| Trần Mười Sáu | Nguồn: tranmuoisau.blogspot.ca | 2015-12-07 |

Bài đọc suy gẫm:
"Lỗi Tại Tôi Mọi Đàng" tức câu chuyện về tàu Việt Nam Thương Tín sau
ngày tháng tư năm 1975. Chuyện kể về kinh nghiệm đầy cay đắng của người
dân miền nam với việt cộng. Hình ảnh chỉ là minh họa.

Admin: Chúng tôi đang dịch “‘Give Us A Ship’: The Vietnamese Repatriate Movement on Guam, 1975“,
tài liệu biên khảo 31 trang của JANA K. Lipman (Phó Giáo sư – Tiến sĩ,
Đại Học Yale, 2006) công bố trên American Quarterly Volume 64, Issue 1
(ra tháng 3 năm 2012). [American Quarterly là tạp chí chính thức của
Hiệp hội Nghiên cứu Hoa Kỳ (American Studies Association)] Bản Việt dịch
“‘Hãy để chúng tôi về’: Chuyện những người Việt hồi hương từ đảo Guam,
năm 1975” đang làm và sẽ sớm có mặt trên ngăn kệ bài vở của chủ đề này,
xin quý bạn đón đọc. Thư Viện Phạm Văn Thành

Miền
Nam Việt Nam thất thủ lúc gần trưa ngày 30 tháng Tư 1975 đã kéo theo
nhiều di lụy bi tang thương trong đó nổi bật nhất là chuyện tàu Việt Nam
Thương Tín đã vượt thoát được cộng sản vào cái ngày đen đủi đó từ
Saigon và đã cập bờ đảo Guam (căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái Bình Dương) mang theo hơn 600 người miền Nam tị nạn cộng sản vào tháng 5/1975.
Thế
nhưng 6 tháng sau tức tháng 10 cùng năm 1975, tàu Việt Nam Thương Tín
lại quay trở về với Việt cộng, lần này mang theo hơn 1.600 người, để rồi
khi cập bờ biển Nha Trang, con tàu đã được công an, du kích cộng sản
“chờ đón” và toàn thể hơn 1.600 người hồi hương đã bị Việt cộng lột quần
áo, tịch thu tư trang và tống giam vào trại tù A20 Xuân Phước, Phú Yên
theo danh xưng “tù chính trị” (trại tù A20 Xuân Phước còn có hỗn
danh: Thung Lũng Tử Thần, bởi đây là nơi tử địa đã đoạt mạng không biết
bao nhiêu tù nhân xấu số dưới chế độ bạo tàn phi nhân cộng sản Việt Nam)
Từ
đó tới nay đã 4 chục năm chẵn, quái lạ thay, tuy khá nhiều người trong
số ngàn người lâm nạn nói trên vẫn còn sống sót và đang sinh sống tại
Hoa Kỳ cũng như nhiều nước Tự Do ở phương Tây… lại chẳng có mấy ai công
tâm viết lại Sự Thực tàn nhẫn này cho sử sách được ghi.
Có
một vài dòng kể chuyện nhưng hầu hết là những tự sự manh mún riêng tư
kể lể than thở trong phạm vi cái tôi nhỏ nhoi riêng tư của những cá
nhân…
Vì thế chúng tôi, Thư Viện Phạm Văn Thành
sau khi lọc lựa và hiệu chỉnh, xin trình bạn đọc diễn biến tóm gọn sự
kiện qua vài ghi nhận tạm gọi là “sử liệu” đáng tin cậy về câu chuyện không thể tin được về con tàu Việt Nam Thương Tín từ 3 phía:
– Phía người quốc gia bị nạn: M Ngọc Phan và nhạc sĩ Trường Sa
– Phía người ở bên kia vỹ tuyến (thời điểm tháng Tư đen 1975): nhà báo Huy Đức.
– Phía truyền thông: Đài phát thanh Á Châu Tự Do (RFA)
1- M Ngọc Phan (không rõ là tên hay bút danh, không xác định năm tháng viết những dòng kể dưới đây… )
10:30 sáng ngày 30/04/1975, với danh nghĩa Tổng Thống, cựu Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Trước
đó không đầy 24 giờ, Dương Văn Minh đã ký cho Nguyễn Hữu Chung một Sự
Vụ Lệnh đưa chiếc tàu Việt Nam Thương Tín đi, và một Sự Vụ Lệnh cho
Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam đưa một số vàng tồn trữ
ở Ngân Hàng này xuống tàu Việt Nam Thương Tín để khỏi lọt vào tay Cộng
Sản.
Nguyễn
Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam định lấy vàng đem đi, Tiến Sĩ
Nguyễn Văn Hảo và Thống Đốc Lê Quang Uyển nhất định không chịu trao, vì
muốn giữ lại trao cho VC để lấy điểm. Bàn cãi nhau trong vòng 1 tiếng
đồng hồ, Nguyễn Hữu Chung không thuyết phục được Nguyễn Văn Hảo và Lê
Quang Uyển, nên Nguyễn Hữu Chung phải lật đật xuống tàu Việt Nam Thương
Tín để ra đi.
Tàu
Việt Nam Thương Tín ra đến sông Lòng Tảo bị Cộng quân nã B-40 vào hông
tàu, làm thủng một mảng lớn. Nhà Văn Chu Tử, Chủ Nhiệm Nhật báo Sống ở
Sài Gòn đã bị đạn B-40 của Cộng quân giết chết trên tàu Việt Nam Thương
Tín.

Khi
cập bến đảo Guam, phần do nội tuyến VC tuyên truyền, phần vì ly biệt
người thân, 1652 người đã chấp nhận lên tàu Việt Nam Thương Tín quay trở
lại Việt Nam, vào tháng 10/1975, dưới sự điều khiển của Trung Tá Hải
Quân Trần Đình Trụ.
Kể
từ khi cộng sản chiếm đóng miền Nam, nhiều người đã hậm hực tiếc rẻ
không chạy thoát trước ngày 30/04, ra nước ngoài. Vì thế, mọi người đã
sững sờ khi nghe tin hơn 1600 người « đòi về » với chế độ cộng sản chứ
không thèm ở trên xứ tự do! Người Mỹ trên đảo lúc đó đã tìm đủ mọi cách
để dỗ dành, chìu chuộng để họ ở lại nhưng không được. Họ nhất quyết tin
tưởng nếu « thành tâm » về với cộng sản như vậy, họ sẽ được cộng sản đãi
ngộ tử tế và coi như anh hùng!
Lúc đó, người nào cũng hy vọng là sự trở về của họ sẽ được cộng sản thích thú chấp nhận và đãi ngộ tử tế.
Người
Mỹ thì biết những người trở về sẽ vô cùng cực khổ vì thiếu thốn nên đã
trang bị cho họ đủ thứ mùng mền, chăn gối, lương thực ê hề. Có người đã
ví người Mỹ cho nhiều vật dụng như cho con gái về nhà chồng!
Nào
ngờ đâu khi tàu Việt Nam Thương Tín cập bến Nha Trang, Việt Cộng đã cho
lột sạch sẽ quần áo và của cải trước khi đưa tất cả vào trại giam ngoại
trừ một bé trai 7 tuổi. Mỗi người phải trút bỏ hết quần áo và được cấp
phát 2 bộ quần áo cũ hay quần áo tù. Cộng sản làm như vậy để tiện lục
soát trong quần áo và tịch thu toàn bộ của cải, kể cả những bộ quần áo
của người tỵ nạn.
Kết
quả là mỗi người được cộng sản đón bằng cái còng số 8, bất kể đàn bà
trẻ con! Tất cả phải lột sạch quần áo để công an khám người, khám tóc
tìm cái gì có thể giấu được. Quần áo bị tịch thu để công an có thời giờ
lục soát kỹ càng và lấy luôn. Trong số những người về có tới 400 sĩ quan
cảnh sát, và mấy trăm sĩ quan quân đội.
Đàn
bà và trẻ con bị giam tối thiểu 9 tháng, những người khác từ 5 năm trở
lên, tuỳ theo thành phần, lý lịch. Một số lớn bị tình nghi do CIA “cài”
về để làm gián điệp, tình báo thì còn bị giam lâu hơn! Riêng cựu Trung
Tá Trụ đã bị tù 13 năm. Cuối cùng ông được trả tự do và ông cùng với gia
đình đã được định cư tại Hoa Kỳ qua diện HO năm 1990.
Thân
nhân gia đình của những sĩ quan trở về đã thất vọng và nguyền rủa chồng
họ không tiếc lời. Báo hại những người vợ nghèo nàn này còn phải lo
tiền bạc đồ ăn đi thăm nuôi. Nhiều bà đã quá giận bỏ chồng khiến cho gia
đình tan nát. Các “nạn nhân” chỉ còn cúi đầu sống trong sự tiếc hận,
tủi hổ với lương tâm và với mọi người, và tiếc nuối một dịp may đã mất
đi vĩnh viễn.
Trong
số những người trở về VN trên tàu Việt Nam Thương Tín cũng có nhiều
hoàn cảnh thương tâm. Thí dụ như nhạc sĩ Trường Sa (*). Trả lời phỏng
vấn của Thy Nga RFA 2008-12-07, ông cho biết:
“Khi
đó, tôi là Chỉ huy trưởng cái đoàn hộ tống công-voa các thương thuyền
của các nước đi tiếp tế cho chính quyền Lon Nol tại Campuchia. Ngày 29
thì tôi ở Vàm An Long trên sông Cửu Long. Khi mà tôi liên lạc với các
cấp chỉ huy của tôi thì người ta đi hết rồi, thành ra đêm hôm đó, tôi
dùng một chiếc tàu nhỏ trở về Sài Gòn nhưng không vô được bên trong nữa.
Và từ đó, tôi gặp chiến hạm từ Sài Gòn đi ra, tôi lên chiến hạm, đi tới
đảo Guam luôn. Khi lên tàu, tôi tìm khắp trên các chiến hạm đang di
tản, không có gia đình tôi. Không liên lạc được với gia đình, vợ con tôi
ở Sài Gòn. Tôi không bỏ rơi gia đình trong cảnh khó khăn như thế. Khi
đến đảo Guam thì tôi xin Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc can thiệp cho tôi
trở về Việt Nam. Hoàn cảnh nào, tôi cũng chấp nhận hết. Vì vậy, tôi theo
tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam. Khi tàu tới Nha Trang, VC bắt
tôi lên Ty Cảnh Sát cũ tại Nha Trang ở đó 2 tháng, rồi chuyển ra trại A
20 Phú Khánh. Một thời gian ngắn sau thì chuyển ra Bắc, trại Nghệ Tĩnh
đến năm 1984, mất cả thảy 9 năm! Chỉ vì đã ra đi, rồi lại trở về.
Năm
1986 thì tôi vượt biên, bị bắt. Từ cửa biển vào Mỹ Tho, dọc đường tôi
bị đánh dữ lắm. Họ giam tôi 45 ngày trong xà-lim tối, sau đó, họ cho ra
lao động. 2 năm sau thì thả tôi về. Đến tháng 04/1989, tôi tiếp tục đi
nữa. Lần này thành công, tôi cùng 3 con đến Pulau Bidong, phải chờ 28
tháng, mới được Canada nhận vào.

Nhạc sĩ Trường Sa và Quỳnh Lan (ca sĩ)
Giống
như nhạc sĩ Trường Sa, ông M Ngọc Phan cũng vì vợ con còn kẹt lại ở
Việt Nam, nên đã từ đảo Guam trở lại VN trên tàu Việt Nam Thương Tín để
rồi trải qua 6 năm tù đầy trong trại tù cải tạo của CS và 12 năm sau,
ông và gia đình mới vượt biên thành công, đến được Hoa Kỳ như ông kể
trong đoạn hồi ký sau đây:
Vào
đầu tháng 04/1975, căn cứ Hải Quân Phú Quốc cấm trại 100 % vì tình hình
đất nước càng lúc càng mịt mờ, tôi đưa vợ con lên tàu vào đất liền để
rảnh tay lo nhiệm vụ của một Sĩ Quan luôn luôn chấp hành lệnh cấp trên.
Bé
Dương mới hơn 2 tuổi và vợ lại gần sanh, nên tôi nghĩ không gì tốt và
an toàn hơn là gửi cả về bên Ngoại ở Rạch Giá, để có người giúp đỡ lúc
sanh nở.
Ngày 29/04 thì tình hình đã rối beng lên, tất cả tàu trong căn cứ được lệnh nhổ neo, tôi đi theo chiếc Tuần Duyên Hạm HQ 600.
Mặc dầu đã cố gắng liên lạc về Rạch Giá với gia đình, nhưng làm sao mà kịp được nữa !
Lệnh
đầu hàng của tướng Dương Văn Minh như nhát chém cuối cùng cắt đứt hy
vọng của mọi người.Ngồi trên boong tàu nhìn về quê hương mà nước mắt tôi
chan hoà. Thôi thế là hết !Thế là tán gia vong quốc.
Trước
đấy hơn một tháng, đã có biết bao công chức, lính tráng di tản về hòn
đảo cuối vùng đất nước này, nên HQ cố gắng hết sức để đưa họ ra khơi, mà
lúc này cũng chưa ai biết sẽ đi về đâu.
Tàu
tôi đã chuyển rất nhiều chuyến ra Tuần Dương Hạm. Tôi chứng kiến bao
cảnh thương tâm vợ chồng con cái la khóc vì lạc nhau, thảm cảnh tai nạn
khi chuyển lên tàu lớn, có người rớt xuống biển mà không thể nào vớt
được. Trong hoàn cảnh hỗn quan hỗn quân ấy, tôi đã hết lòng giúp đỡ mọi
người, những ghe nhỏ từ đảo Phú Quốc hay từ Rạch Giá chạy ra chở đầy
người, nhưng vợ con mình thì lại không thấy đâu !
Hạm
Trưởng ra lệnh chạy về hướng Singapore, ba ngày sau tàu cặp bến thì tôi
chuyển qua chiếc HQ 229 để đi Subic Bay- Philippines. Nơi đây tôi đã
đứng nghiêm, đau lòng tham dự lễ hạ quốc kỳ VNCH trên con tàu, tháo cặp
lon trên vai áo bạc màu, làm thủ tục ở đây 20 ngày rồi lên máy bay qua
đảo Guam.
Suốt
những này ở trại Asan, tôi thẫn thờ như kẻ không hồn, lạc lõng giữa
những người đồng số phận lưu vong. Chỉ có một số người may mắn đầy đủ
gia đình, họ mau mắn tiến hành thủ tục định cư càng sớm càng tốt.
Nhìn
cảnh gia đình họ mà tôi thèm thuồng và tủi cho thân phận mình.Tuy nhiên
tôi vẫn lo làm giấy tờ để đi định cư mà lòng thì ngao ngán. Rồi đây
trên xứ người, trơ trọi một thân một mình, không cha mẹ anh em, vợ con
thì mình sẽ sống ra sao. Càng nghĩ càng buồn.
Đêm
đêm tôi ra ngồi sát bãi biển, mắt đăm đắm nhìn về hướng quê nhà, nơi có
người cha già yếu, vợ dại con thơ đang lo lắng không biết tôi sống chết
ra sao. Tôi nhớ đến miền quê nghèo mà mình đã sống từ nhỏ, có bà con
lối xóm đầy ấp tình người, luôn luôn thuận hoà và bảo bọc nhau trong mọi
hoàn cảnh ngặt nghèo. Nhất là bây giờ không biết vợ tôi sanh nở có mẹ
tròn con vuông hay không. Mình đi rồi thì mẹ con nó lấy gì sanh sống và
tồn tại đây.
Tôi
nhớ tới cuộc di cư mà cha mẹ mình đã trải qua 20 năm về trước mà lòng
não nề.Trong một nước mà còn không thể gặp nhau, huống hồ bây giờ tôi ra
nước ngoài thì biết bao giờ gặp lại.


Thương thuyền Việt Nam Thương Tín
Đến
cuối tháng Sáu, trong trại có tin đồn là nếu ai muốn về VN thì chính
phủ Mỹ sẽ cho về.Tôi nghe một cách lơ là vì cho rằng khó có chuyện đó
xẩy ra, nhưng càng lúc tin đồn càng lớn mạnh, một người quen nói với tôi
là rất nhiều người đã ghi danh để trở về.
Cùng
lúc ấy, có một nhóm khá đông hàng ngày tụ tập trước Văn phòng Đại diện,
biểu tình yêu sách “được mau trở về VN vì nước nhà đã được độc lập, đã
hết chiến tranh rồi. Hoà bình đến thì nước nhà cần bàn tay của mọi công
dân”. Cho đến lúc này, việc định cư của tôi vẫn còn mù mờ, không có tin
tức gì cả. Tinh thần tôi dao động, khủng hoảng, đắn đo không biết tính
sao.
Nếu
đi định cư thì chắc chắn là phần vật chất thì no ấm rồi đó, nhưng về
tinh thần thì có gì bù đắp được, khi không có gia đình và một người thân
nào ở bên cạnh. Nhưng trở về thì sẽ ra sao ? Họ có bắt bớ tra tấn tù
đày gì không ? Tôi trằn trọc thao thức nhiều đêm để quyết định cho hướng
đi của cuộc đời mình.
Người
xưa đã nói : Thà chết một đống, còn hơn sống một người. Cả gia đình tôi
còn ở miền quê hương ấy, tôi lại là con trai cả, có nhiệm vụ với nguyên
một đại gia đình và với vợ con. Nhất định mình phải trở về, không lẽ
bây giờ họ thắng rồi, mà lại “Đánh kẻ chạy lại”. Cùng lắm là sau vài
tuần điều tra, thấy chẳng có gì là họ cho về với gia đình chứ cơm đâu mà
nuôi mãi.
Đọc
lịch sử thế giới ai cũng thấy rằng người thắng trận bao giờ cũng mã
thượng, như cuộc chiến Nam Bắc ở Hoa Kỳ 1861-1865, Bắc Quân thắng trận
nhưng lính Nam Quân vẫn an lành trở về nhà, cả hai miền đều chung sức
làm nên nước Mỹ ngày càng cường thịnh. Rồi như nước Nhật, nước Đức kia,
thua trận thê thảm năm 1945 mà được cựu thù giúp đỡ, nên chỉ chừng một
thập niên sau là trở thành những cường quốc ngay. Việt Nam chắc hẳn cũng
thấy ra điều đó.Nhất định là mình phải trở về. Nghĩ vậy nên khi tôi
bước lên tàu VNTT mà lòng khấp khởi.
Sau
hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín đã vào hải phận Vũng Tàu.
Hôm đó là ngày 29/09/1975 có trên dưới 1450 hành khách, với rất nhiều
lương thực và hành lý do chính Phủ Hoa kỳ trao tặng gồm chăn màn, quần
áo và thuốc men như những món quà của người đi xa mang về cho gia đình …
Không
biết tại sao mà liên lạc từ trước rồi, mà mãi ngày hôm sau mới thấy hai
chiếc tàu Hải Quân bây giờ trương cờ đỏ sao vàng ra đậu cách đó khoảng
200 m, rồi họ bắc ống dòm nhìn sang chăm chú. Mấy tiếng đồng hồ sau mới
ra hiệu hướng dẫn chiếc VNTT chạy ngược ra phía miền Trung.
Bây giờ thì nỗi lo lắng đã hiện lên nét mặt nhiều người, nhưng ai cũng nán lòng chờ đợi vì chưa biết rồi ra sẽ như thế nào.
Ngày
hôm sau thì tàu cập bến Nha Trang. Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân nơi
tôi theo học còn đây, mà sao phố phường im vắng như thành phố chết ? Tất
cả mọi người lớn bé đều bị dồn lên xe bít bùng mà chở về Trung Tâm Thẩm
Vấn của Quân đoàn II cũ. Lúc này thì ai cũng lờ mờ nhận thấy rằng khốn
nạn đến nơi rồi !
Mọi
người phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến
chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu
rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào những căn barrack.
Nhớ
mới đây, thực phẩm ở trại Mỹ ê hề thịt trứng, nho cam mà bây giờ chỉ có
cá mối ươn kho mặn là chính, thỉnh thoảng mới được ca canh nấu bằng rau
muống hoặc rau cải già. Mỗi ngày một nhóm phải đi khai báo lý lịch trên
Phòng Chấp Pháp : trước đây làm chức vụ gì trong Nguỵ Quyền, hoạt động
ra sao, trong bao nhiêu năm … Mỗi người được phát một số tờ sơ yếu lý
lịch và ít tờ giấy trắng để viết lời khai. Cán bộ thì ông nào ông nấy
mặt lạnh như tiền, cặp mắt thò lỏ ra như mắt chuột và hàm răng thuốc lào
thì cứ vẩu tướng mãi lên, họ luôn luôn nói lải nhải câu : “Nếu các anh
thành thật khai báo, thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho về”.
Bây
giờ thì cái câu ông Thiệu nói, nó hiển hiện lên trí óc mọi người :
“Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm.”
Về sau này ai cũng hiểu rằng đám cán bộ này thuộc Cục Tình Báo Nước
Ngoài thuộc Bộ Công An.
Suốt
2 tháng trời, tinh thần mọi người trở về đều bị khủng bố, ép cung, còn
về vật chất thì quá thiếu thốn, cực khổ. Những giòng nước mắt hối hận
đêm đêm ứa ra mà không ai dám than với ai, chỉ thầm đấm ngực ăn năn “Lỗi
tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.
Họ
chụp mũ mọi người là CIA, Mỹ gài lại VN phá hoại, chống phá nhà nước.
Không biết bao nhiêu lần tôi phải giải thích tại sao tôi lại trở về. Tôi
kể về nỗi nhớ nước thương nhà, lưu luyến vợ con và gia đình, nhưng
những con người không có trái tim đó họ không chịu hiểu. Điều phiền muộn
nhất cho mọi người là về đến nước nhà rồi mà không ai được liên lạc với
gia đình. Chúng tôi cũng biết chắc rằng người thân cũng lo lắng rất
nhiều vì mình biệt vô âm tín.
Vài
tháng sau thì đàn bà con nít đã được thả ra, nhưng hơn 500 Sĩ Quan,
Cảnh Sát hoặc những người làm bên ngành An Ninh bị tách riêng ra. Đến
đầu năm 1976 thì tôi bị chuyển đến trại A-30 Xuân Phước ở gần Tuy Hoà để
“Cải tạo lao động” với câu quen thuộc cũ: “Nếu các anh cải tạo tốt, lao
động tốt, học tập tốt thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho các anh
về”. Chẳng còn ai tin những lời hứa hẹn này và câu sau của ông Thiệu lại
vang vọng: “hãy nhìn kỹ những gì VC chúng làm”.
Tôi
nghe nói những người từ cấp Đại Uý trở lên đã bị chở ra ngoài Bắc,
riêng những người thuộc Ban Đại Diện tàu này thì đã bị đưa về khám Chí
Hoà từ những ngày đầu. Chắc chắn là họ thê thảm rồi chứ không được tưởng
thưởng vì đã đem về cho VC một con tàu đâu.
Thời
gian tù đày càng ngày càng vô vọng vì tù mà không có án, thân thể hao
mòn vì thiếu thốn. Sự đói khát, kiểm thảo, phê bình, lao khổ trong tù
thì đã có quá nhiều người nói đến, kể ra chỉ rườm lời. Tôi xuống tinh
thần rồi đổ bệnh tưởng không qua khỏi.
Sự
hối hận này so với những người khác cũng chưa thấm vào đâu, nhất là
những người vì ngây thơ, đã chia tay với gia đình khi ở bên trại mà trở
về một mình. Càng những ông khi biểu tình đòi về to mồm thế nào, thì sự
hối hận càng tăng thêm độ nặng chừng đó. Họ không dám nhìn ánh mắt những
bạn đồng tù. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2- Trích trang 19 sách “ Bên Thắng Cuộc” (TẬP 1: GIẢI PHÓNG – PHẦN I: MIỀN NAM) của Huy Đức (xuất bản và ra mắt ở ngoại quốc 2012, sách điện tử do Amazon phát hành dưới hình thức Kindle theo Mặc Lâm, biên tập viên RFA 2012-12-13)
Việc
đưa vào tù hàng trăm nghìn con người đã buông súng hoặc không hề cầm
súng, không bằng một bản án của tòa, sau ngày 30-4-1975, và đặc biệt,
câu chuyện đưa 1.652 con người trên tàu Việt Nam Thương Tín vào tù được
kể lại sau đây, thật khó để nói là may mắn.
Trưa
29-4-1975, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung có được một “sự vụ lệnh” do Tổng
thống Dương Văn Minh ký cho phép tàu Việt Nam Thương Tín thực hiện
chuyến di tản cuối cùng. Sáng 30-4-1975, khi con tàu này ra tới cửa
sông, đã bị B40 bắn theo, giết chết nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm Nhật báo
Sống. Con tàu Việt Nam Thương Tín và hàng nghìn người nằm đợi ở đảo Guam
gần năm tháng. Sự chờ đợi trước một tương lai vô định trong khi vợ con,
cha mẹ vẫn đang kẹt lại quê nhà đã khiến cho nhiều người muốn quay lại
Việt Nam, nơi mà họ tin là đã bắt đầu thống nhất và chắc chắn có hòa
bình.
Một
trong số ấy là Đại úy tình báo Võ Tính. Ông Võ Tính được người Mỹ tạo
điều kiện đưa toàn bộ gia đình di tản. Tuy nhiên, cha ông nói: “Tao chờ
đến ngày đất nước thống nhất, tại sao tao phải đi khi ngày đó gần kề”.
Còn cha vợ ông thì khi đó đang mong hai người con trai tập kết từ năm
1954 trở lại. Ông Võ Tính đã định ở lại Việt Nam, nhưng vào những ngày
cuối tháng 4-1975, người Mỹ khuyến cáo là sẽ vô cùng nguy hiểm. Ông Tính
được đưa ra Phú Quốc và khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông
được đưa ra Hạm đội 7 để rồi sau đó tới Guam. Cũng như nhiều người lính
khác, Đại úy Võ Tính không chắc có bị “Việt Cộng” trả thù trong khi, từ
trong thẳm sâu, ông nhận thấy chỉ có Việt Nam mới là tổ quốc. Không tìm
được lý do hợp lý để bỏ nước, bỏ cha mẹ già, người vợ trẻ và 3 đứa con
thơ, Đại úy Võ Tính đã tham gia vận động để người Mỹ cho phép những
người Việt quay lại Việt Nam bằng con tàu Việt Nam Thương Tín.
Ngày
29-9-1975, sau khi Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc nhận được sự đồng ý của
Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, tàu Việt Nam Thương Tín
rời Guam trong một buổi lễ tiễn đưa trang trọng: có những phụ nữ mặc áo
dài, chào cờ và được truyền hình Mỹ tường thuật. Trung tá Hải quân Trần
Đình Trụ được ủy nhiệm chỉ huy chuyến trở về của con tàu này.
Sau
hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín về đến hải phận Vũng Tàu.
Mãi tới hôm sau, hai tàu Hải Quân treo cờ đỏ sao vàng mới chạy ra và
dừng lại cách tàu Việt Nam Thương Tín gần 200m. Những người lính Hải
quân dùng ống nhòm quan sát rất kỹ và sau mấy giờ, họ hướng dẫn tàu Việt
Nam Thương Tín chạy ngược ra phía miền Trung. Những người trở về bắt
đầu linh cảm điều gì đó bất thường nhưng họ vẫn còn hy vọng và vẫn còn
chờ đợi.
Tới
Nha Trang, tàu bị dẫn vào Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Tất cả mọi
người đều bị dồn lên những chiếc xe bít bùng và khi được chở tới Trung
Tâm Thẩm Vấn của Quân đoàn II thì mọi người được lệnh “phải trút bỏ hết
quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ
đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt
vào phòng giam”. Trừ một đứa bé khi ấy 7 tuổi, tất cả đều phải đi tù,
người ít nhất 9 tháng, người lâu nhất – Trung tá Trần Đình Trụ – phải ở
tù tới 13 năm. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
3- Số phận những người trên tàu Thương Tín sau 40 năm – Hòa Ái, phóng viên RFA 2015-03-16
Chiếc tàu mang tên Việt Nam Thương Tín chở hơn 600 người di tản vào
ngày 30/4/1975 và đã quay lại VN với số lượng người hơn gấp đôi so với
lúc ra đi 6 tháng sau đó. Số phận của những người trở về này ra sao sau
40 năm?
Trong
số các chiếc tàu rời cảng Sài Gòn chở người di tản trong những giây
phút cuối cùng của cuộc chiến tranh VN thì tàu Việt Nam Thương Tín luôn
được nhắc đến trong suốt 40 năm qua bởi vì đây là chiếc tàu độc nhất
quay trở về.
Thương
thuyền Việt Nam Thương Tín có trọng tải hơn 6 ngàn tấn với hơn 600
người bắt đầu cuộc hành trình vào ngày 30/4/1975. Khi tàu chạy được 7
hải lý trên sông Lòng Tảo đến khu vực rừng Sát thì bị trúng 3 viên đạn
pháo B40 gây thiệt mạng cho Nhà văn Chu Tử và 1 cháu bé. Mặc dù con tàu
bị hư hại nhưng cuối cùng vẫn cập bến Apra, đảo Guam an toàn.
Trong
thời gian con tàu Thương Tín có mặt ở đảo Guam, một số những người Việt
tạm cư ở đây lên tiếng muốn trở về VN với lý do gia đình cùng người
thân còn ở VN và còn vì các nguyên nhân khác. Nhiều người tuyệt thực
biểu tình yêu cầu nguyện vọng của họ được chính phủ Hoa Kỳ đáp ứng. Mặc
dù có rất nhiều lời khuyên can ngăn không nên trở về vì sẽ gặp nhiều rủi
ro với chính phủ mới do Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền nhưng cuối
cùng khoảng 1600 người, trong đó hơn 100 người đã định cư ở vùng Bắc Mỹ
đến Guam để hồi hương. Chính phủ Hoa Kỳ chọn chiếc tàu Việt Nam Thương
Tín và chỉ định Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ lái chiếc tàu này trở về
VN.
Trao
đổi qua điện thoại với Hòa Ái, ông Trần Đình Trụ chia sẻ đến đảo Guam
một mình vì khi rời VN trong chuyến công vụ trên chiến hạm hải quân nên
ông quyết định trở về dù đã tiên liệu được phải trả một cái giá nào đó,
có thể là tù đày vài ba năm do ông phục vụ trong Quân lực VNCH nhưng vẫn
có cơ hội cho một cuộc sống về sau cùng với những người thân.
Cựu
Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ cho biết con tàu Việt Nam Thương Tín
được trang bị đầy đủ xăng dầu, thực phẩm không những cho cuộc hải trình
trở về VN mà còn đủ cho thời gian con tàu quay đầu trở lại đảo Guam nếu
những người trên tàu thay đổi quyết định.
Không
gặp trở ngại nào như lúc rời VN vào ngày 30/4, con tàu Việt Nam Thương
Tín sau 2 tuần đã về đến Vũng Tàu an toàn. Thế nhưng số phận của khoảng
1600 người trên tàu, kể cả phụ nữ và trẻ em lại không được an toàn như
vậy. Tất cả họ bị đưa vào trại giam. Ông Trần Đình Trụ kể lại:
“Tâm
trạng con người ta khi mất tất cả, đất nước mất; gia đình, vợ con, sự
nghiệp, nhà cửa, tất cả mất hết thì tôi không tha thiết gì cuộc sống bên
Mỹ. Thành ra tôi quyết định về, dù chết cũng về. Về tới VN thì đương
nhiên công an đưa tôi vào trại giam liền. Thực ra tôi về vì gia đình tôi
còn ở VN nhưng những người Cộng sản nghi ngờ tôi từ bên Mỹ về thì Mỹ
giao cho tôi công tác nào đó. Họ nghi ngờ như vậy cho nên họ điều tra về
vấn đề này. Sau đó, họ điều tra rất nhiều, rất lâu, mấy tháng liên tiếp
ngày nào cũng gọi tôi lên. Sau cùng họ chẳng tìm ra được nguyên nhân gì
cả, chỉ vì lý do gia đình thôi. Sau đó họ đưa tôi vào những trại giam ở
miền Trung và miền Bắc. Tôi ở 13 năm. Lúc tôi được về thì tương đối
cũng không gặp trở ngại gì cả nhưng mọi hoạt động của tôi vẫn có người
theo dõi”.
Trường
hợp tiếp mà chúng tôi ghi nhận được cũng từ trên chiếc tàu Thương Tín
trở về và bị nói làm việc cho CIA là của ông Trần Đẹt. Ông này người gốc
Khmer, hiện ở Sóc Trăng.
Là
cận vệ của Chỉ huy huy trưởng Chi Cảnh sát Quận Mỹ Xuyên, Tỉnh Ba
Xuyên, Đại tá Lê Trường Xuân vào thời điểm 30/4/75, Trung sĩ Trần Đẹt
được lệnh đi theo người chỉ huy của mình xuống tàu Việt Nam Thương Tín
để chuyển vùng chứ không hề biết là đi di tản ra khỏi VN. Quyết định trở
về VN với hy vọng gặp lại vợ và 4 người con nhưng ông Trần Đẹt bị bắt
giam ngay sau khi con tàu cập cảng ở Nha Trang vào ngày 15/10/75. Ông
Trần Đẹt phải chịu gần 5 năm tù ở trại A20 Phú Khánh vì “Họ nói mấy anh
chạy đi nước nào thì còn khoan hồng chứ đi Mỹ trở về thì toàn là CIA cài
lại”.
Rồi
số phận của nhiều người trong số 1600 người trên con tàu Việt Nam
Thương Tín cũng lần lượt được trở về đoàn tụ cùng gia đình, ông Trần Đẹt
thì khoảng gần 5 năm, ông Trần Đình Trụ mất 13 năm trường. Và một lần
nữa, nhiều người trong số họ lại rời VN ra đi đến Hoa Kỳ định cư trong
những năm đầu thập niên 90. Ông Trần Đình Trụ cùng gia đình đến Mỹ năm
1991.
Tuy
nhiên cũng vẫn có nhiều trường hợp không may mắn như gia đình ông Trần
Đình Trụ. Gia đình ông Trần Đẹt bị kẹt lại VN vì tờ khai hộ khẩu có vấn
đề. Ngày-tháng-năm ông Trần Đẹt trình diện công an địa phương hồi cuối
năm 1980 không được ghi trong tờ khai hộ khẩu của gia đình nên khi đi
phỏng vấn thì trong tờ khai hộ khẩu chỉ có năm 1977 khi gia đình của ông
được cấp hộ khẩu mới mà thôi nên đối chiếu với thời gian ghi trên giấy
ra trại cải tạo không phù hợp. Ông Trần Đẹt nhớ lại:
“Bị
trục trặc giấy cải tạo với tờ khai hộ khẩu. Hồi tôi nộp hồ sơ thì tờ
khai hộ khẩu là C4, không có ghi ngày tháng mình nhập khẩu. Tới khi đổi
tờ khai hộ khẩu mới thì tên tôi bị (công an địa phương) ghi nhập khẩu
năm 1977 nên khi đi phỏng vấn không kiểm tra được. Như thế này, mời
phỏng vấn là 10/10/1995. Giấy phỏng vấn ghi mùng 10 nhưng (bưu điện
chuyển) về tới tay tôi là mùng 9 thì thu sếp hồ sơ không kịp. Lên phỏng
vấn thì bị sai hồ sơ hộ khẩu với giấy cải tạo. Tôi khiếu nại thì họ kêu
bổ túc hồ sơ. Tôi lên Sài Gòn bổ túc hồ sơ mấy lần mà không được. Phái
đoàn Mỹ chất vấn giấy cải tạo với tờ khai hộ khẩu không khớp với nhau.
Họ căn cứ theo tờ khai hộ khẩu còn giấy cải tạo thì bị nghi là giấy cải
tạo giả.”
Gia
đình ông Trần Đẹt nhờ 1 người quen cùng xóm biết tiếng Anh giúp làm đơn
khiếu nại gửi đến Lãnh Sự quán ở Thái Lan. Sau đó, gia đình nhận được
thông báo hồ sơ được lưu trong vòng 5 năm đến năm 2000 ở Lãnh Sự quán
TP.HCM cho việc khiếu nại nhưng vì nghèo khó nên gia đình đành phải bỏ
cuộc. Và công an địa phương lập biên bản thu hồi hết 6 hộ chiếu của gia
đình.
Hiện
ông Trần Đẹt, 68 tuổi, với vóc dáng 44 kg, làm công việc bốc vác gạo và
chở gạo thuê ở chợ, kiếm được khoảng 50 đến 60 ngàn đồng, tương đương
gần 3 đô la cho cuộc sống mưu sinh hàng ngày.
Kể
từ ngày đặt chân lên con tàu Việt Nam Thương Tín đến nay đã gần tròn 40
năm, nay ông Trần Đình Trụ hài lòng với cuộc sống ở Hoa Kỳ nhưng vẫn
mong một ngày trở về khi VN thật sự có tự do-dân chủ.
Còn
ông Trần Đẹt dù phải an phận với cuộc sống gian nan nơi quê nhà nhưng
luôn hy vọng có được một cuộc sống mới bên kia bờ Thái Bình Dương. Ở
tuổi gần đất xa trời, cả ông Trần Đình Trụ và ông Trần Đẹt đều mong đợi
ước vọng của họ thành sự trước khi nhắm mắt xuôi tay.

0 comments:
Post a Comment