Cờ
Vàng là màu cờ mang theo Hồn Nước, mang theo trọn niềm tin yêu, hy vọng
của con dân và của núi sông Việt Nam hôm nay và mai sau. Cờ Vàng là
truyền thống, là lịch sử là nền văn hóa của chúng ta và thuộc về chúng
ta. Đó là màu cờ của sự sống của Tự Do của Độc Lập Dân Tộc. Cờ Đỏ là cờ
của sự chết, của man rợ. Nó là màu cờ mang tâm huyết của CS Phúc Kiến.
Nó giết chết hết tất cả mọi niềm tin, mọi hy vọng, mọi yêu thương, mọi
nhân ái trong lòng người Việt nam. Nó là tội ác và là gian trá. Nó là cờ
của Nô Lệ, có truyền thống, lịch sử và nền văn hóa thuộc về nô lệ.
Không thuộc về truyền thống, lịch sử, văn hóa Việt Nam...
*
Sau Hiệp Định Genève 20-7-1954 Việt Nam bị phân chia thành hai lãnh thổ.
Cả hai đều được công nhận trên trường Quốc Tế. Mỗi bên thành lập chính
phủ riêng và xây dựng xã hội theo một thể chế chính trị khác nhau. Từ
đó, tạo ra hai truyền thống, lịch sử và nền văn hóa, giáo dục công dân
hoàn toàn khác nhau.
Miền Bắc được gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đặt dưới sự lãnh đạo và
quản chế của khối cộng sản quốc tế. Nửa phần đất nước này có dân số
đông hơn ở miền Nam, được lèo lái, được (bịt mắt) dẫn đi theo chủ nghĩa
cộng sản. Cộng sản chủ trương xây dựng xã hội miền Bắc theo thuyết Tam
Vô: Vô Gia Đình, Vô Tổ Quốc, Vô Tôn Giáo. Lấy bạo lực chính trị và dối
trá làm nền tảng để áp đặt và cai trị đất nước. Vì theo chủ nghĩa Tam
Vô, CS đã có những quy trình và học tập nhằm tiêu diệt nền tảng văn hóa
nhân bản của xã hội và của gia đình. Khởi đầu là bài giáo khoa cơ bản
dùng để đào tạo các đoàn đảng viên, và buộc mọi học viên phải đạt trong
học tập. Bài giáo khoa này vừa được Trần Đĩnh, một cựu đảng viên từ thời
1949-50 tiết lộ trong Đèn Cù "Định nghĩa đảng viên là ngọc là vàng
của đảng cho nên vào tổng kiểm thảo, Tố Hữu yêu cầu học viên rất ngặt...
Không đạt yêu cầu căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ thì bản tổng kiểm
thảo bị “phá sản,” học viên đó phải ngồi học lại cho tới khi nào lập
trường vô sản, lập trường nông dân thắng, anh ta công khai tuyên bố căm
thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ mình (mới thôi)” (trang 74-75). Kế
đến là bản cáo trạng phi nhân tính, phi đạo nghĩa “Địa chủ ác ghê” do Hồ
Chí Minh viết ra để khởi đầu và làm nền tảng, không phải chỉ cho cuộc
đấu tố nhân dân Việt Nam thời 1953-56, nhưng còn là cho cuộc sống của
đảng.
Việc định nghĩa và thực tế áp dụng những bài giáo khoa cho các đoàn đảng
viên, song hành với việc triệt để tuân thủ tinh thần bản cáo trạng “địa
chủ ác ghê” vào cuộc sống của đảng, Cộng sản đã tạo ra hỗn loạn và làm
đảo lộn mọi sinh hoạt trong xã hội. Ở đó là cuộc sống vô văn hóa, vô kỷ
cương, vô luân thường, vô đạo lý. Chỉ có bạo lực khủng bố và dối trá làm
chủ thể trên cả luật pháp và xã hội. Ở đó, lá cờ màu đỏ có một sao vàng
là tâm huyết của đảng cộng sản Phúc Kiến, (Đây là cờ của đảng cộng
sản Phúc Kiến do Li Ji Shen (Lý Kỳ Thân) sáng lập vào khoảng 11.1933 đến
1-1934. Sau cuộc nổi dậy ở Phúc Châu, Phúc Kiến bị phe Tưởng Giới Thạch
dẹp yên, Li Ji Shen đem tàn quân sáp nhập vào với Mao Trạch Đông. Sau
này Y làm phó chủ tịch nhà nước Trung cộng vào năm 1949) được thiếu tá Hồ Chí Minh, trong đội quân giải phóng nhân dân Trung cộng, (theo tài liệu còn lưu trữ của Quân ủy trung ương Trung Cộng)
đem vào Việt Nam khoảng 1940 và trở thành biểu tượng màu cờ sắc áo cho
nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong việc thực hiện mọi chỉ thị từ
Trung cộng. Rồi sau khi Cộng sản chiếm trọn miền Nam Việt Nam vào ngày
30-4-1975, lá cờ Phúc Kiến của nhà nước CHXHCNVN trở thành một bàn đạp
cho Trung cộng tràn xuống phương Nam.
Miền Nam Việt Nam sau ngày 20-7-1954 vẫn còn là một nước theo hệ quân
chủ Lập Hiến với tên gọi Quốc Gia Việt Nam. Chính phủ do Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm lãnh dạo được thành lập vào ngày 7-7-1954. Dưới sự lãnh đạo
của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, miền Nam xây dựng xã hội theo con đường Tự
Do, Dân Chủ, dần đổi sang thể chế Cộng Hòa. Về văn hóa và giáo dục công
dân được mở rộng theo hướng đi nhân bản, lấy Công Bình, Bác Ái, Nhân
Bản Vị (nay gọi là Nhân Quyền) làm gốc sinh. Tất cả đều hướng đến mục
đích phục vụ con người trong công ích và Công Lý theo tiêu chuẩn của
luật pháp. Miền Nam cương quyết bảo vệ sự Độc Lập và toàn vẹn lãnh thổ
nên ngoại trưởng Trần Văn Đỗ không ký vào bản hiệp định chia đôi đất
nước.
Trong chủ trương bảo vệ đời sống an sinh của đồng bào và nhằm đem lại
hạnh phúc, ấm no và đời sống yên vui, thanh bình cho công dân. Ủy Ban
Bảo Vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam đã được thành lập. Vào ngày Ủy
Ban 28-4-1954 đã tìm cách kêu gọi dân chúng và bảo vệ dân chúng trốn
thoát chế độ cộng sản tại miền Bắc. Kết quả của chính sách đúng đắn
này là có hơn một triệu người đạp trên cái chết để trốn chạy cộng sản,
di cư vào Nam tìm tự do. Lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, trước đó và cho đến ngày
30-4-1975 (nhiều nơi đến ngày 01-5-1975) là nghi biểu, là màu cờ sắc
áo, biểu tượng cho dân tộc và Quốc Gia Việt Nam. Sau đổi là Việt Nam
Cộng Hòa.
Sau ngày quốc hận 30-4-1975, màu cờ của Quốc Gia Việt Nam đã tung bay
trên khắp nẻo đường thế giới. Bất cứ nơi nào có người Việt Nam trốn
chạy cộng sản đến sinh sống, nơi ấy có Cờ Vàng tung bay, và chính phủ sở
tại đã có những văn bản chính thức công nhận đây là màu cờ của người
Việt Nam Tự Do. Từ đó, Cờ Vàng là biểu tượng, là màu cờ của những người
yêu và được sống trong Tự Do, sống trong nền văn hóa Nhân Bàn, tôn trọng
Công Lý và Nhân Quyền.
I. Truyền thống và lịch sử của màu cờ nói gì?
Trên đây là vài nét về hai màu cờ sắc áo riêng biệt của hai thể chế tại
Việt Nam. Nhưng màu cờ nào sẽ là cuộc sống, là Niềm Tin Yêu và Hy Vọng
của chúng ta và của đất nước hôm nay và mai sau?
Khi nói về Truyền Thống và Lịch Sử của một màu cờ, tôi cho rằng có viết hàng trăm trang sách cũng chưa hết những điều cần viết, nói chi đến một vài trang giấy ngắn. Ở đây, tôi xin đưa ra hai hình ảnh mang tính truyền thống, bao gồm cả tính lịch sử và giáo dục công dân, mà hai tấm ảnh là biểu tượng từ hai màu cờ này muốn truyền đi. Truyền đi như là một chứng minh căn bản nhất, hùng hồn nhất, chính xác nhất và có thể là câu trả lời, giải nghĩa hoàn hảo nhất cho màu cờ và sắc áo mà nó đại điện.
1. Tấm hình thứ nhất
Tấm hình ghi lại cảnh có một đứa bé độ lên ba, mặt mũi lem luốc, mặc áo
quá khổ, không có quần, hai tay cầm lá Cờ Đỏ lớn quá khổ so với tuổi
đời. Tuy thế, nó diễn một dáng diệu đầy uy phong khi đi vòng quanh đấu
trường, nơi được gọi là tòa án nhân dân. Ở đó không thấy có quan tòa,
nhưng có hai đấu tố viên tuổi chưa quá 6,7 tuổi, vẻ như đang hạch tội
và kết án một tên “địa chủ” ác ôn, hay viên cựu lý trưởng, chánh tổng,
viên chức nào đó. Ông ta đang cúi mặt nhận tội trước khi bị xử tử? Rồi
trong vòng vây của người, và dưới sự hướng dẫn đầy khí thế của đứa trẻ
lên ba, tay cầm cờ quét lê trên mặt đất là hai tên du kích với cây súng
dài lăm lăm trong tay. Đây là một tấm hình rất đặc biệt. Nó nói lên toàn
bộ nền văn hóa giáo dục cũng như truyền thống và lịch sử của lá Cờ Đỏ
do Hồ Quang đem từ bên Tàu sang. Rồi chẳng bao lâu sau, nó đã tạo nên
một “chiến thắng long trời lở đất” trong mùa đấu tố 1953-56.
a, Về Truyền thống, Tấm hình truyền đi một truyền thống
giết người man rợ của chế độ. Chỉ trong vòng có khoảng ba bốn năm, nó đã
giết chết gần 200,000 ngàn người Việt Nam và làm tan hoang hàng triệu
gia đình khác. Theo truyền thống này, việc xử án giết người (qua tấm
hình) không cần luật lệ, đôi khi không cần cả quan tòa. Chỉ cần những kẻ
vô tri, ngây ngô, bất giáo, không có một chút hiểu biết gì giống như
đứa trẻ lên ba, chưa biết mặc quần kia, nhưng biết cầm cờ, biết hò hét,
trợ thủ cho vài ba đứa trẻ vô tri khác làm quan tòa như hai đứa trẻ
trong hình là đạt, là có thể tạo ra một thành tích lẫy lừng cho đảng
theo khẩu hiệu “thà giết lầm hơn bỏ xót”. (Đỗ Mười là tác giả của khẩu
hiệu này?). Ngẫm, nhìn. Tấm hình đã nói lên trọn những điều nó cần nói.
Chỉ những kẻ vô tri làm điều bất giáo mới mở ra được cái truyền thống
này.
b, Về Lịch sử. Tấm hình ghi lại và truyền đi một hình ảnh
tạo nên lịch sử của lá Cờ Đỏ và CS là, những kẻ vô tri kia, áo thì quá
khổ, quần không có, đồng nghĩa với việc CS tự khoác cho nhau cái áo
thụng cách mạng, nhưng không thể che được phần ngây ngô, vô kiến thức
như một đứa trẻ lên ba. Nó không có quần, giống như kẻ trong thời ăn
lông ở lỗ chưa được giáo hóa. Tuy thế, thành phần chưa được giáo hóa này
lại được coi là những kẻ tiên phong cầm cờ đi tạo lịch sử, đi làm cách
mạng. Tiếc rằng, những nhà “cách mạng” chưa biết mặc quần này thuộc diện
vô tri, chẳng biết cái cờ nó cầm trên tay là cái gì, có nguồn gốc lịch
sử ra sao. Tất cả, từ trên xuống dưới đều giống như các hạng mục voi
giấy, ngựa giấy, chó giấy quay tít trong cái Đèn Cù mà Trần Đĩnh diễn
tả. Đó là lịch sử của gian trá và tội ác!
c, Về Giáo dục, văn hóa. Tấm hình truyền đi một lối, một
nền văn hóa man rợ, đầy dối trá, không có hàm tính người của Cộng sản.
Nó dạy cho người, cho trẻ thơ còn vô tri biết vui mừng, hồ hởi phấn khởi
đi theo đảng giết người vô tội. Nó dạy cho trẻ bài học vô giáo dục, vô
văn hóa để đạp đổ lễ giáo, tôn nghiêm trong trật tự gia đình và xã hội.
Chúng dạy cho trẻ thuộc lòng những vô lễ, tao, mày, thằng trọc phú,
thằng lý trưởng ác ôn… để tạo khi thế giết người. Ai cũng biết, trong
nội bộ, CS đã thành công trong việc huấn luyện, đào tạo các học viên qua
bài giáo khoa "phải căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ" thì đây, tấm
hình này chính là cảnh diễn lại bài học lịch sử mà rất nhiều đứa trẻ đã
phải học, phải tập trước khi được đẩy vào đấu trường. Cô tôi, một người
chứng kiến nhiều cuộc đấu tố ở Thái Bình kể lại là: “Nó chỉ tay vào
mặt bố mẹ đẻ mà đấu theo lời dặn dò, mớm mồi của những kẻ vô tri bất
giáo trong đội đấu”. Đội xúi bảo chúng, “Cháu có muốn cứu bố mẹ cháu
không? Nếu muốn thì cứ ra làm như thế. Có tự tay ra đấu tố bố mẹ cháu
thì mới cứu bố mẹ cháu khỏi chết!” Đến khi, đứa bé vừa diễn xong lời
dạy của đội. Những nhà cách mạng không có quần kia, liền vỗ tay, bác
loa mồm oang oang: “Đấy đồng bào nghe rõ cả rồi đấy. Chính con cái của
tên trọc phú này đã ra lời tố cáo tội ác của nó, thì nó còn chối vào đâu
được nữa”! Hỡi ôi, một bài học mà Lưu cộng Hòa, một đảng viên CS từ
thời 1949-50 đã phải thốt lên “Nay phải nhận mình là con vật mới đúng!” (Đèn Cù tr.75)
Đó là sự nghiệp lớn mang trọn ý nghĩa, chủ đích, truyền thống, lịch sử
rồi giáo dục và văn hóa của Cờ Đỏ. Hỏi thử xem, nơi có Cờ Đỏ quản trị có
phải là nơi để cho những ước mơ, cho những con người đã có trí khôn, đã
được giáo hóa, tìm về để nương náu và đặt tin yêu hy vọng vào nó hay
không?
2. Tấm hình thứ hai
Tấm hình của Thiếu tá Ngụy Văn Thà và đồng bạn đã hy sinh cùng với con
tàu ở Hoàng Sa. Họ chết cho quê hương trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa
vào ngày 19-1-1974.
a, Về Truyền thống. Tấm hình truyền đi hình ảnh người
chiến binh Ngụy Văn Thà đã hiên ngang bước đi theo truyền thống bất
khuất của người xưa Anh đã nối theo chí hùng ngàn năm của tiền nhân, nêu
cao ý chí của dân tộc, lấy chính máu xương của mình để bảo vệ lấy bờ
cõi của non sông.
Đất của Mẹ, một ngọn cỏ ta thề không bỏ,
Núi nước Nam, một viên đá ta quyết chẳng rời!
Như thế, máu hồng từ trái tim anh nhỏ xuống trên chiến trường Hoàng Sa
vào ngày 19-1-1974 chính là dòng máu nêu cao một truyền thống bất di bất
dịch từ ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống bảo vệ màu cờ
sắc áo Độc Lập tự chủ của dân tộc.
b, Về Lịch sử. Tấm hình ghi lại một chiến tích lẫy lừng
của con dân Việt Nam trước cảnh ngoại xâm. Vào cuộc chiến, sinh tử,
thắng bại là lẽ thường tình, người ta không luận một chiến thắng, một
cái chết trong cuộc thắng, thua. Nhưng lịch sử là sử luận về một thiên
anh hùng ca của những người đã hy sinh vì màu cờ sắc áo của dân tộc mà
Ngụy Văn Thà và các chiến hữu của anh trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa
đang mang trên vai. Lịch sử cũng còn ghi lại rằng. Trong ngày người
chiến binh Ngụy Văn Thà và đồng đội của anh hy sinh mạng sống của mình
để bảo vệ nền Độc Lập và sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam, thì ở nơi phương
Bắc kia, một nửa phần đất của quê hương bị dẫn đi theo chủ nghĩa Tam
Vô, Tập đoàn cộng sản đã đứng dưới lá cờ Phúc Kiến, hát ca, nhảy mừng
khi quân Tàu Ô chiếm được Hoàng Sa, là phần đất Việt Nam, trực thuộc
chính phủ Việt Nam Cộng Hòa theo hiệp định Genève 1954, nhưng CS đã ký
giao, bán chủ quyền cho Trung cộng vào năm 1958. Lịch sử này ngàn năm đã
dễ phôi pha!
c, Về văn hóa giáo dục công dân. Tấm hình ấy truyền đi nét
cao đẹp và trân quý của nền Văn Hóa nhân bản dân tộc mà những người
trai Ngụy Văn Thà và các đồng đội của anh đã thụ hưởng tại miền Nam ở
dưới lá Cờ Vàng. Họ đã hy sinh bản thân mình vì cuộc sống của dân tộc.
Tấm hình ấy chính là di sản thuộc nền Văn Hóa Nhân Bản của Quốc Gia Việt
Nam sẽ còn mãi mãi truyền lại mai sau. Nói gì, nghĩ gì? Hẳn nhiên là
không còn một truyền thống, một lịch sử, một nền văn hóa giáo dục công
dân nào hoàn hảo và cao quý hơn thế nữa.
Như thế, màu CỜ VÀNG lẫm liệt, phủ trên quê hương Việt Nam, phủ trên
thân xác Ngụy Văn Thà và đồng đội của ông, có phải là Màu Cờ của mọi ước
mơ nhân bản Việt Nam sẽ tìm về để giữ gìn và lưu truyền lại cho dòng sử
mai sau hay không? Nơi có Cờ Vàng tung bay, có phải là nơi có đủ tin
yêu hy vọng để cho con người tìm về nương thân không? Hay trên phần đất
có đứa trẻ kéo lê cái CỜ ĐỎ trên mặt đất kia, với những cuộc đấu tố kinh
hoàng trong lịch sử, mới chính là nơi để mọi người cùng tìm về để sống
bên nó, hưởng yên vui, hạnh phúc với nó? Tôi cho rằng, không có câu trả
lời nào chính xác hơn là việc nhìn vào cuộc sống của người dân ở dưới
mỗi màu cờ này.
II. Cuộc sống dưới mỗi màu cờ cho ta thấy những gì?
1. Cờ Vàng: Màu cờ có mang theo Hồn Nước, có mang theo
trọn niềm tin yêu, hy vọng của con dân và của núi sông Việt Nam hôm nay
và mai sau hay không?
Phải. Tôi khẳng định là như thế. Tôi khẳng định không phải vì có người
thân, cũng không phải vì đã có hàng triệu quân dân cán chính miền Nam,
ròng rã trong hơn hai mươi năm cuối cùng trước ngày 30-4-1975 đã hy sinh
vì màu cờ, và sắc áo của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng khẳng định vì Đại
Nghĩa của dân tộc Việt. Khẳng định vì Truyền Thống, vì Lịch sử, vì nền
Văn hóa và giáo dục công dân mà màu cớ ấy đã tiếp nhận từ tiền nhân, rồi
mang theo trong dòng sinh mệnh của lịch sử mà truyền đến hôm nay. Màu
cờ này được tạo ra từ tâm huyết Việt Nam. Tâm huyết bảo vệ sự trường tồn
và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Tâm huyết bảo toàn trọn vẹn nền văn hóa
nhân bản dân tộc. Tâm huyết bảo vệ trọn vẹn ý nghĩa Đồng Bào trong dòng
sử lập quốc Việt Nam. Hơn thế, còn là tâm nguyện của ngàn ngàn sau. Bởi
vì người Việt Nam chưa bao giờ ngừng đi tìm sự Tự Do, Dân Chủ, Nhân
Quyền. Người dân Việt Nam chưa bao giờ rút lui trong cuộc chiến bảo toàn
nền Độc Lập và phần lãnh thổ của tiền nhân để lại. Như thế, truyền
thống này, lịch sử này, văn hóa này là của chúng ta và thuộc về chúng
ta, thuộc về con cháu chúng ta.
Bạn cho rằng tôi ca quá lời chăng? Nếu thế, tôi mời bạn nhìn xem những
cảnh thực tế trước mắt bạn đây. Xem xong rồi, tự bạn hãy trả lời cho
bạn, cho thân nhân, cho người quen của bạn nghe, biết về câu trả lời của
bạn ra sao nhá. Bạn có thấy bất cứ một người thuyền nhân Việt Nam nào,
kể cả cán cộng cho đến công dân đi trên nhưng chiếc thuyền ra khơi, hay
chạy băng qua đồi núi để ra khỏi Việt Nam sau ngày 30-4-1975, có ai
trong đó muốn xin đến tỵ nạn, xây nhà, lập nghiệp tại một nước là bằng
hữu, là đồng chí của lá Cờ Đỏ của Việt Cộng như, trước kia thì có Liên
Xô, Tàu, khối Đông Âu... Nhưng nay chỉ còn lại Trung Cộng, bắc Triều
Tiên và Cu Ba không?
Tôi quả quyết là không. Những kẻ điên cũng không dám xin đến những nơi
ấy. Trái lại, tất cả những người kể trên, bao gồm luôn cả những người
chết trên biển hay những người không có cái may mắn xuống được thuyền ra
khơi, đều ước mơ đến được bến bờ tự do, bao gồm Hoa Kỳ, Úc, Canada,
Pháp, Đức… và các đồng minh trong khối Tây Âu, là bằng hữu đồng vai sát
cánh với là Cờ Vàng của Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975 để xây nhà dựng
nghiệp, để mưu cầu cho con cái được hưởng lấy một nền giáo dục nhân
bản. Cách riêng, bản thân được hưởng tự do, được công lý bảo vệ và được
sống trong yên bình. Tôi chẳng thấy một ma dại nào dám xin đến những
nước bằng hữu, đồng chí với Cờ Đỏ. Tại sao thế?
Thực tế hơn, bạn hãy nhìn xem, những Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang,
hay những Triết, Hùng, Phúc, Thanh, Quang, thậm chí, Mười, Anh… và con
cái, thân nhân của những Đồng, Chinh, Giáp, Duẩn và của tất cả những
cán cộng có quyền chức từ hàng tướng tá, tỉnh thành đến phường quận
huyện xem. Tại sao họ không mua đất, mua nhà, mua dinh thự, mua xe, mua
tàu du lịch, không đưa con cái đi học, lập nghiệp ở những quốc gia mang
tên Trung cộng, Bắc Triều Tiên, Cu Ba là những anh em đồng chí với Cờ
Đỏ, mà lại đua nhau lén lút, đi chui lòn, tìm đến những nước họ luôn mồm
gọi là thuộc thế lực thù địch bao gồm Mỹ, Canada, Úc, Pháp, Đức…. là
bằng hữu với Cờ Vàng của Việt Nam Cộng Hòa vào trước năm 1975 mà nương
thân? Họ là những thằng người điên loạn, hay là những “bọn ma cô đĩ
điếm” chính hiệu như lời Phạm Văn Đồng đã nói?
Tôi chẳng bảo họ điên, cũng chẳng bảo họ là những "ma cô đĩ điếm" như
lời Phạm Văn Đồng, nhưng là những đa trá. Mồm thì oang oang chống Cờ
Vàng, nhưng thực trong bụng thì ngày đêm mơ ước tìm về nương náu, mong
hưởng nhờ ân huệ ở những nơi chốn có lá Cờ Vàng của Việt Nam Cộng Hòa
hiện diện. Có lạ lắm không? Thử hỏi xem, tại sao những quan cán cộng, từ
nhớn đến nhỏ, từ trung ương đến địa phương đều âm thầm, lặng lẽ tìm đến
những nơi có Cờ Vàng “thù địch” để nương nhờ? Họ là những kẻ đã phản
đảng, hay những nơi đây có trọn tin yêu hy vọng và bao dung, khoan hậu,
nhân bản. Là nơi đặt ước mơ của mọi người? Tại sao họ không đến nương
nhờ những nơi có Cờ Đỏ tung bay? Chẳng lẽ, nơi đó chỉ có sự chết và dối
trá?
2. Cờ Đỏ: Cờ của sự chết, của man rợ, của dối trá làm cho
người người sợ hãi, phải chạy trốn. Hay của hy vọng để cho mọi người tìm
về với thiên đàng CS?
Trước hết, bạn có thấy gia đình nào phải lén lút trốn vùng Cờ Vàng để
tìm đến sinh sống và nương nhờ dưới ánh Cờ Đỏ để mong cầu có Tự Do, Dân
Chủ, Nhân Quyền và được công lý bảo vệ trong cuộc sống yên vui không?
Nếu có, nay họ ra sao rồi? Xin bạn đừng vẽ vời ra câu chuyện là có dăm
ba kẻ chui lòn từ phía Cờ Vàng vào nơi có Cờ Đỏ quản trị để kiếm năm ba
miếng ăn qua ngày đấy nhá. Đấy không phải là một cuộc di cư tìm sống,
xây nhà dựng nghiệp, không phải là một ý thức đứng đắn, nhưng là cuộc
chui lòn tìm miếng ăn nhất thời mà thôi. Và những người vì lý do này, lý
do khác, phải trở lại nơi đó năm ba tuần, nửa tháng, cũng không thuộc
về câu hỏi này. Xác định như thế thì tôi không thấy bất cứ ai từ phía Cờ
Vàng tìm về với Cờ Đỏ để hưởng phúc. Tôi chỉ thấy người bỏ ra đi.
Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có
sự chết rình rập. Bởi vì, sau đêm Việt Minh về là ngay sáng hôm sau,
trên đầu cái cọc cắm giữa đường làng, nơi có nhiều người qua lại là có
cái đầu của một viên chức, hay của người có con em làm việc trong thành
phố, đôi khi là những phú hộ, treo ở đó. Rồi ở ngay phía bên dưới là
một cái lá Cờ Đỏ với hàng chữ có khi sai cả chính tả. “Việt Minh xử tử
Việt gian bán nước”! Ghê chưa! Họ có luật về đêm và luật ấy viết rằng.
Việt Minh đến gõ cửa nhà nào vào ban đêm thì sáng hôm sau sẽ có cái đầu
của nạn nhân treo ở ngã ba đầu làng hay giữa chợ! Chẳng cần nói thêm,
dân chúng nhìn thấy cảnh khủng bố ấy là mặt không còn giọt máu. Kẻ có
phương tiện thì âm thầm lặng lẽ bỏ làng mà về thành. Có nhiều nơi, cả
làng cùng bảo nhau bỏ chạy hay vào tề. Làng tôi ở Thái Bình là một làng
tề nổi tiếng. Sau ngày 20-7-54 cả làng đã di cư vào Nam.
Đến sau ngày 20-7-1954, không phải một vài người, một vài làng, mà khéo
toàn miền Bắc đã lên cơn sốt, bỏ chạy khi biết tin Cờ Đỏ sẽ kéo vào
thành phố. Kết quả, có khoảng một triệu người may mắn chạy thoát. Mà xúi
quẩy làm sao, đã chạy vào Nam rồi vẫn chưa yên. Ông già 54 vào chiều
ngày 30-4-1975, chống cái gậy ra đến đầu ngõ. Mắt mờ chưa nhìn rõ mặt
người, tai chỉ nghe được câu nói Việt cộng đã vào làng, cái gậy rời khỏi
tay. Ông run rẩy ngã sấp mặt xuống đất khi có tiếng hoan hô “cách mạng”
thành công! Tội cho ông, chạy trốn đã hai mươi năm ròng, vẫn không
thoát được cái ách cộng!
Trước khi đó, đồng bào Việt Nam từ Gio Linh, Quảng Trị đến cao nguyên
miền Trung, hay Bình Long, Tây Ninh, Xuân Lộc đã phải gồng gánh, bồng
bế nhau trên tay, trên vai, dù phải chết trên đường vì đạn pháo của Cờ
Đỏ đuổi theo. Họ vẫn quyết đạp lên cả xác người để tìm về nơi có Cờ Vàng
tung bay (1972). Rồi đến những đoạn đường… chết, Pleku, Kon Tum, Tư
Hiền, Hội An, Đà Nẵng… bạn thấy những gì? Tại sao đồng bào Việt Nam phải
đạp trên cái chết, chồng mất vợ, cha lìa con, anh mất em, người mất sản
nghiệp… để trốn cái Cờ Đỏ như thế? Rồi đến hàng triệu người ra khơi,
vượt biển trên những chiếc thuyền mong manh để đi tìm Cờ Vàng Tự Do? Mà
nào họ có được thoải mái ra đi đâu. Tất cả đều lặng lẽ trốn mà đi. Khi
đi, lại cũng đạp trên cái chết mà đi. Có người chưa kịp xuống thuyền,
một loạt đạn của Cờ Đỏ vang lên trong đêm tối, máu đỏ của người vượt
biên thấm vào lòng biển đen! Người sống vội lao xuống thuyền đã trúng
đạn. Sóng gào đưa họ vào lòng biển đen. Cõi chết hay Tự Do?
Khi nhìn lại những cảnh thực này, bạn có cho rằng người Việt Nam dại đột
khi đem mạng sống của mình ra để đánh đổi, một là Tự Do, hai là cái
chết, khi họ tìm về với Cờ Vàng hay không? Nếu không dại, có phải là họ
điên chăng? Nghe nói, những kẻ điên cũng sợ chết. Chỉ có người Việt Nam
yêu Tự Do mới không sợ chết, mới đạp trên cái chết mà đi khi thấy Cờ Đỏ
kéo đến. Tại sao? Tại vì nó còn kinh hoàng hơn cả sự chết!
Tóm lại, truyền thống, lịch sử văn hóa và thực tế trong đời sống chứng minh rằng:
Cờ Vàng là màu cờ mang theo Hồn Nước, mang theo trọn niềm
tin yêu, hy vọng của con dân và của núi sông Việt Nam hôm nay và mai
sau. Cờ Vàng là truyền thống, là lịch sử là nền văn hóa của chúng ta và
thuộc về chúng ta. Đó là màu cờ của sự sống của Tự Do của Độc Lập Dân
Tộc.
Cờ Đỏ là cờ của sự chết, của man rợ. Nó là màu cờ mang tâm
huyết của CS Phúc Kiến. Nó giết chết hết tất cả mọi niềm tin, mọi hy
vọng, mọi yêu thương, mọi nhân ái trong lòng người Việt nam. Nó là tội
ác và là gian trá. Nó là cờ của Nô Lệ, có truyền thống, lịch sử và nền
văn hóa thuộc về nô lệ. Không thuộc về truyền thống, lịch sử, văn hóa
Việt Nam.
Tháng 1, 2015
0 comments:
Post a Comment