Hãy thông thả đọc mới thấu hiểu hết tư tưởng HCM vĩ đại. Họ đã nói và viết những gì?
Nguyễn Hộ
người có 55 tuổi đảng, Chủ Tịch Đoàn Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Trung
Ương, thủ lãnh của Nhóm Truyền Thống Kháng Chiến, viết trong tập hồi ký
Quan Điểm Và Cuộc Sống: “Ngày
21/3/1990 tôi rời khỏi Saigòn cũng là ngày tôi rời khỏi Đảng CSVN. Tôi
làm cách mạng đã 56 năm, gia đình tôi có 2 liệt sĩ, Nguyễn Văn Đào, anh
ruột, Đại Tá QĐNDVN, hy sinh ngày 9/1/1966 tại Củ Chi, và vợ tôi Trần
Thị Thiệt bị bắt và chết tại Tổng Nha Cảnh Sát Sài gòn vào tết Mậu Thân
1968 nhưng phải thú nhận rằng tôi đã chọn sai lý tưởng: Cộng Sản Chủ
Nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60 năm trên con đường cách mạng ấy nhân dân Việt
Nam đã chịu hy sinh
quá lớn lao nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn nghèo nàn lạc
hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Đó là
điều sĩ nhục (nguồn: Wikipedia)”.
Nguyễn Minh Cần,
nguyên Phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội, nguyên Đại Sứ
Cộng Sản Hà Nội tại Liên Sô, ghi lại tính tàn độc và lưu manh của Đảng
Cộng Sản trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất 1953-1956: “Giết
oan hàng trăm ngàn người, đầy ải hàng triệu người, làm cho đạo lý suy
đồi luân thường đảo ngược. Tại cuộc mít tinh tối 29/10/1956, ông Võ
Nguyên Giáp chỉ cho biết con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được trả
tự do mà thôi! Con số đó đúng hay không, ai mà biết được! Tóm lại,
những con số về người bị thiệt mạng trong CCRĐ vẫn chưa xác định được.
Dù thế nào chăng nữa, với những con số ước tính đã cho
thấy đây là một tội ác tày trời. Tội ác này chính là tội ác chống nhân
loại” (Nguyễn Minh Cần, Xin Đừng Quên Bài Học Cải Cách Ruộng Đất Nửa Thế Kỷ Trước)
Trung Tướng Trần Độ, Cựu Phó Chủ Tịch Quốc Hội, viết: “Cuộc
cách mạng ở Việt Nam đã đập tan và xoá bỏ được một chính quyền thực dân
phong kiến, một xã hội nô lệ, mất nước, đói nghèo, nhục nhã. Nhưng lại
xây dựng nên một xã hội nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền
phản dân chủ, chuyên chế, một chế độ độc đảng và toàn trị, nhiều thói
xấu giống như và tệ hơn là trong chế độ cũ…”
Và trong một lần nói chuyện, khi được hỏi về chế độ lao tù, ông nói “Nếu nhà tù Pháp thời xưa mà giống nhà tù cộng sản bây giờ thì chúng tôi chết lâu rồi, làm gì còn có người vượt ngục”.
Cuối cùng, để biện minh cho những đóng góp của mình vào chế độ, ông Trần Độ làm bốn câu thơ:
Những mơ xoá ác ở trên đời,
Ta phó thân ta với đất trời
Ác xoá đi, thay bằng cực thiện
Tháng ngày biến hoá, ác luân hồi.
(Nguồn: Trần Độ- Nhật Ký Rồng Rắn)
Hoàng Minh Chính
gia nhập đảng từ năm 1939, Phó Viện Trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc kiêm
Viện Trưởng Viện Triết học Mác-Lênin trong một bài phát biểu đã than thở
rằng: “Người
dân dưới chế độ cộng sản đã bị áp bức tệ hại hơn cả thời còn mồ ma thực
dân đế quốc. Ngay cả thời kỳ nô lệ, người dân ai muốn ra báo cũng chỉ
cần nộp một giấy xin phép và bản lưu chiểu. Điển hình là cụ Huỳnh Thúc
Kháng bị thực dân Pháp xử 13 năm tù về tội chống Pháp và bị đầy ra Côn
Đảo từ năm 1908 đến năm 1921 mới được trả tự do. Khi mãn hạn tù cụ được
thả về Huế, tại đây, cụ đắc cử dân biểu năm 1926, rồi được cử làm
Viện trưởng Viện Dân Biểu Trung Kỳ và đứng ra xuất bản tờ báo Tiếng
Dân. Một người bị tù vì tội chống thực dân còn được thực dân cho ra báo
trong khi đó một người từng nắm giữ chức Phó Chủ Tịch Quốc Hội của chế
độ mà xin phép ra một tờ báo cũng không được”. (nguồn: Wikipedia)
Cũng nên biết rằng năm 1946 cụ Huỳnh Thúc Kháng đã giữ chức Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Nội Các Chính Phủ Liên Hiệp và giữ chức Quyền Chủ Tịch Nước trong khi Hồ Chí Minh đi Pháp tham dự Hội Nghị Fontainebleau. Như vậy không thể gán ghép cụ Huỳnh là Việt Gian hay nói cụ Huỳnh vì thỏa hiệp với Pháp nên đã được Pháp cho ra báo.
Cũng nên biết rằng năm 1946 cụ Huỳnh Thúc Kháng đã giữ chức Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Nội Các Chính Phủ Liên Hiệp và giữ chức Quyền Chủ Tịch Nước trong khi Hồ Chí Minh đi Pháp tham dự Hội Nghị Fontainebleau. Như vậy không thể gán ghép cụ Huỳnh là Việt Gian hay nói cụ Huỳnh vì thỏa hiệp với Pháp nên đã được Pháp cho ra báo.
Trần Lâm sinh năm 1925 vào đảng năm 1947, Vụ phó Ủy Ban Kế Hoạch Nhà nước, thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, đã viết trong bài “Những dòng suy nghĩ từ Đại hội đến Quốc hội” số tháng 9/2007: “Đảng
thì luôn nói Quốc hội là của dân, do dân, vì dân. Người hiểu biết trong
dân thì coi Quốc hội là bù nhìn. Đảng và Nhà nước tổ chức bầu cử, biết
đây là kiểu dàn dựng, nhưng cứ làm”.
Trần Quốc Thuận, Phó chủ nhiệm văn phòng Quốc Hội CSVN, trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên: “Cơ
chế hiện nay tạo kẽ hở cho tham nhũng vơ vét tiền của của nhà nước…
Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là tiền, dù số tiền bị
mất lên đến hằng trăm tỷ, mà cái lớn nhất bị mất là đạo đức. Chúng ta
hiện sống trong một xã hội mà chúng ta phải nói dối với nhau để sống.
Nói dối hằng ngày trở thành thói quen, rồi thói quen đó lặp lại nhiều
lần thành đạo đức mà cái đạo đức đó rất mất đạo đức”.
Nguyễn Khải, nhà văn, Đại Tá, Đại Biểu Quốc Hội, Phó Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn CS, đã viết trong “Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất”: “Ngôn
từ là mặt yếu nhất trong các lãnh vực thượng tầng cấu trúc tại các nước
xã hội chủ nghĩa vì lãnh đạo các nước đó dùng ngôn từ để che đậy… Người
cộng sản nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói dối không hề biết xấu hổ
và không hề run sợ . Người dân vì muốn sống còn cũng đành phải dối trá
theo”.
Nguyễn Văn Trấn,
con hùm xám Chợ Đệm Mỹ Tho, Phụ Tá Bí Thư Đảng Ủy Nam Bộ (1944), Chỉ
Huy Trưởng Kiêm Bí Thư Quân Ủy Quân Khu 9 (1947), Chủ Nhiệm Văn Phòng
Phó Thủ Tướng, Chủ Nhiệm Ủy Ban Kế Hoạch Thống Nhất Toàn Quốc (1962-1974) thì nói huỵch tẹt theo lối nói Miền Nam: “Tội ác của chế độ này, từ 40 năm nay, thật nói không hết”. (Viết Cho Mẹ và Quốc Hội trang 345, nhà xuất bản Văn Nghệ, 1995)
Nguyễn Văn An,
cựu ủy viên Bộ Chính Trị Cộng Sản Việt Nam, trưởng Ban Tổ Chức Trung
Ương Ðảng và là chủ tịch Quốc Hội từ 2001 đến 2006, có lúc đã hy vọng
lên làm Tổng Bí Thư, trong một bài phỏng vấn mới xuất hiện trên mạng lưới Tuần Việt Nam xuất bản trong nước đã nói “Đảng đã mắc phải lỗi hệ thống và đã sai lầm ngay từ nền tảng”. Ông giải thích: “Lỗi hệ thống là lỗi từ gốc đến ngọn, từ lý thuyết đến mô hình”.
Và còn rất nhiều, rất nhiều nữa những trăn trở phản tỉnh của:
- Lê Hồng Hà Cục Trưởng Cục An Ninh Bộ Công An,
- Lê Liêm Cục Nội Chính,
- Nguyễn Trung Thành Cục Trưởng Cục Bảo Vệ Đảng,
- Nguyễn Văn Hiếu Ủy Viên Thường Trực Mặt Trận Tổ Quốc,
- Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nguyên Đại Sứ Hà Nội tại Trung Cộng,
- Đại Tá Bùi Tín Phó Tổng Biên Tâp tờ Nhân Dân,
- Đại Tá Phạm Quế Dương Viện Quân Sử Hà Nội,
- Trung Tá Trần Anh Kim người anh hùng chống cuộc xâm lăng từ phương Bắc năm 1979,
- Sứ Thần Dương Danh Dy, đại diện Hà Nội tại Trung Quốc,
- và các ông Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Trần Vàng Sao cùng những tuổi trẻ được sinh ra và trưởng thành trong chế độ như Luật Sư Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Tiến Trung, Phạm Thanh Nghiên, Phạm Hồng Sơn, Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Khải Thanh Thủy, Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Mẹ Nấm, Người Buôn Gió… Nhiều lắm, nhiều lắm, biết kể sao cho hết.
Đứng trước sự phẫn nộ của người dân và một số người ý thức trong đảng, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh trong một lần nói chuyện tại Hội Các Nhà Văn đành phải hô hào “cởi trói cho văn nghệ” (có nghĩa là Đảng coi giới văn nghệ sĩ như loài cầm thú) và cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt thì hô hào: “Đổi mới hay là chết”. Mà đổi mới là gì? Là cóp nhặt và làm theo những gì Miền Nam đã làm từ mấy chục năm về trước. Cũng chính nhờ biết “đổi mới” nên người dân Việt Nam mới có gạo ăn, thay vì cho mãi đến những năm 1989-1990, suốt mấy chục năm trong thời bao cấp, ngoại trừ đảng viên cán bộ và công an là được ăn cơm, còn tuyệt đại đa số nhân dân phải ăn bo bo là loại đồ ăn dành cho bò cho ngựa và mỗi chén cơm có tới hai phần là ngô khoai sắn độn.
Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình của Miền Nam .
Theo bản công bố của Bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội phổ biến ngày 14-12-1998 trên đài Hà Nội thì phía Cộng Sản Bắc Việt đã chết trên 3 triệu người. Quảng Nam , Quảng Bình bị thiệt hại nặng nhất, trung bình mỗi gia đình một người. Miền Nam có 300,000 quân nhân tử trận.
Theo ông Nguyễn Hộ trong “Quan Điểm và Cuộc Sống” thì cả hai miền Nam Bắc, cả quân và dân đã chết trên 11 triệu người. Cái giá phải trả quá đắt!
- Lê Hồng Hà Cục Trưởng Cục An Ninh Bộ Công An,
- Lê Liêm Cục Nội Chính,
- Nguyễn Trung Thành Cục Trưởng Cục Bảo Vệ Đảng,
- Nguyễn Văn Hiếu Ủy Viên Thường Trực Mặt Trận Tổ Quốc,
- Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nguyên Đại Sứ Hà Nội tại Trung Cộng,
- Đại Tá Bùi Tín Phó Tổng Biên Tâp tờ Nhân Dân,
- Đại Tá Phạm Quế Dương Viện Quân Sử Hà Nội,
- Trung Tá Trần Anh Kim người anh hùng chống cuộc xâm lăng từ phương Bắc năm 1979,
- Sứ Thần Dương Danh Dy, đại diện Hà Nội tại Trung Quốc,
- và các ông Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Trần Vàng Sao cùng những tuổi trẻ được sinh ra và trưởng thành trong chế độ như Luật Sư Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Tiến Trung, Phạm Thanh Nghiên, Phạm Hồng Sơn, Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Khải Thanh Thủy, Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Mẹ Nấm, Người Buôn Gió… Nhiều lắm, nhiều lắm, biết kể sao cho hết.
Đứng trước sự phẫn nộ của người dân và một số người ý thức trong đảng, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh trong một lần nói chuyện tại Hội Các Nhà Văn đành phải hô hào “cởi trói cho văn nghệ” (có nghĩa là Đảng coi giới văn nghệ sĩ như loài cầm thú) và cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt thì hô hào: “Đổi mới hay là chết”. Mà đổi mới là gì? Là cóp nhặt và làm theo những gì Miền Nam đã làm từ mấy chục năm về trước. Cũng chính nhờ biết “đổi mới” nên người dân Việt Nam mới có gạo ăn, thay vì cho mãi đến những năm 1989-1990, suốt mấy chục năm trong thời bao cấp, ngoại trừ đảng viên cán bộ và công an là được ăn cơm, còn tuyệt đại đa số nhân dân phải ăn bo bo là loại đồ ăn dành cho bò cho ngựa và mỗi chén cơm có tới hai phần là ngô khoai sắn độn.
Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình của Miền Nam .
Theo bản công bố của Bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội phổ biến ngày 14-12-1998 trên đài Hà Nội thì phía Cộng Sản Bắc Việt đã chết trên 3 triệu người. Quảng Nam , Quảng Bình bị thiệt hại nặng nhất, trung bình mỗi gia đình một người. Miền Nam có 300,000 quân nhân tử trận.
Theo ông Nguyễn Hộ trong “Quan Điểm và Cuộc Sống” thì cả hai miền Nam Bắc, cả quân và dân đã chết trên 11 triệu người. Cái giá phải trả quá đắt!
Lê Minh Khôi
0 comments:
Post a Comment