sắp bị hạ. Hai con chó Nhật bản khôn ngoan
thường không rời chúng tôi nửa bước cũng quá khiếp đảm, tông cửa phóng
chạy như điên ra đường để rồi gục xuống trước những luồng đạn hung bạo.
Đó đây tôi cũng nhìn thấy thất thểu đoàn người chạy loạn, xô tới, dạt
lui không biết tránh vào đâu lưới lửa tứ bề, cuối cùng , từng người,
từng người gục ngã dần, xác gối vỉa đường, cho đến khi không còn ai.
Tình thế của tôi mỗi lúc mỗi hiểm nghèo thêm. Dưới nhà, vợ tôi không
dám di chuyển nửa bước khỏi hầm núp. Con tôi không có nước pha sữa, đành
cho ngậm Soda cầm hơi. Tinh thần ai cũng căng thẳng chờ đợi những nguy
hiểm mới. Bỗng một quả đạn cối rơi trúng ngay phòng ngủ tôi, khói bụi
bay mù mịt, vôi vữa rơi đổ rào rào. Tôi cảm thấy rát ở trán, sờ có máu.
Một mảng đạn đã sướt qua đầu tôi, may chỉ bị thương nhẹ. Mái nhà bị sạt
một bên làm lộ chỗ tôi đang ẩn núp. Việt Cộng đứng trên lầu nhà Manhard
nhìn sang có thể thấy tôi. Một câu ngạn ngữ Pháp mà tôi tin chợt lóe ra
trong trí tôi lúc đó khiến tôi phải xét lại quyết định của mình…”Jamais
deux sans trois” (Việc gì đã xảy ra hai lần thì không tránh được sẽ xảy
thêm lần thứ ba). Tôi đã hai lần hụt chết, làm sao tôi có thể thoát khỏi
lần thứ ba, khi mà cái chết chưa biết sẽ ập xuống khi nào. Phải xuống
nhà ngay, rồi tìm cơ hội thoát sau, tôi nhủ mình như thế và đưa mắt đảo
qua tình hình chung quanh trước khi tôi không thể nhìn thấy chúng được
nữa. Bọn cộng sản lỳ lợm hình như không sợ pháo của ta. Chúng vẫn đi
lại, bố trí không ngừng. Quãng nào trống chúng chạy vội qua, đến chỗ
kín, chúng lại di chuyển bình thường. Phía ruộng rau muống sau vườn nhà
tôi nhấp nhô những mái tóc để rẽ theo lối trẻ con, nửa người lớn trên bộ
Quân phục vừa vàng vừa xanh lá cây. Có những quả đạn B 40 như bắp chuối
trên vai, khi phân tán, lúc tập trung, nham hiểm, rình rập.
- Tình hình này thì cũng khó phá vòng vây của chúng đây.
Tôi vừa mở nắp trần nhà để trụt xuống dưới vừa nghĩ bụng như thế.
Vào hầm thấy vợ tôi mệt mỏi, hốc hác ngồi tựa vào bao cát ôm con, đứa
bé mềm oặt khóc không ra tiếng, trên tay lần dở cuốn kinh nhỏ in hình
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, lòng tôi chợt mềm nhũn một tình cảm mến thương
vô hạn. Tội nghiệp, người vợ trẻ còn nguyên nét học trò nếu không về với
tôi, giờ đây có lẽ vẫn là một Sinh viên vô tư hồn đầy mộng ước, thả
bước lá hoa trên ngưỡng trường Đại học, có đâu phải chia sẻ với tôi một
số kiếp đoạn trường, lê lết những giờ phút kinh hoàng bấn loạn trong
chiếc hầm tối đen ngột ngạt như địa ngục này. Và con tôi mới hôm kia còn
hồng mởn, thanh tú như một nụ sưng, giờ đã gầy rộc, tái xanh như một
tàu lá héo. Thế mà những hình ảnh thân yêu này chưa biết phút nào đây
rồi sẽ phải xa lìa vĩnh viễn. Tôi phải phá vây tìm một sinh lộ, may ra
đến được chốn an toàn, nhưng cũng rất nhiều rủi ro sẽ âm thầm ngã xuống
tại một bụi bờ nào đấy ở ven đường. Tôi thấy trước số phận mình qua hình
ảnh những đoàn chạy loạn gục dần, gục dần, đến khi không một ai còn lại
trên đường. Nhưng cũng không thể bó mình trong chiếc hầm nhỏ để chờ
giặc đến. Điều đó còn tệ hại hơn chết. Tôi hôn con và nắm tay vợ tôi như
một dấu hiệu giã từ. Bên ngoài đại bác vẫn rơi đều, treo lơ lửng lưỡi
hái tử thần trên chiếc hầm mong manh. Tôi nóng ruột đợi trời tối xuống
để thoát ra khỏi nhà, định bụng sẽ băng qua hàng rào kẽm gai sau hè, men
theo thửa ruộng cạn dẫn đến con đường tắt xuống Tiểu Khu, ở đó tôi hy
vọng sẽ gặp được những đồng bạn đang chiến đấu. Tôi bảo anh Duy dấu bớt
những thứ có thể làm lộ hình tích để lỡ bất chợt gặp địch, vẫn linh động
đối phó được với chúng. Vũ khí chỉ sử dụng trong trường hợp tối cần
thiết để tự vệ.
Chúng tôi vừa sửa soạn xong, đang chất lại mấy bao cát đã quá xiêu
vẹo vì sức nổ lớn, để thêm chút vững chãi cho chiếc hầm thì bỗng “đoàng,
đoàng, đoàng”. Ba tiếng nổ đanh lạnh vang lên từ phía bếp, tiếp đó một
tiếng quát lớn giọng Bắc dội vào :
- Ra ngay ! Tất cả mọi người trong nhà phải ra ngay. Chậm trễ hay kháng cự sẽ bị tiêu diệt. Ra, ra mau.
Tôi vội ra ngay nhà ngoài xem cái gì đã xảy ra, vừa ngang ngưỡng cửa
phòng khách, bỗng hai họng súng đen ngòm dí ngay vào hông, chận tôi lại.
Hai tên lính Việt Cộng còn trẻ, mặt mày lạnh lẽo, phục sẵn từ hồi nào,
im lặng chĩa súng vào người tôi. Chúng hất mũi súng, ra hiệu bảo tôi đi
tới. Tiến thêm ít bước, tôi thấy nép sau tấm bình phong ngăn đôi phòng
khách với phòng ăn, hai tên khác, súng hờm sẵn cũng đang chĩa về phía
tôi. Và trấn ngay khung cửa dẫn xuống nhà để xe, nơi tôi định theo đó
thoát ra ngoài, lại hai tên nữa, đương gườm gườm, sẵn sàng yểm trợ cho
bọn đã lẻn sâu vào bên trong. Thì ra, khi những quả đạn oan nghiệt buộc
tôi phải rời vị trí quan sát để tạm ẩn vào hầm thì bọn Cộng sản thâm
hiểm đã lợi dụng hông cửa bị đạn pháo làm bung vỡ, lén đưa cả một bán
tiểu đội vào phục sẵn trong nhà. Sự bất ngờ làm tôi không kịp trở tay,
đứng sững nhìn những tên địch lần đầu đối diện, đau đớn nhận ra tình
cảnh thất thế của mình. Chúng đã bố trí kỹ thế này, cho dù tôi muốn
chúng phải trả giá cho sự hy sinh của tôi cũng không còn được nữa rồi.
Chúng sẽ hạ tôi trước khi tôi kịp có một phản ứng nhỏ.
Bọn bên ngoài đã bắt đầu kéo vào. Một tên trung niên không mang chút
phù hiệu nào trên người ngoài tấm vải nhỏ màu vàng buộc ngang cánh tay
áo xắn cao, có vẻ là chỉ huy, thận trọng tiến lên, mắt nhớn nhác nhìn
các gác phòng, nhìn lên trần nhà, như sợ có những mũi súng vô hình còn
mai phục đâu đây.
- Anh là Tỉnh phó ? Hắn hỏi, giọng cấp bách .
Tôi nhận ra là cái giọng vừa quát gọi phía sau nhà. Tôi không trả
lời, đang nghĩ có nên có một hành động kháng cự để ngã trước mũi súng
của chúng, ngay trên mảnh đất Huế, quê hương mà tôi cảm thấy đã không
làm tròn trách nhiệm bảo vệ, hay cứ để xem, tìm một cơ hội khác. Thật
tình, tôi không còn biết sợ mà chỉ thấy điếng tê một cảm giác chát chua.
Cuộc đời tôi coi như đã hết. Có điều nên tự hủy cho tròn khí tiết một
kẻ sa cơ hay chờ cái chết sẽ đến từ tay kẻ thù thì tôi chưa quyết định.
Vừa lúc ấy vợ con tôi và anh Duy bị uy hiếp dưới những họng súng, được
đưa ra từ cửa hầm, đứng sắp thành một hàng ngang bên tôi. Có tiếng lên
đạn lách cách. Tôi rùng mình nghĩ đến hành động dã man thường có của
Cộng sản. Tên chỉ huy sấn đến, chĩa súng vào vợ tôi, mặt đầy sát khí :
- Chị phải nói cho thật, hắn chính là Tỉnh phó phải không ?
Khi đó, tôi thấy vợ tôi bình tĩnh một cách kỳ lạ, bình tĩnh theo linh
cảm đàn bà. Vừa cố dỗ cho đứa con khỏi khóc, vợ tôi nhìn thẳng vào tên
chỉ huy, rành rọt đáp, sắc mặt không đổi.
- Nếu ông biết có Tỉnh phó nào trong nhà này thì ông cứ việc lục soát. Riêng tôi, tôi không biết ai như vậy cả.
- Được rồi, chúng tôi hỏi là để thử xem sự thành khẩn của các người
thôi. Cách mạng đã theo dõi và nắm đủ tin tức trong tay, các người đừng
hòng ngoan cố che mắt Cách mạng.
- Các đồng chí, dẫn tên này đi. Hắn cười gằn rồi quay lại ra lệnh cho đồng bọn.
Mặt tôi đanh lại, nhớ đến những tên học sinh thường lượn lờ trước
cổng nhà tôi và nhà Manhard. Chính bọn chỉ điểm nầy đã làm tai mắt trước
cho những tên bắt người. Tôi thấy nóng ở cổ khi hai tên rút cuộn thừng
dắt sẵn ở thắt lưng, tiến lại phía tôi. Tôi như không còn chịu đựng nổi
cái ý nghĩ phải thúc thủ nhìn chúng nó trói mình, thà chết chứ không như
thế này được. Tôi vừa rướn người trong một tư thế định vùng dậy thì vợ
tôi chợt nhìn thấy.
- Anh cứ đi đi, đừng lo nghĩ gì đến em và con.
Tôi hiểu vợ tôi đoán biết ý nghĩ liều lĩnh của tôi và không muốn
trông thấy cái chết của chồng xảy ra ngay trước mắt mình. Ánh mắt đau
thương của người vợ trẻ đã cầm chân tôi lại trong cái ý định nửa chừng.
Một lần nữa, tôi lại thở dài. Tôi sắp vĩnh viễn chia lìa vợ con, hình
ảnh cuối cùng để lại trong lòng người thân thương không thể là một hình
ảnh đầy máu. Vợ tôi khó sống nổi với cái ám ảnh chết chóc của chồng. Hai
tên Bộ đội bắt đầu đẩy tôi đi. Ngoái nhìn, tôi thấy vợ tôi nước mắt ràn
rụa, đứng sững trông theo não nùng như pho tượng vọng phu. Đó là lần
cuối chúng tôi trông thấy nhau trên phần đất Tự do của Tổ quốc.
Tôi ra đi mang theo hình ảnh Huế đô điêu tàn vật vã và người vợ chờ
đơn độc đứng ôm con. Phải 13 năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau sau khi
đã nếm trải đủ mùi đày đọa và tưởng nhau đều đã chết, duy quê hương thì
mãi mãi đã không còn. Tôi bước đi như cái xác không hồn theo sự xô đẩy
của hai tên Bộ đội người Bắc. Qua cung cách hành hạ của chúng, tôi biết
chúng muốn tôi chết đi cho rảnh thân hơn là phải mất công coi ngó, giữa
lúc bom rơi đạn lạc như thế này. Bắt đầu ra khoảng trống, nhất là lúc
băng qua mặt lộ, chúng đẩy tôi lên, bắt chạy trước, còn chúng thì nằm
xuống vệ đường để tránh đạn, mũi súng luôn chĩa thẳng vào lưng tôi. Thâm
ý chúng là dùng tôi làm cái bia hứng đạn, chỉ khi nào thấy tôi vượt qua
không hề hấn gì, chúng mới vội vàng nhổm dậy chạy theo. Đó cũng là cách
thức giải người thường thấy của Cộng sản trong những khu vực còn giao
tranh ở Huế. Biết bao nhiêu người đã không vượt qua khỏi lằn đạn như
tôi, phải ngã xuống giữa đường khi vừa bị Cộng sản bắt đi. Những con
đường Huế đầy xác người vắt ngang hay sắp lớp bên lề, phải chăng là hình
ảnh không chối cãi của một tội ác tày trời.
Tôi
tưởng chúng sẽ dẫn tôi đến tận đâu, ai ngờ chúng chỉ đưa tôi đến nhà
Manhard rồi trói lại, bỏ tôi ngồi đấy. Một người đeo kính trắng bị trói,
ngồi ủ rũ gần cửa ra vào. Nhìn kỹ tôi mới biết là người láng giềng, dạy
Pháp văn ở trường Quốc Học, có lẽ cũng mới bị bắt sáng nay. Một lát
sau, tên Chỉ huy bước vào, hắn cật vấn lại vài câu, đoạn ra lệnh cởi
trói và cho người này về. Chỉ mình tôi còn lại trong phòng khách trống
hoác, không còn chút đồ đạc gì ngoài những vỏ chai rượu vỡ vứt nằm lỏng
chỏng đó đây. Cũng tại căn phòng này, hôm 29 Tết, Manhard còn ngồi tiếp
tôi trong chiếc ghế bành sang trọng và một tủ rượu đầy ắp rượu quý. Hôm
đó, vừa theo phái đoàn Thủ Tướng Lộc đi thăm ấp chiến lược kiểu mẫu ở
quận Hương Thủy về, thì Manhard cho người mang cặp rượu sang biếu Tết.
Tiện đường, tôi ghé thăm đáp lễ, đem theo bức tranh sơn dầu “Người đội
mũ đỏ”, một tác phẩm có giá trị nghệ thuật của họa sĩ Đinh Cường mà tôi
vừa mua trong một cuộc triển lãm hội họa mùa Đông của anh, tặng lại
Manhard. Viên đại diện Mỹ đầu tiên thuộc ngạch ngoại giao và có một lối
giao tế nhân sự cũng hết sức… ngoại giao (Và cũng để nhân đó giới thiệu
với người Mỹ một sinh hoạt Nghệ thuật địa phương).
Vào năm 1967, “Việt Nam hóa chiến tranh“, mới còn là một khái niệm
chỉ thỉnh thoảng xuất hiện một cách dè dặt trên báo chí Mỹ. Nhưng nhìn
vào những thay đổi nhân sự trong cơ cấu viện trợ Mỹ tại địa phương, thì
hình như kế hoạch đã được khởi động từ những ngày sớm hơn người ta biết.
Nếu trước đó, những đại diện USAID, thường là những người, hoặc là có
cái xông xáo, ôm đồm của một cán bộ tận tình với công tác, dám hy sinh
vì lý tưởng, hoặc mang cái tinh thần hẹp hòi, cứng ngắc của một loại thư
lại máy móc, coi thủ tục giấy tờ nặng hơn mục tiêu chính trị, thì từ
sau ngày được biến cải thành Cơ quan CORDS, những đại diện mới rõ ràng
đã đem lại một phong cách mới, không chỉ trong công tác, mà cả trong
quan hệ đối xử với đồng minh.
Ở Quảng Trị, khi Whitfield, viên đại diện USAID nói tiếng Việt sõi
như người Việt, giữa hoàng hôn vẫn dám một mình một xe lên Cam Lộ, ra
Gio Linh, vào Hải Lăng thâu thập tin tức, kiểm chứng tình hình, mãn hạn
hợp đồng về Mỹ thì người thay thế là một cựu lãnh sự Mỹ ở Ý, cao gần hai
thước, nhưng rất nhỏ nhẹ hiền lành, đến với tỉnh địa đầu giới tuyến như
một sứ giả của Hữu nghị và Hòa bình, hơn là một đồng minh đang chiến
đấu. Cũng thế, khi trụ sở CORDS ở Huế thôi đặt bên cạnh Tòa Hành Chánh
tỉnh, để dời về địa điểm mới phía sau nhà Bưu điện, thì cũng là lúc chấm
dứt cái thời kỳ trì trệ của Lofton, viên đại diện già quá nhiệt thành
với nguyên tắc kiểm soát, đến thành cản trở chương trình yểm trợ và làm
vẩn đục mối quan hệ cộng tác giữa đôi bên.
Đến đảm nhiệm chức vụ đại diện CORDS thay thế Lofton, Manhard vẫn
mang ngạch số ngoại giao và hành sử công việc như thể vẫn còn là một
lãnh sự ở Milan. Bên cạnh công tác bình định, giờ được phối hợp uyển
chuyển hơn, Manhard chú trọng nhiều đến việc xây dựng mối quan hệ hiểu
biết với các nhân vật có tên tuổi, các nhóm áp lực có ảnh hưởng tại địa
phương. Qua những cố gắng mới, có thể thấy, vị trí và tiềm năng của Việt
Nam Cộng Hòa đã bắt đầu được chú ý đến một cách đáng kể trong chương
trình bình định và nỗ lực chống cộng. Trong những ngày còn bận rộn với
chương trình bình định cuối năm, Manhard đã tỏ vẻ thực sự lo ngại về tin
tức một cuộc tấn công vào Huế của Cộng sản. Đoàn Công Lập cho tôi hay
Manhard đã nhiều lần đích thân đến gặp Lập để xin cho người đến bảo vệ.
Đây là một hành động khá khác thường đối với một giới chức cao cấp Mỹ.
Thẳng thắn mà nói, hồi đó người Mỹ thường không mấy tin tưởng vào khả
năng bảo vệ của cơ quan an ninh Việt Nam. Các cố vấn Mỹ bằng phương
tiện riêng, tự tổ chức lấy việc bảo vệ an ninh cho bản thân mình. Thường
cứ vài người thuê chung một biệt thự, có lính Lôi Hổ đứng canh gác. Lôi
Hổ là một đơn vị đặc biệt do người Mỹ trực tiếp tuyển mộ và trả lương,
gồm những thanh niên ngang tàng không sợ đánh nhau và không sợ cả kỷ
luật, đa số là người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn. Ở khu vực hữu ngạn, khi
cộng sản – được chỉ điểm trước – tấn công bao vây nhà các cố vấn Mỹ, đã
bị các binh sĩ Lôi Hổ đánh trả dữ dội, chúng bị chết rất nhiều. Có nhiều
nhà quân Cộng sản chết sắp lớp mà vẫn không chiếm được, sau chúng phải
dùng quỷ kế dụ hàng và vây hãm nhiều ngày cho hết đạn bên trong mới chịu
buông súng. Những anh em Lôi Hổ cùng đường này, khi bị bắt lên núi,
ngồi nhìn cái chết chậm vì đói rét, bệnh tật đang từ từ đến, đã đấm ngực
tự trách sao không quyết tử đến cùng với quân Cộng sản, để dù có ngã
xuống thì vẫn còn nhẹ nhàng hơn “Sống như chết” thế này.
Yêu cầu của Manhard được Ty Cảnh sát Huế thỏa mãn và vào những ngày
giáp Tết, nhìn qua nhà viên đại diện Mỹ, tôi bắt đầu thấy có Cảnh sát Dã
chiến đến canh ở cổng.
Khi ngôi nhà bị chiếm, tôi không biết có sự kháng cự nào không, nhưng
giờ đây, ngồi giữa căn phòng đã được Cộng sản biến thành một cứ điểm
tiền tiêu của chúng, tôi không thấy một ai còn lại trong nhà, ngoại trừ
những tên lính chiến đấu Việt Cộng mặt mày âm u hiểm ác, lưng choàng tấm
vải dù loang lổ, ẩn hiện đi về như những cánh dơi ăn đêm. Dấu vết phá
phách, đập vỡ và sự tan biến của mọi đồ vật chứng tỏ ngôi nhà đã bị lục
soát, cướp bóc nhiều lần. Sau này, tại một vùng hẻo lánh rất xa Huế, tôi
thấy chiếc xe của Manhard nằm bẹp dí dưới một lùm tre bên đường khi tôi
bị Cộng sản đưa lên núi. Bọn Cán bộ đã dùng xe này đi lại để che mắt
máy bay rồi khi hết nhiên liệu, chúng vứt lại bên đường. Đó là dấu vết
duy nhất của Manhard mà tôi được biết sau khi cuộc tấn công xẩy ra.
Bọn Việt Cộng mải mê với việc tiếp viện cho đồng bọn gần đấy, có lúc
tưởng như đã quên tôi. Nhưng không, dụng ý của chúng gian ác hơn nhiều.
Ngôi nhà mà chúng giữ tôi đang là mục tiêu bắn phá của nhiều loại pháo
không hiểu từ đâu câu lại. Chúng trói bỏ tôi ngồi ngay ngưỡng cửa nhìn
ra chiếc sân cỏ chốc chốc khói bụi và đất cát lại nẩy lên vì đạn rơi
trúng. Đạn nổ sát bên tôi nhiều lần, nhưng không hiểu sao tôi lại chưa
chết. Việt cộng muốn mượn bom đạn ta để giết người của ta – như chúng đã
lùa đồng bào chạy loạn bên Thành Nội lên cửa Chánh Tây để cho máy bay
Mỹ bắn chết – nhưng thêm lần nữa, mưu định của chúng không thành. Trong
chiến tranh, bom rơi đạn lạc là sự thường tình nhưng nhiều khi muốn chết
cũng không phải là dễ.
Một lát sau, dãy tường cao, cổ kính ảm đạm dưới trời mây của ngôi
trường Thiên Hựu đã hiện ra trước mắt tôi. Những khung cửa lớn màu nâu
mở toang hoang, trống trải cho thấy nhiều bóng người đi lại bên trong.
Nhưng không phải hình ảnh thường thấy của những linh mục người Pháp cao
lênh khênh trong bộ áo chùng đen thậm thượt, hay những Học sinh nội trú
hiền lành mà là sự chuyển động đen tối của bóng dáng yêu ma, lấy mái học
đường làm nơi tụ ác. Bước qua những mảnh cửa kính vỡ dọc hành lang ngôi
trường và xác những con lợn lai to lớn, không hiểu tại sao nằm chết ở
đó, tôi bị dẫn vào một phòng học bỏ trống, cửa ngõ mở banh, không khí
rùng rợn như một trạm hành quyết. Góc tường, nhiều vết đạn lỗ chỗ và một
vũng máu lớn lan đọng trên nền, chỗ còn đỏ tươi, chỗ đã đen thẫm, bốc
lên một mùi tanh khó tả của máu người. Cổ họng tôi nghẹn đắng một cảm
giác căm hận. Không nghi ngờ gì nữa, đây là chỗ Việt Cộng thủ tiêu
người. Bao nhiêu người đã bị xô vào góc tường này để hứng lấy những phát
đạn bắn gần. Máu họ còn đó, nhưng thân xác bị vùi dập nơi đâu ?
Lúc đó, thật tình tôi không biết ở khu vực quanh tôi nhiều người cũng
bị bắt đến đây như tôi và càng không thể ngờ rằng trong số những người
không may đó, có rất nhiều gương mặt, quen cũng như không quen, đến nay
vẫn tuyệt mù tăm tích, không biết sống chết ra sao. Trường học là nơi
đóng quân trong Thành phố của Cộng Sản, cũng là bãi giết người tập thể.
Hầu như ít ai đã lọt vào đây mà được trở về. Tôi bị bắt khi Cộng quân
đang chuẩn bị rút. Chúng bận rộn lo di tản thương binh và chống đỡ với
phi pháo nên hoạt động khủng bố phần nào bị hạn chế. Suốt hôm đó tôi
không thấy có ai thêm bị đưa vào trường ngoại trừ anh Luận. Nhưng những
xác chết trong đêm mà tôi thấy nằm rải rác trên đường đi từ ngã tư
Nguyễn Huệ – Lý Thường Kiệt cho đến phía bên kia Cầu Kho. Hèn chi Cộng
sản bắt đầu đưa tôi lên núi, thì rất có thể họ là nạn nhân của những vụ
hành quyết tại chỗ.
Càng gần thất bại, Cộng quân càng trở nên dã man. Diễn tiến tình hình
tại Huế đã cho thấy như vậy. Chỉ tiếc màn đêm và sự canh chừng của Cộng
sản đã không cho phép tôi nhận diện được họ rõ hơn. Chỉ biết đấy là xác
những thường dân, trên người còn mặc bộ áo quần ngủ. Tôi thông cảm sâu
sắc niềm đau miên viễn của gia đình những người bất hạnh. Mười mấy năm
qua vẫn chưa thôi truy tìm dấu vết người thân, dầu là một chứng tích bi
thảm cũng đành lòng, hơn chút ảo tưởng sống còn, ngày càng mơ hồ vô
vọng. Bản thân tôi, gia đình tôi không chỉ hết nước mắt nhớ thương, mà
hết luôn cả hy vọng nhặt xác con về. Có hầm chôn tập thể, khe suối vùi
người nào được khai quật mà gia đình tôi không đến lật tìm từng mảnh vải
còn vương, đến hàm răng, chiếc sọ bầy nhầy, để xem có di thể tôi trong
đó không. Những người thân yêu nhất trong đời tôi, mẹ tôi, chị tôi – khi
nhắm mắt vẫn còn yên trí tôi đã là một hồn ma không còn trên cõi thế.
Trở về sau 13 năm trôi dạt ngục tù, tôi xem ra thành kẻ chứng nhân
cho một chuỗi ngày khổ tận. Không phải tất cả những người mất tích đều
đã chết. Nhưng sự sống sót chỉ là hạt cát trong biển máu không lồ. Mỗi
trại giam lụp xụp giữa Trường Sơn là một khu mồ dựng sẵn. Nhưng bản năng
sinh tồn cũng có những sức đề kháng kỳ lạ. Có những lời nhắn gởi bị dìm
đi, nhưng cũng có những lá thư nhà đầy khí khái của kẻ sĩ sa cơ, coi
nước đã mất thì nhà không còn…
Nhìn chúng đi lại tôi ước lượng khoảng một đại đội Việt cộng đang
chiếm đóng khu trường. Nhiều tên ghé lại đứng nhìn ngắm chúng tôi rồi
chỉ trỏ bàn tán với nhau. Có vẻ chúng đang chuẩn bị đem chúng tôi ra
bắn. Một tên du kích mặt non choẹt, toàn thân vàng bủng nhưng điệu bộ
cực kỳ hung ác được giao canh giữ chúng tôi. Bằng một giọng Thừa Thiên
quê đặc, hắn vừa phun ra những lời chửi rủa độc địa, vừa dí mũi súng
Carbine vào người tôi, ngón tay cong lại như sắp bóp cò. Vừa khi đó hai
chiếc trực thăng vũ trang bỗng từ đâu sà đến, nhả liền mấy quả rốc kết
vào bọn Việt cộng trên lầu. Khói bụi bốc mù mịt, vôi vữa rơi đổ ào ào.
Mấy tên du kích hốt hoảng tìm chỗ ẩn núp, quên khuấy chúng tôi. Ngồi
trên chiếc bục giảng bài của thầy giáo, tôi ngẫu nhiên được chứng kiến
cảnh chiến đấu đang diễn ra. Tôi thầm cảm phục sự can đảm của hai viên
Phi công trực thăng. Từ các cửa sổ tầng trên ngôi trường, các họng súng
đại liên, trung liên, cộng với hằng trăm cây súng cá nhân Cộng sản thi
nhau nhả đạn vào hai chiếc máy bay, tưởng như thế nào cũng bị tiêu cháy
đến nơi. Nhìn từ phía trận địa địch, rõ ràng trong chiến đấu, trực thăng
là một đối tượng rất dễ bị tổn thương. Thế mà cái khối chậm chạp lắc lư
đó như không biết sợ là gì, vẫn bình tĩnh lượn gần quan sát, thỉnh
thoảng nghiêng mình bắn trả những đường đạn chính xác. Tôi nghe rõ nhiều
tiếng kêu la trên lầu vọng xuống.
Bọn Cộng sản đã bị trừng trị. Trong tiếng la thất thanh tôi nghe cả
giọng đàn bà. Chúng điên cuồng hò nhau bắn trả, nhưng hai chiếc trực
thăng chỉ dạt ra rồi lại sà xuống tiếp tục bắn phá. Ở những vòng lượn
thấp, tôi nhìn thấy viên xạ thủ người Mỹ phơi mình bên khẩu đại liên,
giữa lúc lao vào ổ địch mặt vẫn lạnh băng như không biết sợ là gì. Cũng
những người lính viễn chính ấy tôi thường gặp trong những phi vụ đưa đón
phái đoàn, từ sân bay Thành Nội, bãi đáp MACV đến không trạm quân đoàn,
trông họ rất đỗi bình thường, lặng lẽ và lễ độ. Thế mà giờ đây trong
mắt tôi họ bỗng trở thành một thứ Hiệp sĩ thần kỳ, phù nguy diệt bạo.
Tôi hoàn toàn không nghĩ là mình đã được giải cứu, nhưng vẫn cảm thấy
một cái gì như hả dạ khi biết rằng bọn sát nhân đang bị những đòn giáng
trả đích đáng. Có thể chúng sẽ giận dữ hơn, tàn bạo hơn đối với những
người rơi vào tay chúng, nhưng ít ra chúng cũng hiểu không kẻ nào gieo
gió mà không gặt bão.
Nhưng tiếc thay sự hiện diện của lực lượng Đồng minh hôm đó chỉ có
thế. Sau khi hai chiếc trực thăng bỏ đi, bầu trời im ắng trở lại, trả
cho bọn Cộng Sản cái quyền thao túng mặt đất mà chúng đang nắm giữ bằng
sắt và máu. Cũng như tất cả những người bị cô lập với bên ngoài, tôi có
cảm tưởng lực lượng ta đã rã hết rồi. Và chiếc máy bay chợt đến rồi lại
chợt đi như đóm lửa chưa kịp bùng cháy mà đã vội tắt. Thấy tạm yên, mấy
tên du kích đanh ác lại ngóc đầu lên. Nhưng lần nầy chúng có vẻ hơi gờm,
chỉ gườm gườm nhìn chúng tôi chứ không chửi rủa và đòi dọa bắn.
Đến tối, hình như có lệnh mới, chúng tôi được dẫn tới một phòng khác
có vẻ là nơi chuẩn bị để di chuyển. Đi qua những hành lang dài hun hút
nhưng tuyệt không một ánh đèn, chúng tôi bước mò mẫm trên những mảnh
kính vỡ và nhiều chướng ngại không tên, để cuối cùng dừng lại trước một
cánh cửa tối om. Chúng đẩy tôi vào và bảo ngồi đấy đợi. Quơ tay, tôi sờ
thấy một chiếc mền dạ không hiểu của ai vứt lại trên thềm. Tối quá tôi
không biết ngoài tôi và anh Luận còn có ai trong phòng nữa không. Nhưng
chắc chắn là có người vừa từ ở đây bị dẫn đi và vì vội quá nên không kịp
đem theo chăn mền của mình. Chiếc khăn dạ tốt, loại nhà binh Pháp để
lại, nhất định không phải thứ mà Cộng sản có được. Đêm tháng Giêng trời
lạnh, trên mình lại chỉ phong phanh một bộ đồ mỏng, không dày dép, tôi
và anh Luận quấn luôn chiếc mền vào người và cũng không có ý định giao
nó lại cho những tên Việt cộng tham lam. Sau này, khi chuyển trại, chiếc
chăn được xé làm đôi, tôi một nửa, anh Luận một nửa. Chính nhờ mảnh
chăn đó mà tôi đã có thể cầm cự nổi với cái rét cắt da thịt của Trường
Sơn, và đã không sớm ngã xuống như nhiều anh em khác. Khi đưa ra giam ở
Miền Bắc, tuy có được phát mền sợi Trung cộng, nhưng tôi vẫn giữ mảnh
chăn bên người với ý định sau này nếu có cơ hội sẽ tìm gia đình người có
tấm chăn trả lại như một dấu tích của người thân để lại.
Càng về đêm, bọn Cộng sản lại càng đi rộn rịp. Như một loài ma ăn
đêm, chúng có vẻ quen thuộc với bóng tối. Mọi sự chuyển vận, hoạt động
đều không cần tới ánh sáng. Tiếng dép lốp nghiến xào xạc trên mảnh chai,
tiếng súng khua lách cách. Thỉnh thoảng có ánh diêm chớp lóe đỏ, soi
lên tường những bóng đen qua lại. Bỗng trong sâu thẳm của tối tăm nổi
lên nhiều tiếng rên rỉ đau đớn. Tiếng rên đau phát ra từ dãy phòng phía
hữu gần cổng chính ngôi trường. Ở đó có các thương binh của chúng nằm
dài trên nền xi măng chờ được cáng đi. Qua thoáng nhìn vội, tôi thấy
được cảnh tượng mà Cộng sản ít khi để lộ ra ngoài. Những thân người sắp
lớp từ phòng này qua phòng khác, cái đã bất động, cái còn cựa quậy rên
la, chứng tỏ khi đi gây tội ác, chúng đã tổn thất. Dấu giếm là sở trường
của Cộng Sản. Sợ dân chúng biết, chúng đã dồn hết những đồng bọn không
may vào đây, chờ đêm tối mới bắt đầu chuyển về sào huyệt. Những chiếc
khăn màu xám dơ bẩn buộc túm hai đầu luồn dưới một thanh tre dùng làm
đòn khiêng là cáng tải thương đường dài của chúng. Trong khi những tên
bị thương khóc lóc, kêu khát đòi xin nước thì những tên khác vẫn thản
nhiên bước qua, không buồn dừng lại hỏi han một tiếng.
Hồng Châu
0 comments:
Post a Comment