·
“Đàng
sau cái hào nhoáng bên ngoài của những thay đổi vừa nói là một sự thật
còn đáng sợ hơn: Chủ nghĩa Tư bản Đỏ, một sự liên kết tuyệt hảo giữa nền
độc tài chuyên chế của CNCS và sự bóc lột ghê sợ của CNTB sơ khai tạo
nên một môi trường tuyệt vời cho tầng lớp cầm quyền
30-04-2015
Hôm
nay là ngày 30/4 rồi. Sáng nay, nhâm nhi cà phê và đọc được bài viết
dưới đây (đăng trên bbc) tôi thấy đáng để chúng ta suy ngẫm trong ngày
lịch sử này. Cái câu trong bài này làm ám ảnh tôi là:
“Đàng
sau cái hào nhoáng bên ngoài của những thay đổi vừa nói là một sự thật
còn đáng sợ hơn: Chủ nghĩa Tư bản Đỏ, một sự liên kết tuyệt hảo giữa nền
độc tài chuyên chế của CNCS và sự bóc lột ghê sợ của CNTB sơ khai tạo
nên một môi trường tuyệt vời cho tầng lớp cầm quyền.”
Ai
cũng thấy điều này. Tôi cũng thấy. Những người giàu nhất ngày nay là
con cháu của ai thì chúng ta đã thấy. Người dân bỏ ra 20 năm hi sinh
xương máu để 40 năm sau đem lại giàu có cho một nhúm nhỏ hoàng tử công
chúa Đỏ.
Câu
đó làm tôi nhớ đến bài nói chuyện hôm qua của một ông giáo sư tên là MF
Good (dân Queensland), rất nổi tiếng trong lĩnh vực vaccine. Ông được
Viện mời đến khai mạc một hội nghị, và sẵn dịp nói về công việc nghiên
cứu vaccine của ông. Vào bài giảng, ông hỏi diễn đàn là: các bạn nghĩ
rằng Úc là nước thuộc thế giới “developed countries” hay là “developing
countries”. Trước một câu hỏi lắt léo như thế, cử toạ ngần ngại trả lời,
nhưng ông nói “Thôi, để tôi trả lời”. Và, ông trả lời bằng cách trưng
bày một bức hình rất “ngon lành” trong một khách sạn sang trọng ở
Sydney; sau đó, ông trình bày hàng loạt bức hình mà người thổ dân ở
Queensland sống khổ cực ra sao, nhìn cái nhà bếp mà phát ghê, trẻ con
thì ngơ ngác cứ như là bên … Việt Nam. Thật ra, những bức hình đó – nếu
không biết chụp ở đâu – người ta sẽ thấy sao mà giống Việt Nam thế! Ông
kết luận rằng đừng có nghĩ những cái hào nhoáng ở Sydney, Melbourne,
Brisbane, v.v. mà nghĩ rằng mình là thuộc thế giới “developed
countries”. Sau đó, ông mới vào nội dung chính của bài giảng (tức là
vaccine).
Thành
ra, khi đọc câu trên của tác giả Đoàn Xuân Tuấn, tôi liên tưởng ngay
đến lời khuyên của ông MF Good ngày hôm qua. Đừng có nhìn cái hào nhoáng
bề ngoài của Việt Nam mà nghĩ rằng nước mình đã thoát nghèo. Những cửa
hàng LV, Herme, Rolex, Gucci, Chanel, v.v. ở trung tâm Quận 1 không thể
nào che dấu được những cái ổ chuột chỉ cách đó vài trăm mét. Chỉ cần đi
ra ngoài các quận thì sẽ thấy cuộc sống thật của người dân còn khốn khổ
ra sao. Ngay tại khu Quận 7, chỉ cần đi ra vài km là thấy ngay một thế
giới khác, thế giới của những người nghèo sống trong những căn chòi lụp
xụp, với thu nập 2USD/ngày. Tôi không biết những quan chức, những người
lái xe BMW, Mercedes, Audi, v.v. có chạnh lòng khi đi ngang qua những
khu đó.
Mà,
chẳng phải chỉ ở Sài Gòn mới có 2 thế giới như thế. Ở Nha Trang cũng
thế. Tôi từng lang thang ở Nha Trang cả 2 tuần, và nghiệm ra một điều là
có 2 Nha Trang trong Nha Trang: một bên mặt tiền là những khách sạn 4-5
sao sang trọng, hàng quán đắt tiền dành cho người Nga và Tây; và phía
bên trong là nơi luộm thuộm, thiếu trật tự, hơi dơ dấy và chủ yếu là nơi
sinh hoạt của người địa phương. Nhìn bề ngoài thì phồn vinh đấy, nhưng
nhìn sâu hơn thì sẽ cho ra một bức tranh hoàn toàn khác. Nơi đây chính
là phản chiếu của một Việt Nam thu nhỏ.Thật ra, bất cứ chỗ nào tôi đi
qua, từ Nam chí Bắc, đều có 2 thế giới: một thế giới của hào nhoáng, và
một thế giới của nghèo khổ. Cái hào nhoáng nó không đủ bóng để che lấp
cái nghèo khổ.
Trước
1975 thì người ta còn có lí do để đổ thừa cho bọn Mĩ Nguỵ chúng nó tạo
nên cái hào nhoáng bề ngoài. Trong thực tế, cái khái niệm (tôi nâng tầm)
“hào nhoáng bề ngoài” là chiêu tuyên truyền được giới tuyên truyền
ngoài Bắc ưa chuộng. Nó không sai, đúng là có hào nhoáng bên ngoài.
Nhưng nó sai ở chỗ là thời đó, người dân sống tương đối ấm no hơn bây
giờ. Nhưng cái hào nhoáng đó sau một thời gian nằm im thì nay đã sống
lại và còn ghê gớm hơn xưa. Người giàu là các thái tử đỏ. Người nghèo
đói thì muôn đời vẫn là dân đen. Đói đến nỗi phải đi làm thuê, thậm chí
bán thân, ở nước ngoài và bỏ mạng. Làm thuê và bán thân ở những nước mà
trước đây họ thấp kém hơn ta. Phải nói đó là một nỗi quốc nhục.
Câu
hỏi đụng chạm là: Ai phải chịu trách nhiệm cho nỗi quốc nhục đó. Nói
chuyện với các quan chức thì họ đổ thừa cho chiến tranh, cho việc Mĩ và
thế giới cô lập, cho lí do “khách quan”, vân vân. Nhưng tất cả những lí
do đó không thuyết phục. Mĩ Nguỵ không còn nữa. Chiến tranh đã chấm dứt
40 năm rồi. Đất nước đã thống nhất rồi. Tài nguyên đã và đang được khai
thác tối đa, gần cạn kiệt rồi. Nước ngoài họ cho vay liên tục. Không thể
đổ thừa cho Mĩ Nguỵ, chẳng thể đổ thừa cho chiến tranh, càng không thể
nói vì chúng ta không có tài nguyên. Nhìn sang các nước khác như Hàn
Quốc, Đài Loan, hay xa hơn chút là Nhật, người ta chỉ cần 20-30 năm để
hoán chuyển đất nước từ nghèo thành giàu. Còn VN thì đã 40 năm, mà xu
hướng nghèo vẫn chưa có dấu hiệu cải tiến.
Cụ
Nguyễn Du có một câu cũng hay “Đã mang lấy nghiệp vào thân / Đừng trách
lẫn trời gần, trời xa”. Tôi muốn hiểu theo “nghĩa hiện đại” là đã mang
cái gông/nghiệp chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản vào thân, thì đừng
trách ai làm cho mình nghèo. Chính mình làm cho mình nghèo. Nhà văn
người Nga Fyodor Dostoievsky (thuộc hàng “favorite” của tôi) có một câu
rất hay và tôi hay lấy ra làm châm ngôn là “We are all responsible for
everyone else” (chúng ta chịu trách nhiệm cho mọi người khác). Tôi nghĩ
câu đó rất đúng cho những người đang cầm quyền.
—
PS.
Kể thêm chuyện vui ngày hôm qua về ông Good và câu chuyện với con ông.
Ông kể rằng một hôm, đứa con trai 22 tuổi của ông mới xong cử nhân
thương mại hỏi: Ba nghiên cứu vaccine bao lâu rồi. Ông trả lời là trên
20 năm rồi. Ba tìm ra vaccine nào chưa? Chưa. Vậy thì hoặc là ba kém
quá, hoặc là ba nên tìm việc gì khác để làm đi, chứ trong doanh nghiệp
không có ai đầu tư suốt 20 năm cho ba như vậy đâu. Ông nói lúc đầu mới
nghe, ông cũng nóng lắm, nhưng nghĩ lại thì không nên đối thoại với bọn
làm kinh tế này được. Nhưng ông nói từ đó ông làm việc nhiều hơn, và mãi
đến 2 năm trước mới làm được một vaccine sốt rét, nhưng vẫn còn trong
giai đoạn đầu. Câu chuyện của ông làm tôi tự hỏi không hiểu sao ở VN
người ta nói là làm ra vaccine hoài. Chắc là các nhà khoa học vaccine ở
VN tài giỏi hơn các nhà khoa học Úc?
====
====
Chờ nhìn quê hương Việt Nam sáng chói
Đoàn Xuân Tuấn
Gửi tới BBC từ Portsmouth, Anh Quốc
Không
nhớ rõ năm nào của đầu thập niên 80 thế kỷ trước, với cây guitar, tôi
hát bài này trước lớp trong môt giờ họp với thầy chủ nhiệm.
Thầy
không biết tôi sẽ hát bài gì, đến khi tôi bắt đầu hát bài “Chờ nhìn quê
hương sáng chói” của Trịnh Công Sơn thì đột nhiên thầy tỏ ra e ngại
thấy rõ. Hát vừa xong cũng là lúc thầy nhẹ nhàng bảo: “lần sau em không
được hát những bài nhạc phản động như thế nữa”.
Thật
sự không giận thầy vì biết rằng nhạc miền Nam, dù là nhạc “phản chiến”
của Trịnh Công Sơn mà khi chính quyền chưa cho phép thì cũng là nhạc
phản động. Dù vậy chẳng hiểu sao mình vẫn mang cái cảm giác ấm ức sau
chừng ấy năm mỗi khi nhớ lại.
Cái mong chờ của Trịnh Công Sơn, theo nhiều người, dường như đã đến và đã qua đi được 40 năm.
Cũng
trong những ngày đó, chính Trịnh Công Sơn là người hân hoan lên đài
phát thanh Sài Gòn hát bài “Nối Vòng Tay Lớn” để chào mừng cái ngày ông
hằng chờ mong. Và bây giờ, như một điệp khúc tồi tệ, 30/4 lại về.
Chỉ
một tờ lịch mà có đủ khả năng khơi dậy bao loại cảm giác cho bao nhiêu
triệu con người Việt Nam của cả hai phía thắng thua. Giữa bao cảm xúc,
giữa bao câu chuyện của những người trong thế hệ trực tiếp ảnh hưởng bởi
ngày này là những câu hỏi chen lẫn những tiếng kêu gọi Hòa hợp Hòa giải
dân tộc. Nên chăng và đến bao giờ?
Tôi
nhớ lại cái cảm giác xúc động và mừng vui khi được xem TV chiếu trực
tiếp cảnh dân chúng đạp đổ bức tường Berlin tháng 11 năm 1989.
Là
người vừa thoát khỏi chế độ cộng sản Việt Nam chưa đầy một năm trước đó
và đã từng được theo dõi cuộc tàn sát đẫm máu sinh viên Trung quốc bởi
chính quân đội “nhân dân” Trung quốc trong sự kiện Thiên An Môn tháng Tư
1989, lẽ đương nhiên tôi cảm thấy phấn khích trước một điều dường như
không tưởng vào thời điểm đó: ngày cáo chung của Chủ nghĩa CS đã bắt
đầu.
Không
ai có thể nghĩ rằng Liên xô và khối XHCN lại có thể sụp đổ, sụp đổ chỉ
trong một thời gian ngắn với rất ít máu rơi như thế. Và lẽ đương nhiên,
tôi liên tưởng và hy vọng cho một Việt Nam. Tôi chờ, lại chờ…!
Nước Đức và Việt Nam
25
năm sau, tôi được đặt chân tới Berlin. Tới phần còn lại của bức tường
lịch sử, tới Checkpoint Charlie, đi ngang nơi lá cờ cuối cùng của
Kremlin vẫn còn được treo và được thăm nhiều nơi khác trong thành phố
nổi tiếng này. Và niềm xúc động của ngày xưa lại về dù lần này mùi vị có
hơi khác trước. Tôi may mắn có dịp đi đến nhiều nơi trong nước Đức và
tôi thực sự ngưỡng mộ và ganh tỵ với dân tộc này.
25
năm thống nhất Đông Tây, nước Đức đã trở thành một quốc gia với nền
kinh tế đứng thứ tư thế giới, một thiên nhiên tuyệt đẹp, một môi trường
trong lành. Tôi chưa hề nghe ở nước Đức có sự phân biệt giữa Đông và
Tây, giữa những người “Bên Thắng Cuộc” và “Bên Thua Cuộc”.
Bà
Angela Merkel, xuất thân là một người Đông Đức và từng là thành viên
của Đoàn Thanh Niên CS, thành viên của Đảng CS, bây giờ là vị Thủ tướng
xuất sắc của nước Đức thống nhất.
Và
tôi tự hỏi, nếu như đổi lại lịch sử, một nước Đức thống nhất nhưng “Bên
Thắng Cuộc” là nước Đức Cộng sản thì sẽ thế nào. Sẽ có bao nhiêu ngàn
người đi cải tạo? Bao nhiêu ngàn gia đình ly tán, bao nhiêu người trẻ sẽ
phải lớn lên trong sự dối trá, thờ ơ, trong sự e sợ trấn áp, hù dọa của
chính quyền, bao nhiêu cái đầu non nớt sẽ bị tẩy rửa… như Việt Nam của
tôi sau ngày “Thống nhất”?
Không
diễu binh, không tuần hành, không cờ quạt, không đổ tiền vào những “hội
thảo cấp nhà nước” để “đào sâu thêm ý nghĩa lịch sử của ngày thống
nhất”, vị Thủ Tướng Đức chỉ có một bài diễn văn ngắn gọn mà cảm động:
“…It was a day that showed us the yearning for freedom cannot be forever
suppressed – Đó là một ngày cho chúng ta thấy niềm khát vọng cho tự do
không thể bị đè bẹp mãi mãi”.
Chính phủ Việt Nam, với bao nhiêu công văn, nghị định… về “chủ trương Hòa Hợp Hòa Giải” đã thực sự đi đến đâu sau 40 năm?
Sẽ
chẳng đến đâu khi lời nói không đi đôi với việc làm, khi cứ tiếp tục
mang cái vênh vang của kẻ chiến thắng gí vào mặt những người mà cuộc đời
đã bị tù đày, ly tán, bị hoàn toàn đảo ngược sau cuộc chiến?
Và
nếu như có những tiếng nói phản đối thì lại khoác cho họ cái áo choàng
của lòng thù hận, của “thế lực thù địch điên cuồng chống phá Việt Nam”,
của “bọn chống cộng”…
Những
người lính của 40 năm trước nay đã mất đi nhiều, trong số đó có ba tôi,
dượng tôi. Phần lớn những ngưòi còn sống thì họ cũng đã già đi nhiều và
cùng với tuổi già thì hầu như ai cũng sẽ khoan dung hơn.
Nếu
nói rằng họ mang niềm thù hận cho cái biến cố năm 1975 thì có lẽ rất ít
trong số họ còn mang cái nỗi niềm đó trong đời lưu vong ở xứ người. Cứ
cho rằng họ chống đối vì thù hận thua cuộc là một nhận định cũ rích cho
ta thấy Chính quyền Việt Nam mới là kẻ sống trong quá khứ.
Vì
sao? Vì họ quên hoặc cố tình lờ đi rằng cái vấn đề chính là sự khác
biệt trong ý thức hệ. Họ không nhìn ra được những sự thay đổi của cả hai
phía sau thời gian 40 năm.
Năm
1975, dưới chiêu bài “giải phóng thống nhất đất nước”, họ đã thắng và
mục đích thật sự là đem CNCS bao trùm toàn cõi Việt Nam để xây dựng một
“thiên đường XHCN”. 40 năm qua, họ xây dựng cái thiên đường này như thế
nào?
Họ
đem cả một dân tộc đi thí nghiệm ra làm sao? Nhìn vào Việt Nam bây giờ,
ta không thể phủ nhận rằng nhiều thứ đã thay đổi: nhà cửa, đường sá,
cầu cống, sức ăn sức nhậu… Không thay đổi sao được khi nguồn tài nguyên
của một đất nước từng tự hào là“rừng vàng biển bạc” đang bên bờ cạn kiệt
chỉ sau bấy nhiêu năm?
Không
khá lên sao được khi nguồn viện trợ của “những kẻ chống phá đất nước”
hàng năm lên đến 12 tỷ đô-la trong lúc chính quyền VNCH chỉ cần có 350
triệu đô trong những năm tháng cuối để giữ vững cuộc chiến mà bị Mỹ từ
chối?
Đàng
sau cái hào nhoáng bên ngoài của những thay đổi vừa nói là một sự thật
còn đáng sợ hơn: Chủ nghĩa Tư bản Đỏ, một sự liên kết tuyệt hảo giữa nền
độc tài chuyên chế của CNCS và sự bóc lột ghê sợ của CNTB sơ khai tạo
nên một môi trường tuyệt vời cho tầng lớp cầm quyền.
Về
mặt Tư bản, họ tha hồ làm giàu, bóc lột tài nguyên và con người một
cách bất chính mà không phải e sợ luật pháp vì họ ở bên trên luật pháp,
bao che bởi luât pháp.
Về
mặt Đỏ: Chính thể chuyên chế thì bịt miệng, gieo rắc sợ hãi, cầm tù
ngược đãi mọi tiếng nói phản đối. Việt Nam sau 40 năm đang hướng đến mô
hình của nước Nga Putin.
Xã hội lý tưởng
Những người Việt ở Hải ngoại thì sao? Bao nhiêu năm trước họ dùng xương máu đấu tranh cho một nền công hòa non trẻ.
Thất
trận, họ bỏ xứ ra đi bằng nhiều cách và phần lớn đến sống ở những nước
Tư bản dân chủ. Nếu như xưa kia họ đấu tranh cho một lý tưởng còn khá mơ
hồ thì bây giờ họ được sống ngay trong chính cái xã hội lý tưởng đó.
Một
xã hội dù đương nhiên là không hoàn hảo nhưng vẫn đủ để họ ước mơ và
muốn đấu tranh cho những người còn ở lại trên quê hương cũng được sống
trong một xã hội tôn trọng quyền con người như vậy.
Trong những người tôi quen biết, không một ai mong về Việt Nam làm ông nọ bà kia.
Con cái, tương lai họ ở đây. Họ lên tiếng không phải thuần túy do thù hận mà vì họ là những người còn biết thao thức, lo lắng cho quê hương và lẽ ra Việt Nam phải cảm ơn họ vì chí ít họ còn biết quan tâm đến quê hương đất nước.
Con cái, tương lai họ ở đây. Họ lên tiếng không phải thuần túy do thù hận mà vì họ là những người còn biết thao thức, lo lắng cho quê hương và lẽ ra Việt Nam phải cảm ơn họ vì chí ít họ còn biết quan tâm đến quê hương đất nước.
Hãy
nên lo lắng về cái ngày không xa trong tương lai, khi mà thế hệ thứ
hai, thứ ba của người Việt hải ngoại không biết gì về quê hương. Khi đó,
có lẽ tiếng nói chống đối từ bên này sẽ tắt vì Việt Nam là một đất nước
xa lạ với chúng.
Khi
đó, cái “indifference”, cái sự thờ ơ sẽ thế chỗ và cùng với nó là sự
cạn kiệt của món tiền 12 tỷ/năm cộng với khối chất xám khổng lồ.
Vì
thế, bao giờ còn chưa có Dân chủ ở Việt Nam, chừng nào những tiếng nói
phản biện ở Việt Nam còn bị đặt vào cảnh lưu vong ngay trên chính quê
hương mình thì chừng đó chuyện Hòa Hợp Hòa Giải còn là điều viễn vông.
Viết
đến đây chợt nghĩ lại: xưa thầy la mình hát bài hát “phản động” là
đúng. Bức tường Berlin không tự đổ sụp nếu dân Đức cũng cứ ngồi chờ.
Thay đổi không tự nó đến và cái giá của Tự do không hề là miễn phí.
Nếu
cả một dân tộc đều chỉ biết ngồi chờ, từ tôi, anh, người mẹ, anh lính,
ngưòi tù… đều ngồi chờ thì cái ngày được nhìn quê hương sáng chói sẽ còn
bao nhiêu lần của 40 năm?
Không thể cứ mãi ngồi chờ, Việt Nam!
Tác giả bài viết: Nguyễn Văn Tuấn
--
0 comments:
Post a Comment